Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu nhận thức về trách nhiệm xã hội của nhân viên tại ngân hàng TMCP hàng hải việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN NHẬT NAM

NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC VỀ
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NHÂN VIÊN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN NHẬT NAM

NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC VỀ
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NHÂN VIÊN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI
VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Quản Trị Kinh Doanh Hướng Ứng Dụng
Mã số: 8340101
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ VIẾT TIẾN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn nghiên cứu với đề tài “Nghiên cứu nhận thức về trách
nhiệm xã hội của nhân viên tại Ngân Hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam” được hoàn
thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.
TS. Hồ Viết Tiến và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn
cùng cấp nào khác.
TP Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 04 năm 2018
Người thực hiện luận văn
Nguyễn Nhật Nam


MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ......................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4
6. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu........................................................................... 5
7. Cấu trúc nghiên cứu. .............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI. ............................ 6
1.1. Khung lý thuyết ................................................................................................... 6
1.1.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR). ................................................... 6

1.1.2. Các cách tiếp cận. ........................................................................................ 8
1.1.3. Quan điểm CSR về trách nhiệm đối với các bên liên quan. ........................ 9
1.1.4. CSR trong ngành ngân hàng. ..................................................................... 12
1.2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây. ............................................................... 14
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới: ..................................................................... 14
1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam: ..................................................................... 15
Tóm tắt chương 1 ..................................................................................................... 17


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI VIỆT NAM..................................................... 18
2.1. Giới thiệu khái quát về MSB. ........................................................................... 18
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển MSB. ...................................................... 18
2.1.2. Tầm nhìn, sứ mệnh và triết lý kinh doanh. ................................................ 19
2.2. Thực trạng hoạt động trách nhiệm xã hội của MSB. ........................................ 21
2.3. Kết quả khảo sát ................................................................................................ 28
2.3.1. Thống kê mô tả mẫu khảo sát .................................................................... 28
2.3.2. Kết quả khảo sát và thảo luận kết quả. ...................................................... 30
2.4. Đánh giá chung. ................................................................................................ 45
Tóm tắt chương 2 ..................................................................................................... 46
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP. ....................................................................................... 47
3.1. Định hướng chung. ............................................................................................ 47
3.2. Định hướng trong hoạt động trách nhiệm xã hội .............................................. 50
3.3. Giải pháp nâng cao nhận thức trách nhiệm xã hội. ........................................... 52
3.3.1. Giai đoạn 1: Xây dựng, hoàn thiện và bước đầu triển khai CSR. ............. 52
3.3.2. Giai đoạn 2: Triển khai đồng bộ và quản lý vận hành hiệu quả. ............... 56
Tóm tắt chương 3 ..................................................................................................... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC A. DÀN BÀI THẢO LUẬN ĐỊNH TÍNH

PHỤ LỤC B. BẢNG CÂU HỎI ĐỊNH LƯỢNG


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

TỪ VIẾT TẮT
ATM

Automatic Teller Machine hay Automated Teller
Machine, dịch ra tiếng Việt là máy rút tiền tự động

CBNV

Cán bộ nhân viên

CSR

Corporate social responsibility, dịch là Trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp

KPIs

Key Performance Indicators

Maritime Bank

Vietnam Maritime Commercial Stock Bank


MDB

Ngân Hàng TMCP Phát triển Mê Kông

MSB

Vietnam Maritime Commercial Stock Bank

NH

Ngân hàng

NHTMCP

Ngân hàng Thương mại Cổ phần


DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ

BẢNG 2.1. SỐ KHOẢN VAY VÀ DƯ NỢ SẢN PHẨM M-HOUSING .............. 22
BẢNG 2.2. SỐ LƯỢNG THẺ VÀ DƯ NỢ THẺ TÍN DỤNG NĂM 2017 ............ 23
BẢNG 2.3. THÔNG TIN NHÂN SỰ VÀ ĐÀO TẠO CỦA MSB NĂM 2017. ..... 25
BẢNG 2.4. MÔ TẢ MẪU THEO GIỚI TÍNH........................................................ 29
BẢNG 2.5. MÔ TẢ MẪU THEO ĐỘ TUỔI. ......................................................... 29
BẢNG 2.6. MÔ TẢ MẪU THEO TRÌNH ĐỘ........................................................ 29
BẢNG 2.7. MÔ TẢ MẪU THEO BỘ PHẬN ......................................................... 30
BẢNG 2.8. MÔ TẢ MẪU THEO THỜI GIAN LÀM VIỆC .................................. 30
BẢNG 2.9. THỐNG KÊ MÔ TẢ BIẾN ĐỊNH LƯỢNG MỨC ĐỘ NHẬN THỨC
CỦA NHÂN VIÊN VỀ CSR ................................................................................... 31
BẢNG 2.10. KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CSR ĐỐI VỚI

KHÁCH HÀNG ....................................................................................................... 32
BẢNG 2.11. KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CSR ĐỐI VỚI
NHÂN VIÊN ............................................................................................................ 36
BẢNG 2.12. KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CSR ĐỐI VỚI CỔ
ĐÔNG ...................................................................................................................... 38
BẢNG 2.13. KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CSR ĐỐI VỚI MÔI
TRƯỜNG ................................................................................................................. 40
BẢNG 2.14. KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CSR ĐỐI VỚI
CỘNG ĐỒNG .......................................................................................................... 43

HÌNH 2.1. LOGO MARITIME BANK ................................................................... 19
HÌNH 2.2. TẦM NHÌN – SỨ MỆNH – GIÁ TRỊ CỐT LÕI .................................. 20


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trên thế giới, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate
Social Responsibility – gọi tắt là CSR) xuất hiện từ thập niên 1930, và đã được định
nghĩa lần đầu tiên vào năm 1953 bởi Bowen. Từ trước tới nay, đã có nhiều nghiên
cứu trên thế giới về CSR nói chung đã được thực hiện. Khái niệm CSR ở Việt Nam
cũng không còn mới mẻ khi các tập đoàn đa quốc gia đã mang theo và áp dụng tại
nước ta. CSR ngày nay không chỉ là vấn đề của từng tổ chức, từng quốc gia, mà nó
đang là một vấn đề mang tính toàn cầu và là một trong những yêu cầu của nền kinh
tế thế giới. Việc tiếp cận CSR không chỉ góp phần vào việc bảo vệ và cải thiện tiêu
chuẩn xã hội mà còn hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển bền vững.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được hiểu là sự cam kết của doanh
nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững thông qua những việc làm nâng
cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ, theo

cách đó có lợi cho doanh nghiệp, cũng như sự phát triển chung của xã hội. Các doanh
nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi
trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển
cộng đồng,… Điều quan trọng là ý thức về trách nhiệm xã hội phải là kim chỉ nam
trong hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như từng thành viên của
doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, một trong những rào cản và thách
thức cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đó là nhận thức và định
hướng của chính doanh nghiệp trong quá trình vận hành tổ chức. Bên cạnh đó, vấn
đề quan trọng đặt ra ở đây l
à cần phải hiểu đúng và thống nhất thế nào là trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Trên thực tế rất dễ hiểu lầm khái niệm trách nhiệm xã hội theo nghĩa “truyền
thống”, tức là doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội như là một hoạt động tham
gia giải quyết các vấn đề xã hội mang tính nhân đạo, từ thiện. Khái niệm trách nhiệm


2

xã hội của doanh nghiệp đã được đề cập nhiều tại Việt Nam trong nhiều năm trở lại
đây, tuy nhiên để đưa vào thực tiễn và đáp ứng được đúng giá trị cũng như kỳ vọng
của các bên liên quan trong bối cảnh thực tế thì còn chưa thật sự rõ nét và còn hạn
chế. Ở góc độ người lao động, khách hàng, cổ đông và các bên liên quan đóng vai trò
thụ hưởng sẽ có những yêu cầu và kỳ vọng quyền lợi từ chính những hoạt động này,
tuy nhiên trong thực tiễn điều này liên quan đến định hướng chủ trương, mức độ quan
tâm, chấp nhận chi trả… của chính Ban quản trị và điều hành tổ chức, do đó sẽ có sự
xa rời giữa nhu cầu và kỳ vọng với thực tế triển khai hoặc còn phụ thuộc vào mức độ
nhận thức, hiểu đúng hiểu đủ của tất các các bên liên quan đến khái niệm CSR trong
thực tiễn.
Tại Việt Nam hiện nay, với sự tăng trưởng và cạnh tranh về kinh tế, nhân lực
lao động và những khuynh hướng thay đổi tập trung vào chất lượng để tạo lợi thế

cạnh tranh, có thể nhận thấy tầm quan trọng và mức độ cần thiết của việc đưa CSR
trở nên hiện thực hóa một cách rõ nét:
-

Doanh nghiệp sẽ tạo lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút được nguồn nhân lực
tốt, có năng lực và có những yêu cầu cao hơn về văn hóa doanh nghiệp, chất
lượng phúc lợi, tầm ảnh hưởng trong thị trường…

-

Khi hiểu một cách sâu sắc và phát triển một cách toàn diện CSR; ngược lại với
những điểm sai lệch, thực tế CSR khi thực hiện một cách đồng bộ sẽ giúp tổ
chức có được cơ chế vận hành tiết kiệm hiệu quả, gia tăng năng suất và tính
gắn bó, lành mạnh của tổ chức;

-

Song song với các lợi thế trên, hình ảnh, thương hiệu và mức độ được biết đến
của tổ chức cũng sẽ không ngừng gia tăng. Xét toàn diện về lợi ích xã hội, sự
lớn mạnh và hiệu quả của từng doanh nghiệp sẽ góp phần phát triển và tạo
hiệu ứng lan tỏa đến cộng đồng doanh nghiệp, toàn xã hội.
Trong nội dung nghiên cứu của bài luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu nhận

thức về nhiệm xã hội của Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam trên “quan điểm đa
chiều để đo lường CSR bao gồm tác động đến từ các bên liên quan bao gồm khách


3

hàng, nhân viên, cổ đông, môi trường và xã hội để phản ánh rõ hơn các khía cạnh lý

thuyết khác nhau” (Maignan, 2001; Decker, 2004; Garcia de los Salmones, Herrero,
& del Bosque, 2005) để thấy được mức độ nhận thức của nhân viên, từ đó có những
giải pháp nâng cao nhận thức; từ những nhận thức này, các hoạt động trách nhiệm xã
hội của Ngân hàng nói chung được triển khai hiệu quả hơn. Đó là lý do hình thành đề
tài “Nghiên cứu nhận thức về trách nhiệm xã hội của nhân viên tại Ngân hàng TMCP
Hàng hải Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu với mục tiêu nhằm đánh giá về mức độ nhận thức của
nhân viên về CSR của MSB đối với bên liên quan để từ đó đánh giá và đưa ra các
kiến nghị nhằm gia tăng sự nhận thức về CSR.
Các mục tiêu cụ thể như sau:
-

Xác định mức độ nhận thức của nhân viên từ các hoạt động CSR của MSB đối
với các bên liên quan (khách hàng, nhân viên, cổ đông, môi trường và cộng
đồng).

-

Xác định mức độ thực hiện trách hiện trách nhiệm xã hội của MSB thông qua
chỉ số trách nhiệm xã hội đối với các bên liên quan: khách hàng, nhân viên, cổ
đông, môi trường và cộng đồng.

-

Từ kết quả về mức độ nhận thức của nhân viên và mức độ thực hiện CSR của
MSB giúp các nhà quản trị có được những chính sách và kế hoạch cho các
chương trình CSR hiệu quả và phù hợp với mục đích mà MSB đang hướng
đến.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
-

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nhận thức về trách nhiệm xã hội
của nhân viên đang làm việc tại Maritime Bank. Nội dung nghiên cứu chính
của luận văn bao gồm:


4

o Mức độ nhận thức của nhân viên từ các hoạt động CSR của MSB đối với
các bên liên quan (khách hàng, nhân viên, cổ đông, môi trường và cộng
đồng).
o Mức độ thực hiện trách hiện trách nhiệm xã hội của MSB thông qua chỉ số
trách nhiệm xã hội đối với các bên liên quan: khách hàng, nhân viên, cổ
đông, môi trường và cộng đồng.
-

Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào nghiên cứu các nhân viên đang làm việc tại
Maritime Bank. Nghiên cứu các nhân viên đang làm việc tại Maritime Bank
các địa bàn TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh bao gồm cả đơn vị kinh doanh và
các đơn vị phòng ban hội sở.

-

Khoảng thời gian nghiên cứu: năm 2017 đến năm 2018.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện thông qua hai bước chính bao gồm nghiên cứu sơ
bộ và nghiên cứu chính thức.

-

Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua phương pháp định tính. Các
kỹ thuật được sử dụng là thảo luận tay đôi và thảo luận nhóm nhằm khám
phá, điều chỉnh, bổ sung các yếu tố của CSR đối với các bên liên quan đến
mức độ nhận thức của nhân viên tại MSB.

-

Nghiên cứu chính thức được thực hiện thông qua khảo sát phương pháp
nghiên cứu định lượng. Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi. Sau
đó, được xử lý thông qua phần mềm Microsoft Excel.

Quá trình thực hiện nghiên cứu như sau:


5

Nghiên cứu nhận thức về trách nhiệm xã

Xác định mức độ nhận thức của nhân

hội của nhân viên tại Ngân hàng TMCP

viên về CSR tại MSB

Hàng hải Việt Nam
Mục tiêu và giới hạn nghiên cứu

Xây dựng mô hình nghiên cứu


Thiết kế nghiên cứu

Kế hoạch thực hiện và thời gian

Kiến nghị nâng cao mức độ nhận biết
của nhân viên MSB về trách nhiệm xã

Thu thập dữ liệu và phân tích kết quả

hội của Ngân hàng

6. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp nói chung và các Ngân
hàng nói riêng hiểu và nhận dạng được các hoạt động về trách nhiệm xã hội đến với
các bên liên quan và mức độ nhận thức của nhân viên về trách nhiệm này, từ đó có
những chính sách phù hợp nhằm có được các kế hoạch cũng như chiến lược phát triển
ổn định và bền vững trong tương lai. Nghiên cứu này cũng là tài liệu tham khảo cho
các nhà nghiên cứu, nhà quản trị trong các tổ chức và các nghiên cứu liên quan đến
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
7. Cấu trúc nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
o Chương 1. Cơ sở lý luận.
o Chương 2. Thực trạng.
o Chương 3. Giải pháp.


6

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI.

Chương 1 tác giả trình bày tóm tắt lý thuyết về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp,
các cách tiếp cận đối với CSR, quan điểm CSR về trách nhiệm đối với các bên liên
quan và tình hình CSR trong ngành ngân hàng, các nghiên cứu về CSR gần đây trên
thế giới và tại Việt Nam.

1.1. Khung lý thuyết
1.1.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR).
Khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (viết tắt là CSR) đã thu hút
sự chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các hoạt động kinh doanh (Maignan và
Ferrell, 2004, Sen và Bhattacharya, 2001) vì các khoản đầu tư về CSR có thể tăng
cao độ tín nhiệm (Lin và cộng sự, 2011), cải thiện hình ảnh hoặc danh tiếng (Tewari,
2011), tỉ lệ giữ chân nhân viên tăng cao hơn (Kim và Perk, 2011) và xây dựng mối
quan hệ với khách hàng (Peloza và Shang, 2011; Matute và cộng sự, 2010; Brown và
Dacin, 1997). Sự quan tâm ngày càng tăng về CSR trong các nghiên cứu đã dẫn đến
sự gia tăng các định nghĩa cho khái niệm này (Carroll, 1979; Panwar và cộng sự,
2006; van Marrewijk, 2003).
CSR đã được định nghĩa trong các tài liệu từ nhiều quan điểm khác nhau - từ
quan điểm cổ điển của Friedman về tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông đến quan điểm
hiện đại về CSR là “tình trạng và hoạt động của công ty đến nghĩa vụ xã hội hoặc ít
nhất là đối với các bên liên quan” (Brown và Dacin, 1997, trang 68). CSR hàm ý rằng
các công ty có trách nhiệm đối với xã hội trong lĩnh vực mà công ty đang hoạt động,
tuy nhiên thuật ngữ không có ý nghĩa đối với tất cả mọi người (Votaw, 1972). Một
số quan điểm khác đề cập đến trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và cả trách
trách nhiệm từ thiện. Trách nhiệm ở đây được hiểu như là một hành động tự nguyện
hơn là một nghĩa vụ. Mặc dù có sự gia tăng các định nghĩa khác nhau và sự phức tạp
xung quanh khái niệm về CSR, nhưng có rất nhiều khái niệm hoá trong CSR bao gồm


7


các khái niệm cho thấy đây là một nghĩa vụ xã hội hoặc các bên liên quan (Maignan
và Ferrell, 2000).
Carroll (1979, 1991) đưa ra một khuôn khổ để xác định CSR là “trách nhiệm
xã hội của kinh doanh bao gồm các kỳ vọng về kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện
của một tổ chức”. Carroll bổ sung rằng những trách nhiệm này phụ thuộc vào sự lựa
chọn của người quản lý. Mohr và cộng sự (2001, trang 47) tiếp tục xây dựng các trách
nhiệm này và xác định CSR là “cam kết của một công ty để giảm thiểu hoặc loại bỏ
bất kỳ tác hại nào và tối đa hoá tác động lâu dài của nó đối với xã hội”. Về vấn đề
này, CSR bao gồm một loạt các hành động như hành vi đạo đức, bảo vệ môi trường
và đối xử công bằng với nhân viên. Định nghĩa này xem xét các “tác động trực tiếp
và gián tiếp của các hoạt động CSR đối với tất cả các bên liên quan và cho thấy các
hoạt động đó phải được quản lý theo lý thuyết của các bên liên quan”, theo Mohr và
Webb (2005).
Một khái niệm CSR khác do Ủy ban châu Âu (EC) đưa ra năm 2001 đã được
chấp nhận rộng rãi là: “CSR là một khái niệm mà các công ty tích hợp các mối quan
tâm xã hội và môi trường trong hoạt động kinh doanh của họ và trong tương tác với
các bên liên quan trên cơ sở tự nguyện”. Campbell (2007) đánh giá cao vai trò trung
tâm của các bên liên quan và đề xuất rằng “các công ty không được cố ý làm bất cứ
điều gì có thể gây tổn hại cho các bên liên quan và nếu một công ty gây ra thiệt hại
cho các bên liên quan của họ thì họ phải khắc phục nó bất cứ khi nào phát hiện và
gây ra thiệt hại Sự chú ý của họ” (trang 951).
CSR đề cập đến các hoạt động của các công ty bao gồm các mối quan tâm xã
hội và môi trường trong hoạt động kinh doanh; trong mối quan hệ và tương tác với
các bên liên quan, cũng theo mức độ tham vọng của sự bền vững của công ty (Van
và Marrewijk 2003, trang 1). CSR thường được đo như là một cấu trúc một chiều
(Marin and Ruiz, 2007; Lichtenstein và cộng sự, 2004) bao gồm trách nhiệm pháp lý
và trách nhiệm từ thiện. Rất ít nghiên cứu chấp nhận quan điểm đa chiều để đo lường
CSR (Maignan, 2001; Decker, 2004; Garcia de los Salmones và cộng sự, 2005) phản



8

ánh rõ ràng hơn các khía cạnh lý thuyết khác nhau; tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng
đã nhận được sự chỉ trích từ xã hội. Về vấn đề này, những nghiên cứu đã đưa ra quan
điểm này dựa trên các cách tiếp cận khác nhau để xác định CSR và dẫn đến sự thiếu
tính thống nhất (Turker, 2009). Hơn nữa, nó đã được tuyên bố rằng CSR không có ý
nghĩa tương tự cho tất cả các bên liên quan và khái niệm của nó giữa các ngành công
nghiệp là khác nhau (Decker, 2004). Do đó, một công cụ cụ thể hơn là cần thiết để
hiểu quan điểm của các bên liên quan trong bối cảnh cụ thể của các ngành công
nghiệp.
Ví dụ, ngành ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
gia (Beck và cộng sự, 1999) và chủ động tham gia các hoạt động CSR (Marin và cộng
sự, 2009; Truscott và cộng sự, 2009) trong khi các ngành khác phản ứng đến CSR do
áp lực của bên liên quan bên ngoài (Decker, 2004). Danh tiếng của các tổ chức tài
chính phải dựa vào các chương trình trách nhiệm với xã hội của họ (Poolthong and
Mandhachitara, 2009), đó là lý do tại sao các tổ chức ngân hàng thường có xếp hạng
cao về chỉ số xếp hạng đầu tư quốc tế về CSR (Perez và cộng sự, 2013). Mặc dù có
sự quan tâm ngày càng tăng về CSR trong ngành này, nhưng không có nghiên cứu
nào đo lường các hoạt động CSR trong ngành ngân hàng với viễn cảnh đa chiều trong
một nền kinh tế đang phát triển.
1.1.2. Các cách tiếp cận.
Lĩnh vực trách nhiệm xã hội của công ty đã tăng đáng kể trong những thập kỷ
qua và hiện nay có rất nhiều lý thuyết, cách tiếp cận và thuật ngữ về CSR tồn tại
(Garriga và Mele', 2004). Trong một nghiên cứu của van Marrewijk (2003) đã đưa ra
ba cách tiếp cận chính cho mức độ trách nhiệm của một công ty, đó là cách tiếp cận
của cổ đông, cách tiếp cận của các bên liên quan và cách tiếp cận xã hội. Dựa trên
cách tiếp cận của cổ đông, trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là tăng lợi nhuận.
Điều này phù hợp với niềm tin của Friedman (1962), người coi sự giàu có cho các cổ
đông là mục tiêu chính của một công ty. Cách tiếp cận này cũng tương tự như quan
điểm cổ điển về CSR như đã bàn luận của Quazi và O'Brien (2000). Tuy nhiên, có



9

một mối quan tâm ngày càng tăng về sự thất bại của các biện pháp về lợi nhuận để
nắm bắt được hiệu suất tổng thể của một công ty. Xã hội bây giờ quan tâm nhiều hơn
về hành vi của các công ty và coi đạo đức tốt là kinh doanh tốt. Để đạt được điều này,
hai cách tiếp cận khác của CSR (tiếp cận các bên liên quan và xã hội) đã được thảo
luận. Theo phương pháp tiếp cận của các bên liên quan, các tổ chức không chỉ phải
chịu trách nhiệm với các cổ đông của mình mà còn phải “đáp ứng được lợi ích của
một nhóm các bên liên quan có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc đạt được
các mục tiêu của tổ chức”, theo Freeman (1984). Cuối cùng, dựa trên các công ty tiếp
cận xã hội có trách nhiệm đối với toàn xã hội và chỉ có thể hoạt động theo sự chấp
thuận của công chúng (giấy phép hoạt động). Cách tiếp cận này tương tự như quan
điểm hiện đại theo đề xuất của Quazi và O'Brien (2000), nơi mà doanh nghiệp duy trì
quan hệ với ma trận rộng hơn của xã hội và có thể đạt được lợi ích cả trong ngắn hạn
và về lâu dài từ các hành động có trách nhiệm với xã hội.
CSR thường được đo như là một cấu trúc một chiều (Marin & Ruiz, 2007,
Lichtenstein và cộng sự, 2004) bao gồm các trách nhiệm kinh tế, đạo đức, pháp lý và
từ thiện. Rất ít nghiên cứu đã chấp nhận quan điểm đa chiều để đo lường CSR
(Maignan, 2001; Decker, 2004; Garcia de los Salmones, Herrero, & del Bosque,
2005) phản ánh rõ hơn các khía cạnh lý thuyết khác nhau. Về vấn đề này, những
nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm dựa trên các cách tiếp cận khác nhau để xác định
CSR và dẫn đến sự thiếu nhất trí (Turker, 2009). Hơn nữa, nó đã được tuyên bố rằng
CSR không có ý nghĩa tương tự cho tất cả các bên liên quan và khái niệm của nó khác
nhau giữa các ngành (Decker, 2004). Do đó, một công cụ cụ thể hơn là cần thiết để
hiểu quan điểm của các bên liên quan trong bối cảnh các ngành cụ thể.
1.1.3. Quan điểm CSR về trách nhiệm đối với các bên liên quan.
Quan niệm của các bên liên quan là vấn đề chính yếu đối với CSR (Jamali và
Mirshak, 2007). Thuật ngữ “bên liên quan” có phạm vi rộng và được định nghĩa là

“những nhóm và cá nhân có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện sứ
mệnh của một tổ chức” (Freeman, 1984, trang 54). Các nhà nghiên cứu đã phân loại


10

các bên liên quan là tiểu học hoặc trung học, tự nguyện hoặc không tự nguyện và bên
ngoài hoặc bên trong (Turker, 2009). Các bên liên quan, “hành động chính thức hoặc
không chính thức, riêng lẻ hoặc tập thể, là một yếu tố chính trong môi trường bên
ngoài của công ty có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tổ chức” (Murray và
Vogel, 1997, trang 142). Theo quan điểm của các bên liên quan, thách thức chính đối
với các nhà quản lý và các lý thuyết là phải biết làm thế nào để cải thiện mối quan hệ
giữa các bên liên quan với công ty bằng cách đem lại lợi ích cho nhau (Bhattacharya
và cộng sự, 2009). Những lợi ích này có thể có xung đột lợi ích giữa các bên liên
quan; Một lợi ích có thể giữ giá trị cho một bên liên quan trong khi một bên liên quan
khác có thể không coi nó là có giá trị (Bhattacharya và cộng sự, 2009).
Để hiểu rõ hơn về kết quả của các hoạt động CSR, cần phải có hiểu biết về lợi
ích của các bên liên quan (Bhattacharya và cộng sự, 2009). Có rất ít tài liệu về cơ chế
tâm lý nhằm thúc đẩy phản ứng của các bên liên quan đến các hoạt động CSR do các
công ty thực hiện (Bhattacharya và cộng sự, 2009). Theo lý thuyết tiếp cận chuỗi dây
chuyền có phương tiện, người tiêu dùng quyết định mua hàng trên cơ sở các lợi ích
về chức năng liên quan đến các đặc điểm của sản phẩm/ dịch vụ, các lợi ích tâm lý
liên quan đến tình cảm tinh thần của con người và các giá trị cá nhân của họ
(Bhattacharya và cộng sự, 2009). Mặc dù các hoạt động CSR có thể không mang lại
bất kỳ lợi ích trực tiếp nào nhưng họ có thể đóng góp vào lợi ích tâm lý và phúc lợi
của xã hội.
CSR đối với các bên liên quan sẽ có những điểm đặc thù riêng, mang lại những
lợi ích và những quyền lợi riêng cho từng đối tượng cụ thể, và tổ chức thực hiện các
trách nhiệm và nghĩa vụ này trên tinh thần tự nguyện hành động. Cụ thể:
- Trách nhiệm đối với khách hàng là việc các bên cung ứng sản phẩm/ dịch vụ đáp

ứng các yêu cầu của khách hàng, đảm bảo việc khách hàng được nhận được các quyền
cơ bản của mình: an toàn và bảo mật thông tin (Pomering và Dolnicar, 2009); có được
thông tin về sản phẩm, dịch vụ chính xác và trung thực (Maignan và cộng sự,1999;
Mercer, 2003; Garcia de losSalmons và cộng sự, 2005; Oberseder, M. và cộng sự,


11

2013); được phát biểu, được lắng nghe và khiếu nại với người bán lẻ hay người cung
cấp dịch vụ (Maignan và cộng sự, 1999; Mercer, 2003; Decker 2004; Garcı´a de los
Salmones và cộng sự, 2005; Singh và cộng sự, 2008); cố gắng để biết và đáp ứng nhu
cầu của khách hàng (Maignan và cộng sự, 1999; Mercer, 2003; Garcia de los Salmons
và cộng sự, 2005)… Hoạt động trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng đến nhận định của
khách hàng; mặt khác cũng ảnh hưởng đến hành vi khách hàng trong việc lựa chọn
sản phẩm/ dịch vụ của doanh nghiệp (Skudien và Auruskeviciene, 2010).
- Trách nhiệm đối với nhân viên bao gồm những hoạt động của tổ chức có liên quan
trực tiếp đến môi trường làm việc vật lý hoặc tâm lý làm việc của nhân viên. Nhân
viên được xem là một trong những nguồn lực quan trọng nhất đối với tổ chức. Khi
nghiên cứu về trách nhiệm của tổ chức đối với nhân viên, trách nhiệm này được thể
hiện ở việc cung cấp sự an toàn trong công việc (Boal và Perry, 1985; Maignan và
cộng sự, 1990; Mercer, 2003; Turker, 2009); cung cấp sự đào tạo và cơ hội thăng tiến
trong công việc (Boal và Perry, 1985; Maignan và cộng sự, 1999; Mercer, 2003;
David và cộng sự, 2005); được đối xử một cách công bằng (Boal và Peery (1985),
Maignan và cộng sự (1999), Mercer 2003; David và cộng sự (2005); Marin và cộng
sự, 2009)…
- Trách nhiệm đối với cổ đông là trách nhiệm của tổ chức với cá nhân hay tập thể với
mối quan hệ hợp tác dựa theo hợp đồng cùng tìm kiếm lợi nhuận. Trách nhiệm này
thể hiện ở việc tổ chức trong sự cố gắng phát triển lâu dài và bền vững; trong việc
kiểm soát chi phí chặt chẽ và trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với cổ đông (Maignan
và cộng sự, 1999; Maignan, 2001; Mercer ,2003; Garcia de los salmones và cộng sự,

2005).
- Trách nhiệm đối với môi trường: là việc tổ chức thực hiện thiết kế quy trình sản
xuất và sản phẩm, tuân thủ các quy định giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường
(Aldbour và cộng sự, 2010). Các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều ảnh hưởng
đến môi trường theo nhiều cách có thể kể đến: giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên
(Martínez và cộng sự, 2013), khai thác năng lượng tái tạo trong sản xuất kinh doanh


12

(Martínez và cộng sự, 2013), tuân thủ các chính sách, quy định về môi trường (Bigne
và cộng sự, 2005; Knowles và cộng sự, 1999; Manaktola và Jauhari, 2007)… Trách
nhiệm với môi trường là trách nhiệm với sử dụng tài nguyên hiệu quả, với ngăn chặn
ô nhiễm môi trường, với biến đổi khí hậu, với ứng phó với thảm hỏa thiên nhiên…
- Trách nhiệm đối với cộng đồng bao gồm các hoạt động từ thiện, quan tâm vào việc
cải thiện phúc lợi chung của xã hội hoặc trích một phần ngân sách vào hoạt động công
tác xã hội (Maignan và cộng sự, 1999; Maignan, 2001; Garcı´a delos Salmones, 2005;
David và cộng sự, 2005; Singh và cộng sự, 2008). Ngoài ra, trách nhiệm cộng đồng
còn thể hiện ở việc giải quyết một số vấn đề của cộng đồng như: xây dựng - phát triển
kinh tế địa phương; giải quyết vấn đề nhà ở; các chương trình cho người vô gia cư,
thu nhập thấp; giảm thiểu tội phạm; hỗ trợ doanh nghiệp của khu vực thiểu số; cứu
hộ và hỗ trợ vùng có thảm họa, thiên tai…
1.1.4. CSR trong ngành ngân hàng.
Ngày nay, CSR đã trở thành một khái niệm được đánh giá cao trong ngành
dịch vụ tài chính do ảnh hưởng rất lớn đến xã hội (Scholtens, 2009). Các ngân hàng
đang tăng chi tiêu cho CSR (Truscott và cộng sự, 2009; Marin và Ruiz, 2009) bằng
cách thực hiện CSR vào các hoạt động với các sáng kiến như bao gồm tài chính
(Decker, 2004), các chương trình tín dụng nhỏ cho những người bị tước đoạt (Hermes,
Lensink, & Mehrteab, 2005), ngân hàng có trách nhiệm xã hội (Scholtens, 2009) và
tiếp cận tín dụng cho người nghèo (Prior & Argandona, 2008). Theo Thompson và

Cowton (2004), các ngân hàng thường bị ảnh hưởng bởi nguy cơ danh tiếng so với
các công ty khác và dễ bị tổn thương trước các phản ứng tiêu cực từ các bên liên quan.
Điều quan trọng là ngành ngân hàng phải quản lý danh tiếng của mình để phân biệt
mình với các đối thủ cạnh tranh và duy trì niềm tin của các bên liên quan (Flavian,
Guinaliu, & Torres, 2005). Các ngân hàng bán lẻ đang chi hàng triệu đô la cho các
chương trình CSR nhằm tăng cường danh tiếng của họ (McDonald và Rundle-Thiele,
2008). Tầm quan trọng của việc xây dựng và quản lý danh tiếng trong lĩnh vực dịch


13

vụ là cao do tính chất phi vật thể của sản phẩm và nhu cầu xây dựng niềm tin giữa
các bên liên quan (Perez và cộng sự, 2013).
Họ đang xem xét các hoạt động CSR vào quyết định chiến lược của họ để cải
thiện hình ảnh công cộng của họ (McDonald và Lai, 2011) và kết quả liên quan đến
khách hàng (Bhattachraya và Sen, 2004). Mặc dù, không rõ các hoạt động CSR có
khả năng tạo ra phản ứng tích cực từ các bên có liên quan (Chomvilailuk & Butcher,
2013). Hơn nữa, mối quan hệ giữa các hoạt động CSR và các phản hồi của các bên
liên quan chưa được nghiên cứu theo một bối cảnh phi phương Tây (McDonald and
Lai, 2011). Rõ ràng hiện tượng CSR đang phát triển trên toàn thế giới và Lindgreen,
Swaen, & Campbell 2009 đưa ra câu hỏi liệu các phản hồi của các bên liên quan đối
với CSR ở nước đang phát triển sẽ giống như những gì đã được phát hiện ở nước phát
triển. Mục đích nghiên cứu này nhằm giải quyết khoảng cách này bằng cách hiểu mối
quan hệ giữa CSR và các phản hồi của các bên liên quan ở một nước đang phát triển.
Ngành ngân hàng đã có những chuyển biến đáng kể trong vài năm qua và trở
thành một trong những nhà đầu tư chủ động trong các hoạt động CSR trên toàn thế
giới (Marin và cộng sự, 2009; Truscott và cộng sự, 2009) và danh tiếng của các tổ
chức tài chính được đánh giá dựa vào các chương trình về trách nhiệm xã hội của tổ
chức đó (Poolthong & Mandhachitara, 2009). Cách tiếp cận của họ đối với CSR đã
thay đổi đáng kể và các ngân hàng ngày càng tập trung đối với các vấn đề xã hội và

môi trường (Carnevale, Mazzuca, và Venturini, 2012). Họ có vai trò lớn hơn trong
xã hội và đặt CSR vào hoạt động nhưng mục tiêu chính, các giao dịch của họ minh
bạch hơn và chúng tạo ra giá trị cho xã hội (Prior & Argandona, 2008, King & Levine,
1993). Các ngân hàng tiếp tục công bố báo cáo về sự bền vững của họ (Vigano &
Nicolai, 2009) hàng năm và hiện tại CSR chiếm 22% trong doanh nghiệp của họ trong
chỉ số Dow Jones Sustainability Index (CECA, 2008). Do đó, quy mô đo lường mới
được đề xuất là một nghiên cứu thích hợp và kịp thời. Tuy nhiên, “ngày nay ngành
ngân hàng đang phải đối mặt với những nguy cơ và cơ hội phát sinh từ cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Một trong những thách thức này xuất phát từ tác


14

động tiêu cực của nhận thức cá nhân của các tổ chức tài chính” (Matute và cộng sự,
2010).
Các hoạt động có trách nhiệm xã hội đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh
vực này và các ngân hàng đang ngày càng quan tâm đến các hoạt động này thông qua
các diễn đàn truyền thông khác nhau (Peterson & Hermans, 2004). Mặc dù thực tế là
tập trung nhiều hơn vào CSR trên thị trường, nhưng có một điều tra rất ít phản hồi
của các bên liên quan đối với các hoạt động này (McDonald và Rundle-Thiele, 2008).
Các hoạt động liên quan đến trách nhiệm xã hội của ngành ngân hàng được các bên
liên quan xem là không rõ ràng do số lượng nghiên cứu về phản hồi của các bên liên
quan đối với CSR (Rugimbana, Quazi & Keating, 2008) rất hạn chế. Vì vậy, điều
quan trọng là phải hiểu được những nỗ lực của ngân hàng để báo cáo hành động có
trách nhiệm với xã hội của họ. So với các lĩnh vực khác, các ngân hàng có nhiều khả
năng nhìn thấy trong xã hội (Mandell, Lachman & Orgler, 1981) và có sự tham gia
sản phẩm cao hơn. Các nghiên cứu về hoạt động của CSR và các ngân hàng rất hạn
chế (Carnevale và cộng sự, 2012) và không có khuôn khổ phù hợp để đánh giá nỗ lực
của các ngân hàng đối với các hoạt động của CSR và đánh giá của bên liên quan và
sự hiểu biết về các hoạt động này (Scholtens, 2009).

1.2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây.
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới:
Mobin Fatma và Zillur Rahman (2015) đã nghiên cứu ảnh hưởng của CSR đối
với phản ứng của khách hàng trong ngành ngân hàng Ấn Độ. Tác động của nhận thức
như là một biến điều chỉnh giữa CSR và ý định mua hàng đã được kiểm tra. Các phát
hiện cho thấy khả năng của công ty có ảnh hưởng mạnh đến ý định mua của khách
hàng trong khi hoạt động của CSR có ảnh hưởng đến mục đích mua của khách hàng
trong trường hợp khách hàng biết đến các hoạt động đó. Kết luận rút ra từ nghiên cứu
này có ý nghĩa quan trọng đối với các ngân hàng Ấn Độ vì họ cho rằng xây dựng một
hình ảnh có trách nhiệm xã hội có thể có tác động tốt đến ý định mua hàng của người
tiêu dùng.


15

Mehran Nejati và Sasan Ghasemi (2011) đã thực hiện nghiên cứu về CSR ở
Iran theo quan điểm của nhân viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy thông tin về tình
trạng CSR hiện nay ở Iran theo quan điểm của nhân viên và mức độ gắn bó với tổ
chức ở mức trung bình mặc dù điểm số CSR ở tất cả các khía cạnh là tương đối thấp.
Mobin Fatma và cộng sự (2014) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của CSR đối với
các bên liên quan trong ngành ngân hàng ở Ấn độ. Về vấn đề này, CSR bao gồm trách
nhiệm của các công ty đối với cổ đông, khách hàng, nhân viên, môi trường và cộng
đồng. Nghiên cứu này nhằm mục đích phát triển một quy mô đo lường cho các hoạt
động trách nhiệm xã hội của công ty trong ngành ngân hàng Ấn Độ dựa trên khuôn
khổ của các bên liên quan.
Trong một nghiên cứu khác ở các nước đang phát triển, Oeyono và cộng sự
(2011) đã kiểm tra mối quan hệ giữa CSR và lợi nhuận trong số 50 công ty niêm yết
hàng đầu của Indonesia và tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa CSR và lợi nhuận,
mặc dù nó còn yếu.
Singh và cộng sự (2009) đã xem xét các khía cạnh khác nhau của CSR tại

Ngân hàng Public ở Malaysia và cố gắng liên hệ chúng với các mô hình hoặc lý thuyết
hiện tại. Họ cho thấy ngân hàng điều tra đã dành rất nhiều khoản đóng góp cho xã
hội, cộng đồng để cải thiện tăng trưởng kinh tế, xã hội, giáo dục, nghệ thuật, xây dựng
quốc gia và bảo vệ động vật hoang dã và môi trường.
1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam:
Bất chấp mối quan tâm ngày càng tăng và nhận thức về trách nhiệm xã hội ở
Việt Nam, rõ ràng từ sự gia tăng số lượng các tổ chức tham gia vào các hoạt động xã
hội (ví dụ như hỗ trợ hoạt động thể dục thể thao, từ thiện và các chương trình gây
quỹ...), CSR vẫn ở ở thời kỳ sơ khai ở Việt Nam, vì rất ít các tổ chức của Việt Nam
tổ chức chiến lược về CSR trong thực tiễn và kế hoạch. Một bằng chứng cho tuyên
bố này là các tổ chức thiếu báo cáo trách nhiệm xã hội, chỉ với một số ngành công
nghiệp khổng lồ bắt đầu xem xét vấn đề này trong những năm gần đây. Bên cạnh đó,
hầu hết các công ty này vẫn coi CSR là hoạt động từ thiện, cần nhiều hơn là (ví dụ


16

như đóng góp kiến thức, nguồn lực, và chủ nghĩa tự nguyện). Có rất ít số nghiên cứu
về CSR trong bối cảnh Việt Nam.
Một trong các nghiên cứu gần đây của Hoàng Hải Yến & Nguyễn Thị Hồng
Nhung (2017) về mối quan hệ giữa CSR với hành vi mua của khách hàng trong các
ngành ngân hàng. Kết quả cho thấy trách nhiệm kinh tế và trách nhiệm đạo đức của
ngân hàng đã ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, qua đó ảnh
hưởng đến hành vi mua hàng của khách hàng. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra cho thấy
không có ảnh hưởng của trách nhiệm pháp lý và môi trường đối với mối quan hệ với
ngân hàng và khách hàng và do đó không ảnh hưởng đến ý định mua của khách hàng.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Thảo & Huỳnh Long Hồ (2015) nhằm
“xác địch trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tác động đến niềm tin và sự gắn kết
với tổ chức của nhân viên ngân hàng”. Kết quả cho thấy cả 4 yếu tố: “trách nhiệm
kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm thiện nguyện đều có

tác động tích cực đến niềm tin tổ chức của nhân viên ngân hàng. Từ niềm tin dẫn đến
sự gắn kết của họ đối với ngân hàng.”
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Nhã Uyên (2013) về tác động của trách
nhiệm xã hội đến động lực làm việc của người lao động trong ngành vật liệu xây
dựng. Những phát hiện chỉ ra rằng, các trách nhiệm đối với người lao động, với đối
tác và cộng đồng có tác động mạnh đến động lực làm việc, trong khi yếu tố trách
nhiệm với môi trường là khá thấp. Ngoài ra, trong nghiên cứu cho thấy người lao
động nên được khuyến khích tham gia vào nhiều hơn các hoạt động trách nhiệm xã
hội để họ cảm thấy mình là thành viên thật sự của tổ chức.
Một nỗ lực trong nghiên cứu ảnh hưởng của cảm nhận trách nhiệm xã hội đến
sự tin tưởng mua hàng và ý định mua hàng (Nguyễn Tính, 2013). Kết quả cho thấy
các thành phần trách nhiệm kinh tế, đạo đức, từ thiện và môi trường có ảnh hưởng
đến tin tưởng thương hiệu; và các trách nhiệm kinh tế, đạo đức, từ thiện có tác động
đến ý định mua hàng. Mặt khác, tin tưởng thương hiệu có tác động rất mạnh mẽ đến
ý định mua hàng.


17

Tóm tắt chương 1
Chương 1 tác giả đã trình bày các khái niệm về CSR theo nhiều quan điểm, các cách
tiếp cận, quan điểm CSR về trách nhiệm đối với các bên liên quan và các nghiên cứu
CSR liên quan trên thế giới và tại Việt Nam gần đây. Tác giả đưa ra được các cơ sở
để tiến hành nghiên cứu cho nghiên cứu này _ nghiên cứu CSR trên cơ sở đa chiều
từ các bên liên quan, cụ thể ở đây là trách nhiệm đối với khách hàng, nhân viên, cổ
đông, môi trường và cộng đồng.


18


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI VIỆT NAM.
Chương 2 trình bày một cách khái quát về MSB, về lịch sử hình thành, các tuyên bố
về tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi. Các nội dung liên quan đến hoạt động CSR
của MSB đối với các bên liên quan và kết quả nghiên cứu về nhận thức về trách nhiệm
xã hội.

2.1. Giới thiệu khái quát về MSB.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển MSB.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần (viết tắt là NHTMCP) Hàng Hải Việt Nam,
tên tiếng Anh Vietnam Maritime Commercial Stock Bank hay Maritime Bank (viết
tắt là MSB) chính thức bước vào hoạt động ngày 12 tháng 7 năm 1991 tại thành phố
Hải Phòng. Sau đó, năm 2005 Ngân hàng (viết tắt là NH) chuyển Hội sở lên Hà Nội,
đánh dấu một mốc phát triển mới trong lịch sử của Maritime Bank.
Maritime Bank ra đời trong thời điểm mô hình NHTMCP còn khá mới mẻ và
có rất nhiều tranh luận về sự phù hợp của mô hình này. Tuy vậy, Maritime Bank đã
có những bước tiến đáng kể và chứng minh được tiềm năng to lớn của mô hình
NHTMCP và có những thành tựu đáng ghi nhận. Trong suốt lịch sử hình thành và
phát triển, Maritime đã có những cột mốc đáng ghi nhớ trong suốt 25 năm phát triển
và nỗ lực không ngừng. Năm 1991, Maritime Bank chính thức thành lập theo Giấy
phép số 0001/NHGP ngày 08/06/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, trở thành một trong những NHTMCP đầu tiên tại Việt Nam; áp dụng hệ thống
Core Banking đầu tiên tại Việt Nam trong quá trình vận hành và hệ thống này tiếp
tục được các ngân hàng khác ở Việt Nam triển khai và sử dụng sau đó.
Năm 2009, Maritime Bank ký hợp đồng tư vấn với đối tác tư vấn và xây dựng
chiến lược phát triển McKinsey, từ đó có những thay đổi đáng kể trong hệ thống và
định hướng. Năm 2010, vốn điều lệ tăng lên 5.000 tỷ đồng, chuyển trụ sở chính về



×