Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Thực trạng và giải pháp cho ngành dệt may việt nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.46 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt
Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục
vụ nhu cầu thiết yếu của con người, giải quyết được nhiều việc làm cho xã
hội.
Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những
nước đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nước ngày càng chặt chẽ. Với khoảng hơn 2000 doanh nghiệp, trong đó
đa số có quy mô vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ
công nghệ, tay nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín
thương hiệu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn
trong cuộc cạnh tranh với các tập đoàn dệt may lớn trên thế giới. Dệt may
Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt
may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia công, đặt mình vào vị trí đáy của
chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì thế, khi Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu
vào thi trường thế giới, sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi rất
nhiều nơi và Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất
thế giới nhưng giá trị thu về lại rất thấp.
Với mục đích tìm hiểu về những vấn đề nổi bật liên quan đến thực
trạng và giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn
cầu và với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Đoàn Thị Thu Hà, em đã quyết
định chọn đề tài này. Nội dung bài làm gồm có 3 phần:
I. Lý thuyết chung về chuỗi giá trị
II. Thực trạng về Ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn

cầu
III. Giải pháp để ngành dệt may Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào

chuỗi giá trị toàn cầu



Mặc dù bản thân đã cố gắng, nỗ lực hết mình nhưng trong quá trình viết
đề tài không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Vì vậy, em mong thầy
cô góp ý để lần sau em viết được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ
1. Thế nào là chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị, cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một
khái niệm từ quản lý kinh donah đầu tiên đã được mô tả và phổ cập bởi
Michael Porter vào năm 1985.
Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các
hoạt động của các chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được
một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều
giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại. Điều
quan trọng là không để pha trộn các khái niệm của chuỗi giá trị với các chi
phí xảy ra trong suốt các hoạt động. Cắt kim cương có thể đươco dùng làm ví
sụ cho sự khác nhau này. Việc cắt có thể chỉ tốn một chi phí thấp, nhưng việc
đó thêm vào nhiều giá trị cho sản phẩm cuối cùng, vì một viên kim cương thô
thì rẻ hơn rất nhiều so với viên kim cương đã đươc cắt.
Chuỗi giá trị là một liên minh giữa các doanh nghiệp liên kết dọc để đạt
những vị thế xứng đáng hơn trên thương trường, hợp tác tạo ra giá trị và giảm
chi phí. Các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị độc lập về mặt pháp lý, nhưng
trở nên phụ thuộc lẫn nhau, vì họ có những mục tiêu chung và hoạt động để
đạt được điều đó. Họ cùng làm việc với nhau trong thời gian dài, cùng thảo
luận và giải quyết vấn đề sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Mối quan hệ này
nhiều khi rất đơn giản, nhưng bền chặt hơn cả những hợp đồng lâu dài và
nhiều khi tạo nên những giá trị lớn hơn nhiều những gì nó vốn có.
Trong thời đại toàn cầu hóa, nền kinh tế của một quốc gia có xu
hướng bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế, mà hình thức hoạt động chính là

mạng lưới dày đặc các công ty mẹ và chi nhánh các công ty con, cháu ở rất
nhiều quốc gia khác nhau. Ở phạm vi quốc tế, các giá trị hình thành từ những
công đoạn khác nhau của một ngành kinh doanh nào đó sẽ trở thành dòng
chảy giá trị gia tăng toàn cầu, từ đó ra đời khái niệm “chuỗi giá trị toàn cầu”..


Theo Michael Porter, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động để đưa sản phẩm
từ một khái niệm cho đến khi đưa vào sử dụng và cả dịch vụ sau bán hàng.
Như vậy, chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản
xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối
cùng. Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý
hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu
(Global value chain). Theo cách nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia
trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối
sự phát triển của chuỗi giá trị.
2. Vai trò của chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là một hệ thống các hoạt động trao đổi được tổ chức chặt
chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, nhằm mục đích tạo ra giá trị và tính cạnh
tranh cao hơn. Đặc điểm chính của chuỗi giá trị là tạo ra liên kết doanh nghiệp
thông qua việc những bên tham gia vào chuỗi giá trị làm việc cùng nhau, trên
cơ sở liên kết công nghiệp - thương mại.
Tham gia liên kết chuỗi sẽ làm cho doanh nghiệp mạnh lên, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lợi ích mà chuỗi giá trị đem lại đó là: những cơ
hội tiếp cận thị trường, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nâng cao hiệu
quả sản xuất, thị trường được đảm bảo, cơ hội tạo ra những giá trị lớn hơn từ
một thị trường chung và khả năng quản lý rủi ro. Vào chuỗi doanh nghiệp có
thể chuyên môn hóa được mặt hàng mà mình có thế mạnh, trong khi vẫn nhận
được các đơn hàng đa dạng nhờ chia sẻ cho các doanh nghiệp khác trong
chuỗi; phân công lao động cụ thể hơn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng
lực; các doanh nghiệp có thể giảm được thời gian tìm kiếm người cung ứng,

tăng cường được sự ổn định, đảm bảo tiến độ, chia sẻ thông tin và tin cậy giữa
các bên tham gia.
Tuy nhiên, liên kết chuỗi tức là doanh nghiệp phải đồng sức, đồng lòng,
nếu vẫn giữ quan điểm “mạnh ai nấy làm” thì sẽ không thể thành công và mô


hình liên kết chuỗi không phát huy được hiệu qủa. Chuỗi liên kết đòi hỏi tinh
thần hợp tác rất cao của mỗi doanh nghiệp thành viên.


II. THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
1. Vài nét về ngành dệt may Việt Nam
Ngành Dệt may Việt Nam có bề dày lịch sử phát triển, đóng góp quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện rõ nét
ở hai điểm nổi bật là tạo việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động trong số khoảng
6 triệu lao động công nghiệp và định vị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
trong bản đồ thương mại quốc tế.
Khi Việt Nam tham gia trên một sân chơi rộng khắp toàn cầu, ngành dệt
may đã tận dụng những cơ hội mang lại và phần nào đã chuyển những thách
thức thành những kết quả đáng ghi nhận của ngành: Giá trị sản xuất tăng
17,9% so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu dệt may chiếm từ 15-17 trong
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2007, ngành đạt kim ngạch xuất
khẩu 7,78 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006, tăng hơn năm 2006 gần 2tỷ
USD. 9 tháng đầu năm 2008 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do suy thoái kinh
tế tại Hoa Kỳ… dẫn đến mức tiêu dùng và nhập khẩu dệt may giảm mạnh tại
Hoa Kỳ và nhiều nước khác cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng lên. Hiện nay,
ngành Dệt May Việt Nam đang đứng thứ 10 trong số 153 nước xuất khẩu dệt
may trên thế giới, đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, sau
dầu thô.

Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng vẫn đang là vấn đề lớn đặt ra đối với
ngành Dệt May Việt Nam. Công nghệ nhuộm và may các sản phẩm cao cấp
chậm được cải tiến, chủ yếu là công nghệ trung bình. Giải quyết được việc
làm cho hơn 2,2 triệu lao động nhưng tỷ lệ lao động có tay nghề cao, có kỹ
năng kỹ xảo là rất thấp. Công nghiệp phụ trợ ngành Dệt May chưa phát triển,
mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong nhiều năm. Năm 2007, Ngành vẫn phải nhập
khẩu tới 90% bông, gần 100% các loại xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc
nhuộm, máy móc, thiết bị và phụ tùng, 70% vải và 50 đến 70% các loại phụ


liệu cho may xuất khẩu. Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh ngành Dệt May thấp; giá trị gia tăng (VA) thấp, tỷ suất
giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất công nghiệp (VA/GO) có xu hướng giảm,
tỷ suất lợi nhuận có được từ khoảng 5% đến 10%, chủ yếu tập trung vào khâu
gia công. Phân bố không gian chưa thực sự hợp lý cũng đang là sức ép lớn
cho xã hội và môi trường.
Gia nhập WTO, ngành Dệt May Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi và cơ
hội; chủ động hơn trong quá trình phát triển thị trường nước ngoài, đặc biệt là
giảm áp lực từ các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài, giảm chi phí
sản xuất và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm thông qua công cụ giá cả.
Tuy nhiên, ngành sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khi mà chúng ta vẫn là
“công xưởng” của thế giới. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành Dệt May,
Việt Nam chỉ mới tham gia chủ yếu vào khâu gia công sản phẩm cuối cùng
với giá trị gia tăng rất thấp. Do đó, việc thâm nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị
toàn cầu này là hết sức cần thiết để ngành Dệt May phát huy hơn nữa vai trò
trong nền kinh tế.
2. Dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
2.1 Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Trước đây, ngành may mặc toàn cầu đặc trưng bởi rất nhiều nước xuất
khẩu do hệ thống quota MFA tạo ra, nhưng mức độ tập trung xuất khẩu đang

tăng nhanh. Chuỗi cung ứng hàng may mặc được đánh dấu bằng sự chuyên
môn hóa đáng kể theo nước. Các nước có thu nhập cao hơn thường thống lĩnh
các lĩnh vực cần đầu tư vốn nhiều hơn, trong khi các nước có thu nhập thấp
hơn tập trung vào lĩnh vực cần nhiều lao động. Lĩnh vực hoạt động cần nhiều
lao động nhất là sản xuất may mặc, sau đó là dệt (sợi và vải). Những lĩnh vực
cần vốn đầu tư lớn nhất như sản xuất xơ sợi nhân tạo và chế tạo thiết bị là
thượng nguồn, nơi mà các hàng rào ngày càng cao hơn. Do các nước phát
triển giàu hơn và lương tăng, lợi thế so sánh trong sản xuất bị mất dần đi, và


phải chuyển trọng tâm sang các sản phẩm có giá trị cao hơn hoặc sang các sản
phẩm chế tạo với sự tập trung lao động thấp hơn.
Việc phân công lao động giữa các nước tại những mức độ phát triển
khác nhau hình thành nên sự nâng cấp công nghiệp trong chuỗi giá trị may
mặc. Những lĩnh vực chính trong chuỗi may mặc-như may mặc, dệt, xơ sợi và
thiết bị được sắp đặt dọc theo chiều ngang và nó phản ánh mức độ giá trị gia
tăng tương đối từ thấp lên cao khi tăng vốn đầu tư. Ở Châu Á Các nước được
nhóm theo trục dọc theo mức độ phát triển tương đối của mình, với Nhật bản
đứng đầu, Trung quốc và Ấn độ ở mức giữa, và các nước xuất khẩu kém phát
triển nhất như Bangladesh, Cambodia, và Việt nam đứng cuối.
Đầu tiên, các nước có xu hướng tiến bộ từ các lĩnh vực có giá trị gia
tăng thấp lên cao trong chuỗi thời trang theo thời gian. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của việc xem xét toàn bộ các bước giá trị gia tăng trong quá trình
sản xuất (nguyên liệu, cấu kiện, hàng thành phẩm, dịch vụ liên quan, và thiết
bị ) hơn là chỉ xem xét sản phẩm cuối cùng. Thứ 2 là có sự phân công lao
động khu vực trong chuỗi giá trị may mặc, nơi các nước có mức độ phát triển
khác nhau tạo thành 1 hệ thống thang bậc nhiều lớp với vai trò xuất khẩu khác
nhau (ví dụ Mỹ thường đưa ra thiết kế sản phẩm và đơn hàng lớn, Nhật bản
cung cấp thiết bị may, các nền kinh tế mới nổi tại Đông Á (NIEs) cung cấp
vải, và các nền kinh tế châu Á khác có mức lương thấp như Trung quốc,

Indonesia, hoặc Việt nam may hàng may mặc). Sự nâng cấp công nghiệp xảy
ra khi các nước thay đổi vai trò của mình trong hệ thống thang bậc xuất khẩu
đó. Cuối cùng là, các nền kinh tế tiên tiến như Nhật bản và các nước NIE
Đông Á không muốn rời xa ngành này khi hàng thành phẩm của họ trong
chuỗi đã trở nên chín muồi, theo mô hình “vòng đời sản phẩm”, nhưng họ lại
đầu tư vốn dựa trên kiến thức sản xuất và hệ thống phân phối của mình, do


vậy chuyển dịch sang những giai đoạn giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi
may mặc.
Hiện nay, Trên thị trường dệt may toàn cầu, Trung Quốc là lực lượng
chính- là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất Thế giới. Tuy nhiên, Nhiều
nước xuất khẩu hàng dệt may khác có chi phí lao động thấp hơn Trung Quốc
như Bangladesh, Sri Lanka và Việt Nam đã bắt đầu mở rộng thị phần. Bên
cạnh đó, nhiều thị trường nhập khẩu lớn trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật
Bản cũng muốn giảm sự phụ thuộc nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc và
đã chuyển hướng hợp tác sang các nhà sản xuất châu Á khác.
Theo các nghiên cứu đã được công bố, chuỗi giá trị của ngành dệt may
bao gồm các khâu: sản xuất nguyên, phụ liệu; thiết kế thời trang; may gia
công; marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng; và được tính toán, phân
chia giá trị theo biểu đồ dưới đây:

Giá trị đóng góp
vào SP

Từ biểu đồ trên cho thấy, giá trị gia tăng của các công đoạn góp phần
vào giá trị sản phẩm.
2.1.1 Thiết kế mẫu mã
Đầu tư để làm chủ khâu thiết kể thời trang, có thể chủ động đưa ra các
mẫu mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới. Khi được thị trường chấp

Công đoạn
nhận thì giá trị của khâu này trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm
5%.
Thiết kế
5%

Sx nguyên
phụ liệu
18%

Gia công
7%

Marketing và phân phối
70%


Đây là khâu rất quan trọng đòi hỏi trình độ cao và tiền công cao hơnkhâu có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, nhưng lại là khâu yếu nhất của ngành may
mặc Việt Nam. Chỉ khoảng 30% giá trị xuất khẩu của ngành dưới dạng FOB
(tức là có tham gia vào khâu ý tưởng của thiết kế) còn lại xuất khẩu dưới dạng
hình thức gia công. Thiết kế kiểu dáng chủ yếu được làm ở các trung tâm thời
trang thế giới tại Paris, London, New York... ở khu vực Mỹ, Châu Âu. Vải
được sản xuất ở Trung Quốc, các phụ liệu đầu vào khác được sản xuất tại Ấn
Độ.
2.1.2. Sản xuất nguyên, phụ liệu
Phát triển sản xuất nguyên phụ liệu , kể cả đầu tư để phát triển thượng
nguồn ( bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác. Làm chủ được khâu này giá
trị trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 18%.
Những năm gần đây, công nghiệp lọc hoá dầu phát triển đã mở ra cho
chúng ta một triển vọng mới trong việc tự túc các loại bông xơ nhân tạo. Tuy

nhiên, việc phát triển bông tự nhiên, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng
trong nhiều năm (khoảng hơn 10 năm), nhưng kết quả còn rất khiêm tốn. Hiện
nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần đến 95% xơ
bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt
thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như
hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài
2.1.3. Sản xuất gia công
Khâu gia công sản phẩm, toàn bộ khâu này( cắt, may, hoàn thiện, đóng
gói, vận chuyển…) chiếm giá trị là 5 -7 % trong chuỗi giá trị toàn cầu ( bao
gồm cả các thủ tục xuất nhập khẩu).
Sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở những nước có chi phí nhân công
thấp như Việt Nam, Trung Quốc. Đây là khâu có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất
chỉ chiếm 5-7%. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho


khách hàng theo hình thức CMT hoặc CMP có hàm lượng giá trị gia tăng rất
thấp. Có tới 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham gia vào khâu này,
2.1.4. Marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng
Cuối cùng vươn lên, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để
bán sản phẩm cho các nhà buôn( không phải qua các trung gian môi giới)
thậm chí có thể bán đến tận tay người tiêu dùng… Giá trị của khâu này lên tới
70% trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khâu thương mại hoá, ngành Dệt May Việt Nam mới chỉ thực sự
mạnh về khâu thương mại hoá trong nước, thương mại hoá ở các thị trường
xuất khẩu còn yếu. Mặc dù đã bước đầu có xuất khẩu dạng FOB, song tỷ lệ
rất thấp, trong các doanh nghiệp may, chủ yếu vẫn là xuất khẩu dạng CIF.
Tại thị trường trong nước, nhiều doanh nghiệp may đã có những quyết
sách marketing thành công; Tổng công ty May Việt Tiến với chiến lược
Marketing chiếm lĩnh thị trường phía Bắc, Công ty Cổ phần May 10 cũng có
danh tiếng tại thị trường phía Bắc... Tuy nhiên, còn rất nhiều doanh nghiệp

đang yếu năng lực marketing – công cụ nền tảng của việc tạo dựng hệ thống
phân phối hiệu quả. Khâu phân phối chưa có sự tham gia của các hãng phân
phối lớn và chuyên nghiệp, chủ yếu các doanh nghiệp tự thực hiện phân phối
thông qua hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các đại lý nhỏ lẻ của
tư nhân.
Trong chuỗi giá trị, Các nhà phân phối thường chính là các nhà thiết kế,
vì hơn ai hết, chính là người tường tận nhất nhu cầu và điều kiện để thỏa mãn
nhu cầu khách hàng. Vì thế, sau khi Việt Nam gia công hoàn thiện, sản phẩm
được đưa trở lại thị trường do các công ty thương mại danh tiếng đảm nhận
bán ra.Các chuyên gia trong ngành dệt may ước tính, tới 70% lợi nhuận (tính
trên 1 sản phẩm may mặc từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chuỗi giá trị).
Và để tăng giá trị gia tăng cho toàn Ngành, việc chú trọng vào khâu thương


mại hoá nhằm gia tăng giá trị cảm nhận của sản phẩm, tăng khối lượng tiêu
thụ, kích thích tiêu dùng thực sự cần chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá.
2.2 Việt Nam chủ yếu tham gia vào khâu sản xuất( gia công) nên
tạo ra giá trị gia tăng rất ít
Sơ đồ về khâu gia công ở Việt Nam:
Cung cấp các yếu tố đầu vào của sản phẩm dệt may

Doanh
nghiệp Dệt
may Việt
Nam (cắt
may, hoàn
thiện)

Đối tác
nước ngoài

(người đặt
gia công)

Sản phẩm dệt may hoàn thiện

Trở thành thành viên của WTO, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu
tăng lên. Tuy nhiên, để có thể phát huy được ưu thế này, ngành Dệt may Việt
Nam còn nhiều vấn đề cần phải tập trung giải quyết. Thực tiễn cho thấy, để có
thể xuất được số hàng dệt may trị giá 7,75 tỉ USD, Việt Nam phải chi tới 5,25,3 tỷ USD để nhập nguyên phụ liệu sản xuất. Như vậy, giá trị mà ngành Dệt
may tạo ra để thực hưởng vẫn quá khiêm tốn, chỉ khoảng 25-30% kim ngạch
xuất khẩu. Đây cũng chính là tồn tại mà ngành này vẫn chưa xóa được đặc thù
của mình là gia công. Phần nhiều các sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất
khẩu sang các thị trường như EU, Hoa Kỳ được tiến hành qua một trung gian
thứ ba là các đối tác như Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài
Loan... Với vai trò là những nhà thầu phụ (sub- suppliers), các doanh nghiệp
xuất khẩu may mặc của Việt Nam cung cấp hàng hóa theo các hợp đồng ký
kết với những đối tác này và giao hàng thẳng cho các nhà bán lẻ của Hoa Kỳ
và EU hoặc cũng có thể giao trực tiếp cho những đối tác này. Vì vậy, hình
thức xuất khẩu này làm cho việc xuất khẩu hàng may mặc của các doanh


nghiệp may Việt Nam trở nên thụ động, phụ thuộc vào nước thứ ba, dẫn đến
giá trị xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế.
Hiện nay, hoạt động trong khu vực hạ nguồn của dệt may Việt Nam chủ
yếu là gia công cho khách hàng theo hình thức CMT hoặc CMP có hàm lượng
giá trị gia tăng rất thấp. Có tới 90% doanh nghiệp dệt may của Việt Nam tham
gia vào khâu này, các doanh nghiệp gia công cho các thương hiệu nổi tiếng và
hầu như không có đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Phần
đóng góp của phía Việt Nam vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào
khoảng 11%, đối với áo sơ mi là 25%, quần dài là 15% và các sản phẩm khác

luôn dưới mức 25%. Trong năm 2006, ngành dệt may VN xuất khẩu hàng hóa
trị giá 5,83 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng 20,5% so với năm trước và
chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên toàn bộ
thị trường trong nước chỉ đạt doanh số khoảng 1,8 tỷ USD. Như vậy, các
doanh nghiệp VN không có vai trò lớn trong quá trình hình thành và phân
phối các sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới. Sự xuất khẩu dệt may
bằng con đường gia công làm các doanh nghiệp VN không được tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng cho nên không có khả năng dự đoán nắm bắt nhu cầu để
chuẩn bị kế hoạch sản xuất, dẫn đến bị động khi có sự thay đổi nhu cầu, làm
các doanh nghiệp dệt may bị phụ thuộc chặt chẽ vào đối tác đặt hàng gia
công. Khi lợi thế về chi phí gia công không còn thì các doanh nghiệp VN khó
có thể tự xuất khẩu vào thị trường này. Vì khi chúng ta gia công cho nước
ngoài hàng hoá đó không được gán nhãn mác của các doanh nghiệp dệt may
VN mà chúng mang nhãn mác của các nhà phân phối. Do hình thức gia công
xuất khẩu các doanh nghiệp chỉ thực hiện duy nhất công đoạn sản xuất còn lại
các công đọan khác là hoàn toàn do đối tác đặt gia công chịu trách nhiệm.
Cho nên hình thức gia công này là tương đối an toàn, và phù hợp với các DN
dệt may có quy mô nhỏ và lượng vốn có hạn hẹp vì nó tránh được những rủi


ro trong quá trình nghiên cứu thiết kế sản phẩm, cũng như quá trình phân phối
sản phẩm. Tuy nhiên cùng với việc tránh được các rủi ro thì giá trị xuất khẩu
mang lại cũng thấp.
Đứng trên giác độ của các chuyên gia kinh tế cho thấy, mặc dù giá trị
gia tăng không cao nhưng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh
tranh hơn bởi các “cường quốc may mặc”, họ cạnh tranh nhau khốc liệt ở giai
đoạn thiết kế và phát triển phụ trợ mà tạo ra nhiều thị trường ngách cho các
nước trong đó có Việt Nam. Với việc hội nhập sâu rộng của nước ta đã tạo
cho ngành Dệt may Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực để phát triển và khai
thác triệt để các lợi thế trong khâu này. Trong ngắn hạn, quan điểm này cố

gắng phản ánh đúng thực tiễn nhưng nó sẽ không phù hợp, thậm chí sẽ có
định hướng sai lệch cho phát triển ngành Dệt may VN trong tầm nhìn dài hơn.
Khác với các ngành công nghiệp khác, công nghệ không phải là đòi hỏi có
tính sống còn đối với các doanh nghiệp dệt may. Theo đó, các doanh nghiệp
không quá khó khăn trong quá trình tiếp cận các yếu tố đầu vào, điển hình là
nguồn nhân lực; và với bề dày kinh nghiệm, ngành Dệt may VN cần phải phát
triển các khâu chủ chốt mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị may
mặc toàn cầu.
2.3 Nguyên nhân
2.3.1 Thiết bị công nghệ lạc hậu
Thiết bị công nghệ ngành dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu
đồng bộ, sản phẩm làm ra không có năng lực cạnh tranh. Máy móc thiết bị
ngành dệt phần lớn là cũ kỹ có xuất xứ từ nhiều nước, có gần 50% thiết bị đã
sử dụng trên 25 năm nên hư hỏng rất nhiều làm cho năng suất thấp chất lượng
sản phẩm thấp, giá thành cao. Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh
nghiệp đã sử dụng nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm
thiết bị, góp phần nâng cao chất lượng công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm.
Hàng ngàn máy dệt không thoi, có thoi khổ rộng, nhiều bộ đồ mắc mới, hiện


đại đã được nhập về , thay thế cho những thiết bị quá cũ để nâng cấp mặt
hàng dệt nhưng cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Toàn ngành đã
trang bị thêm được trên 20.000 máy may hiện đại để sản xuất các loại mặt
hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại… cải thiện một
bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa. Ngành may liên tục đầu tư
mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng yêu cầu chất lượng của thị
trường thế giới. Một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền đồng bộ, sử dụng
nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi,
may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là… nhưng cũng chưa đáp
ứng được yêu cầu sản xuất ngày càng cao.

2.3.1 Nguyên vật liệu kém chất lượng, phải nhập khẩu nhiều
Theo thống kê, năm 2006 nếu như ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu
hàng hóa trị giá 5,83tỷ USD thì dệt may phải chi tới 5,65 tỷ USD cho nhập
khẩu, chủ yếu là vải( chiếm 52%), nguyên phụ liệu(34%), sợi(10%) và bông
xơ(4%). Các mặt hàng này đa phần nhập từ Trung Quốc, Đài Loan và các
nước Asean. Trong tháng 7 năm 2007, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu
dệt may gồm bông, sợi, xơ đã tăng 32% so với cùng kì năm 2006, đạt trên 200
triệu USD. Tháng 6 đạt 250 triệu USD, tăng 42,9% so với cùng kì năm trước.
Tính chung 7tháng đầu năm, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt khoảng
1,3 tỷ USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2006. Sáu tháng đầu năm
2010, xuất khẩu hàng dệt may đạt trên 4,8 tỷ USD nhưng nhập khẩu nguyên
phụ liệu cũng vượt hơn 4 tỷ USD, nếu trừ 800 triệu USD là nhập khẩu của
ngành da giày thì thực tế còn lại 3,2 tỷ USD.
Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần
đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và
60% vải dệt thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may
gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, để sản xuất ổn định, hầu
như các công ty ngành dệt may đều phải chấp nhận gia công cho đối tác nước


ngoài, dù lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung ứng kịp thời, đầy
đủ nguyên phụ liệu.
Còn sản xuất theo dạng FOB( mua đứt, bán đoạn), lợi nhuận cao hơn,
nhưng bù lại phải chịu khó tự tìm nguồn nguyên phụ liệu bằng cách nhập
khẩu.
Ngành dệt may Việt Nam chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ
liệu và điều này cũng không có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ
sức sản xuất. Về cơ bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội
địa có thể đáp ứng đến 70% nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành
phẩm của đối tác nước ngoài cao, nguyên phụ liệu Việt Nam chưa chưa đáp

ứng được, tất phải nhập từ nước ngoài. Việt Nam hiện chưa có đội ngũ thiết
kế kiểu dáng nguyên liệu (vải) chuyên nghiệp.
Tất cả các nước đều phải nhập khẩu nguyên phụ liệu, kể cả Trung Quốc
vì nhu cầu trên thế giới rất đa dạng, không thể cùng lúc đáp ứng hết được.
Vấn đề là tập trung nội lực phát triển sâu, mạnh, có định hướng vào loại
nguyên liệu nhất định nào đó để nó trở thành nguồn cung cấp chính cho thị
trường thế giới.
Nguyên nhân khiến Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu
cho ngành dệt may là do sản lượng lẫn diện tích trồng bông trong nước còn
quá thấp. Trong khi đó, có một số nguyên phụ liệu khác mà trong nước đã sản
xuất được thì giá thành lại cao hơn sản phẩm nhập khẩu tới 5%, hơn thế lại có
chất lượng không ổn định.
Hiện nay, các doanh nghiệp dệt lớn tại Việt Nam chủ yếu cung cấp
được vải sơ mi, ka ki, dệt thun. Vải thời trang sản xuất trong nước rất hiếm.
Nguyên phụ liệu trong nước chủ yếu là nút, chỉ, dây kéo, vải lót, bao bì.
Trong chuỗi sản xuất liên hoàn từ sản xuất bông, xơ, kéo sợi, dệt,
nhuộm, hoàn tất vải, không chỉ thiếu trầm trọng nguyên liệu bông, xơ đầu vào


mà ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn nhiều hạn chế trong khâu nhuộm
và hoàn tất vải.
Diện tích, năng suất sản xuất bông, xơ tại Việt Nam hiện nay chỉ đáp
ứng được 2% nhu cầu bông, xơ cho ngành dệt sợi.
Việc còn yếu khâu nhuộm, hoàn tất vải cũng làm ảnh hưởng đến phát
triển công nghiệp thời trang. Vì đây là công đoạn quyết định chất lượng, mẫu
mã của vải để có thể cạnh tranh với hàng nước ngoài. Nếu có được nguồn
nguyên phụ liệu tại chỗ sẽ giúp các nhà thiết kế chủ động tìm nguyên liệu cho
thiết kế.
2.3.3 Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ nhưng trình độ chưa cao đặc
biệt là thiếu các nhà thiết kế chuyên nghiệp

Dệt May hiện là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Lao
động của ngành Dệt May chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công
nghiệp và gần 5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc. Gần 80% là lao
động nữ, trình độ văn hoá của người lao động tương đối cao chủ yếu là đã tốt
nghiệp PTTH, PTCS. Lao động trực tiếp của ngành đa số tuổi đời còn rất trẻ,
tỷ lệ chưa có gia đình cao sẽ là lợi thế cho việc đào tạo và nâng cao năng suất
lao động. Lao động dệt may VN có đôi bàn tay khéo léo, tiếp thu kiến thức
mới nhanh nhưng do chưa được đào tạo bài bản, hệ thống nên trình độ của họ
còn rất hạn chế. Hơn nữa, do điều kiện làm việc chuyên môn hóa cao nên
cường độ làm việc căng thẳng. Trong khi đó, giá trị gia tăng trong mỗi sản
phẩm là rất ít do phần lớn là làm gia công thế nên lương của công nhân ngành
may lại rơi vào nhóm có thu nhập thấp.Tình trạng này dẫn đến thiếu công
nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Các doanh nghiệp liên tục phải tuyển lao
động, chủ yếu là lao động phổ thông rồi đào tạo nhưng có khi số lao động ra
đi còn nhiều hơn số lao động tuyển vào. Nhiều cuộc đình công tự phát xảy ra


tại các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung đã ảnh hưởng lớn đến việc
sản xuất kinh doanh của nhiểu doanh nghiệp.
Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và
kĩ thuật; thiếu các nhà thiết kế mẫu thời trang chuyên nghiệp nên khả năng
gắn kết thời trang với sản xuất, đạt trình độ quốc tế còn kém. Hầu hết, các cán
bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp dệt may đều có trình độ đại học,
cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cách công
nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ
thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn
của sản phẩm cụ thể còn như việc thiết kế mẫu, kiểu dáng sản phẩm còn rất
kém. Vì thế, sản phẩm làm ra không cạnh tranh được với các sản phẩm của
nước ngoài.
Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kỹ thuật

và các nhà quản lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại,
đặc biệt là nếu như họ được đào tạo từ các quốc gia nổi tiếng về thời trang,
công nghệ. Những bất cập về nguồn nhân lực, đặc biệt là về chất lượng nguồn
nhân lực đã làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của toàn ngành. Mục tiêu
hiện nay mà ngành dệt may đặt ra cho mình là phấn đấu đứng trong top 10
nước và tiến tới là top 5 nước xuất khẩu dệt may lớn của thế giới, và định
hướng phát triển của ngành là theo hướng thời trang – công nghệ - thương
hiệu. Với hướng đi như vậy nguồn nhân lực của toàn ngành dệt may phải
hướng đến chất lượng cao, nguồn nhân lực cần là yếu tố quan tâm số một
trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh, đào tạo cần được coi là giải pháp cơ bản
và quan trọng nhất để nguồn nhân lực đạt đến chất lượng mong muốn.
I.3.4 Mạng lưới phân phối còn hạn chế, marketing chưa chuyên
nghiệp
Hiện nay hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợ may mặc trong nước
chưa có tổ chức, để thả nổi, một số tư thương còn làm giả nhãn mác một số


công ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa mở
rộng và quản lý tốt các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước. Bên cạnh
đó, ngành dệt may Việt Nam phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh rất
mạnh như Trung Quốc, EU, Hòa kỳ..không chỉ trên thị trường quốc tế mà còn
trong thị trường nội địa.
Có lẽ cũng do chi phí cho các hoạt động trong khâu này không phải là
nhỏ, chúng ta phải thường xuyên có các thương nhân có kinh nghiệm, tham
gia hầu khắp (nếu không muốn nói là tất cả) các cuộc trình diễn thời trang hay
hội chợ triển lãm quốc tế, để vừa chọn được mẫu của các nhà thiết kế, mang
đi chào hàng, rồi tìm các nhà buôn để có thể ký hợp đồng bán hàng… (chưa
nói tới việc cần có mạng lưới để bán được hàng đến tay người tiêu dùng, thì
lợi nhuận thu được sẽ cao hơn). Tất cả những công việc của khâu này không
chỉ là khó khăn về tài chính, về nghiệp vụ và kinh nghiệm kinh doanh, mà đi

kèm với nó, như trên đã nói là rủi ro cao trong quá trình vận chuyển và bảo
hiểm hàng hoá đến các địa điểm phân phối. Chính vì vậy nó chiếm đến 70%
giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may.
3.Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành dệt may Việt
Nam
3.1 Điểm mạnh
Giá công nhân của ngành may mặc của Việt Nam rẻ nhất so với các
nước trong khu vực và thế giới. Tiền lương công nhân trong ngành hiện nay
chỉ cao gấp 2 lần tiền lương tối thiểu ( khoảng 150000VND). Giá nhân công
rẻ-> chi phí thấp-> giá thành sản phẩm rẻ-> tạo lợi thế cạnh tranh trong sản
phẩm may mặc.
Người lao động cần cù chăm chỉ và khéo léo nên có những sản phẩm
yêu cầu tay nghề thủ công rất độc đáo đặc sắc và có sự khác biệt -> tạo lợi thế
cạnh tranh cũng như vậy giúp Việt Nam có những thuận lợi lớn trong xuất
khẩu và trong việc tạo dựng các làng nghề để phát triển ngành.


Ngành may mặc Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, số lượng các
công ty liên tục tăng qua các năm và quy mô của công ty ngành càng lớn cả
về mọi nguồn lực. Giá trị xuất khẩu 260 triệu USD/tháng và tăng ở các thị
trường chính là Mỹ, EU, Nhật
Ngành dệt may Việt Nam có thế mạnh trong việc sản xuất các sản phẩm
dệt kim. Đây là chủng loại mà người tiêu dùng Mỹ, EU rất ưa chuộng
Ngành may mặc được đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại với những máy
cắt, máy ép, là hơi…giảm bớt các công đoạn thủ công.
Một số thương hiệu được khẳng định trên thị trường trong và ngoài
nước: May 10, May Việt Tiến, Dệt Kim Đồng Xuân, Gấm Thái Tuấn, áo sơ
mi An Phước… Những thương hiệu này không chỉ đứng vững trong thị
trường trong nước mà còn giúp ngành dệt may Việt Nam tạo dựng tên tuổi
trên thị trường nước ngoài

I.4 Điểm yếu
Nguyên vật liệu ngành vẫn còn phải nhập khẩu và ngành dệt có tốc độ
tăng trưởng chậm hơn ngành may nên ngành may không có sự chủ động trong
sản xuất kinh doanh. Tình trạng này còn làm ảnh hưởng tới các đơn đặt hàng
về thời gian, chất lượng và hiệu quả kinh tế tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm
ngành may còn thấp và hiệu quả kinh tế chưa cao.
Giá lao động rẻ nhưng chất lượng lao động không cao, đặc biệt lao
động có trình độ chuyên môn thấp chiếm 60% nên nâng suất lao động thấp, so
với các nước trong khu vực thì năng suất lao động của ngành dệt may nước ta
chỉ bằng 2/3. Lương thấp gây ra tình trạng di chuyển lao động trong cùng
ngành hoặc ra khỏi ngành làm cho việc đào tạo chuyên môn gặp nhiều khó
khăn. Ngoài ra công ty có khả năng xuất khẩu hàng may mặc và gia công là
chủ yếu chứ không thực hiện xuất khẩu trực tiếp.
Tuy ngành dệt may có sự đầu tư lớn nhưng chưa đồng bộ. Có những
loại máy móc thiết bị đã quá lạc hậu nhưng còn tận dụng nên năng suất không
cao.


Chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho ngành dệt may của ngành
dệt may của Việt Nam nên chưa có hệ thống các kênh phân phối rộng khắp,
kể cả thị trường nội địa và nước ngoài mà chỉ có các cửa hàng của công ty tự
lập để tiêu thụ sản phẩm. Do vậy việc tiêu thụ còn yếu. Đặc biệt các công ty
không có sự phối hợp với nhau trong việc quảng cáo để cạnh tranh trong nội
bộ tại thị trường trong nước.
Khả năng tự thiết kế còn yếu, phần lớn là làm theo mẫu mã đặt hàng
của phía nước ngoài để xuất khẩu
Chưa tập trung nghiên cứu và đầu tư nhu cầu thị trường nên nhiều đoạn
khúc thị trường còn bỏ trống tạo điều kiện cho nhiều sản phẩm ngoại thâm
nhập sâu vào thị trường trong nước như các sản phẩm: chăn, ga, gối..hầu hết
là sản phẩm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo. Một số sản

phẩm có chất lượng cao có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng khó tính: Mỹ,
Nhật nhưng lại không có mặt tại thị trường trong nước gây ra hiện tượng
không tôn trọng khách hàng trong nước và bỏ trống thì trường với hàng triệu
khách hàng tiềm năng.
Chi phí cho nhân công rẻ nhưng chi phí bình quân / 1 đơn vị sản phẩm
vẫn cao. Do đó giá của chúng ta vẫn cao hơn so với Ấn Độ, Trung Quốc,
Indonesia khoảng 30% -40%. Đồng thời hệ thống tiêu chuẩn chất lượng chưa
được chuẩn hóa trong ngành nên mỗi công ty trong ngành có định mức về tiêu
chuẩn khác nhau mà không thống nhất trong toàn ngành.
2.4 Cơ hội
Thị trường nội địa rộng lớn với hơn 86 triệu dân là những khách hang
mục tiêu và tiềm năng trong ngành dệt may. Việt Nam đã gia nhập WTO
chính thức và cũng nhân đó chúng ta được xóa bỏ hoàn toàn hạn ngạch xuất
khẩu dệt may với các nước thành viên của WTO. Do đó doanh nghiệp không
còn lo lắng về giới hạn việc xuất khẩu sản phẩm trong ngành.


Chính phủ có một cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ và tăng tốc ngành dêt
may từ năm 2001 -2005. Quỹ hỗ trợ đã cho doanh nghiệp vay 118 triệu USD,
khoảng 5% tổng số vốn đầu tư theo kế hoạch cần phải huy động của ngành.
2.5 Thách thức
Ngành phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh rất mạnh như Trung
Quốc, Ấn Độ, Pakistan không chỉ trên thị trường quốc tế mà còn trong thị
trường nội địa. Các đối thủ này không chỉ mạnh về nhiều mặt như: tiềm lực
về các nguồn lực, con người , vật chất, thông tin mà còn có kinh nghiệm và hệ
thống phân phối rất mạnh, kể cả việc bán lẻ cũng chuyên nghiệp hơn các
doanh nghiệp Việt Nam.
Việc xá bỏ hạn ngạch cũng vô hình chung làm cho các doanh nghiệp
Việt Nam phải đối đầu với Trung Quốc, Ấn độ trong việc xuất khẩu hàng hóa
sang các nước WTO

Do sức ép của quá trình hội nhập tạo nên một hiện tượng tâm lý, vừa
bất an vừa buông xuôi. Bất an do chúng ta không biết nhiều về các đối thủ
cạnh tranh, vì việc kinh doanh quốc tế không được chú trọng
Hiện nay các chính sách hỗ trợ của nhà nước không còn, các công ty
dệt may phải tự mình đối mặt với các biến động của thì trường trong và ngoài
nước.


III. GIẢI PHÁP ĐỂ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM THÂM
NHẬP SÂU HƠN VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
Khi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiến sâu vào hội nhập quốc tế
cùng với tiến trình hội nhập của đất nước thì có lẽ một trong những vấn đề các
doanh nghiệp lo lắng nhất là năng lực cạnh tranh và họ sẽ làm thế nào để cải
thiện điều này. Sự lo lắng bắt nguồn từ việc doanh nghiệp xác định rằng họ
đang ở bậc thang tương đối thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu mà họ tham gia.
Có thể bây giờ nó là khâu gia công, là công xưởng của thế giới, vị trí
đáy của chuỗi giá trị nhưng có nhận xét rằng: “Việt Nam với bề dày kinh
nghiệm, hoàn toàn có đủ năng lực để phát triển các khâu chủ chốt nhằm mang
lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề là họ lựa chọn hay
khống chế cách phát triển theo hướng đó hay “ăn xổi” qua các hợp đồng gia
công để thu lợi nhanh hay không mà thôi”.
Để có thể thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị, không thể chỉ trong thời
gian ngắn được mà nó phải là một quá trình nỗ lực không ngừng của Việt
Nam trong thời gian dài. Cần phải tìm ra hướng đi, giải pháp đúng đắn để
từng bước cải thiện. Có rất nhiều giải pháp như:
Đổi mới công nghệ
Đào tạo nguồn nhân lực
Trở thành nhà cung ứng đạt tiêu chuẩn khách hàng
Phát triển lĩnh vực thiết kế
Phát triển công nghiệp phụ trợ

Tạo thương hiệu cho sản phẩm dệt may VN
Đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu…
Sau đây em xin đi vào một số giải pháp:
1 Đổi mới công nghệ


Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định
đối với sự phát triển của ngành dệt may. Vấn đề cấp bách hiện nay là cần
mạnh dạn đổi mới quy trình công nghệ, kết hợp đúng mức các trình độ công
nghệ hiện có, đầu tư mua sắm thiết bị Dệt May đồng bộ, đạt tiêu chuẩn kĩ
thuật cao, loại bỏ dần các thiết bị công nghệ lạc hậu, không còn thích hợp.
Đầu tư công nghệ hiện đại, các công nghệ thuộc thế hệ mới nhất trên
thế giới cho các dự án đầu tư mới với quy mô đủ lớn. Tập trung các dự án đầu
tư mới, với quy mô đủ lớn, đủ tiềm lực về vốn để tiếp cận công nghệ hiện đại
tiên tiến nhất, công nghệ thế hệ mới nhất.
Bởi vì:
Hàng dệt may có đặc điểm là có tính linh động cao trên thị trường, chu
kỳ sản phẩm ngắn, tính mốt thể hiện rõ, tính quốc tế cao. Do đó công nghệ
phải đổi mới nhanh và theo hướng hiện đại. Đổi mới máy móc thiết bị giúp
năng suất tăng cao, chất lượng sản phẩm được đảm bảo tốt hơn, đảm bảo số
lượng các đơn đặt hàng mà khách hàng yêu cầu.
Khi thiết bị hiện đại, chúng ta có đủ điều kiện để sản xuất những sản
phẩm thời trang, các sản phẩm đa dạng hơn, nhiều mẫu hơn, đáp ứng được
những khách hàng khó tính. Khi các mặt hàng có chất lượng tốt, kiểu dáng
hấp dẫn dần dần Việt Nam sẽ xây dựng được thương hiệu về sản phẩm dệt
may của mình.
Đối với các khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất thì trình độ công nghệ
hiện đại sẽ trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngành.
Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ phải nhằm đưa công nghiệp Dệt may
trở thành ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Ngành dệt may phải phát

triển với quy mô lớn và đạt trình độ tiến tiến, đủ sức hòa nhập với nền kinh tế
thế giới.
Phát triển công nghiệp Dệt phải gắn liền với công nghiệp may nhằm
nâng cao chất lượng nguyên liệu các doanh nghiệp may, giảm bớt nhu cầu
nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài, tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định,


chủ động cho may hàng xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng, góp phần tăng
ngân sách quốc gia và tăng tích luỹ để tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới
nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành may.
Xu thế hiện nay, các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đang chuyển
đến sản xuất tại Việt Nam nhiều hơn do vậy cần chú ý để tiếp nhận tốt sự
chuyển dịch này. Chúng ta cần tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập
đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng và từng
bước tham gia vào các chuỗi liên kết của họ. Sự liên kết này còn nằm trong
chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu cùng hệ
thống các nhà tiêu thụ sản phẩm. Hướng phát triển của ngành cần được
chuyên môn hóa và hợp tác hóa nên do vậy cần đầu tư ngay vào công nghệ
mới để tạo bước nhảy vọt về chất lượng và mang lại giá trị gia tăng.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thanh khoản hợp đồng
gia công, triển khai quản lý rủi ro luồng hàng hóa, tăng cường công tác chống
buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển tải bất hợp pháp… giúp các doanh
nghiệp may có thể tối ưu hóa sản xuất, cắt giảm chi phí… Doanh nghiệp có
thể quản lý thông tin sản phẩm, quản lý nhà cung cấp, quản lý đơn vị sản
xuất, quản lý các đơn vị gia công và thầu phụ, quản lý nhà tiêu thụ và phân
phối lẻ, quản lý thương hiệu một cách dễ dàng, hiệu quả hơn.
Đối với các dự án các nhà đầu tư trong nước, cần phải cân nhắc kỹ càng
trong việc lựa chọn công nghệ. Tập đoàn Dệt May Việt Nam cần tư vấn, hỗ
trợ về thông tin các nguồn cung cấp công nghệ, các thế hệ công nghệ giúp các
nhà đầu tư tránh được việc nhập khẩu các công nghệ đã lạc hậu, công nghệ

thải hồi của các nước, nhất là các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc,
Trung Quốc…
Đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm hình thành các khu công nghiệp chuyên
ngành sợi, dệt, nhuộm - may. Bao gồm hạ tầng cơ sở đường xá, thoát nước,


×