KỲ THI TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG TRUNG HỌC NĂM 2009
Môn thi: Ngữ văn - Giáo dục trung học phổ thông
Thời gian làm bài: 150 phút, không kể thời gian giao đề
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
(5,0 điểm)
Câu 1
(2 điểm):
Trong truyện ngắn
Thuốc
của Lỗ Tấn, khách ở quán trà nhà lão Hoa đã
bàn về những chuyện gì? Hãy cho biết điều nhà văn muốn nói qua những chuyện ấy.
Câu 2
(3 điểm)
: Anh/ chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý
kiến về tác dụng của việc đọc sách.
PHẦN RIÊNG
(5 điểm)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương
trình đó (câu 3.a hoặc 3.b)
Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn
(5,0 điểm):
Phân tích giá trị nhân đạo của truyện
ngắn
Vợ chồng A Phủ
của nhà văn Tô Hoài (phần trích trong
Ngữ văn 12
, Tập hai, NXB
Giáo dục - 2008).
Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao
(5,0 điểm)
: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng
sông Hương trong tác phẩm
Ai đã đặt tên cho dòng sông?
của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường (phần trích trong
Ngữ văn 12 Nâng cao
, Tập một, NXB Giáo dục - 2008).
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu 1:
Bài làm cần có 3 ý chính sau:
1. Giới thiệu vài nét về tác giả - tác phẩm:
- Tác giả: Lỗ Tấn (1881-1936) là nhà văn lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền
văn học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX.
- Tác phẩm
Thuốc
là truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn, đăng lần đầu tiên trên tạp chí
Tân thanh niên
số 5-1919, là bức tranh thu nhỏ về xã hội Trung Quốc tối tăm cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Tác phẩm được đánh giá như một “tiếng thét để an ủi những
người chiến sĩ” và để cảnh tỉnh tinh thần nhân dân, truyền cho họ ý chí nghị lực bước
vào giai đoạn đấu tranh mới.
2. Câu chuyện của những người khách trong quán trà nhà ông bà Hoa
Thuyên:
- Bàn về cái chết của người tử tù Hạ Du và cho rằng anh ta là kẻ “điên rồi”.
- Bàn về việc ông Hoa Thuyên mua được chiếc bánh tẩm máu người tử tù.
- Bàn về hiệu quả của liều thuốc được truyền tụng trong dân gian chữa bệnh lao bằng
bánh bao chấm máu tươi của người.
3. Điều nhà văn muốn nói qua những chuyện ấy:
- Phê phán tuyệt đại bộ phận nhân dân Trung Hoa thời kỳ ấy ngu muội, lạc hậu, như
đang “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”; xã hội Trung Quốc là
một “con bệnh trầm trọng” đòi hỏi một liều “thuốc” mới, cần phát quang một “con
đường” mới.
- Tỏ thái độ đau xót, tiếc thương cho người chiến sĩ chiến đấu hy sinh cho quần chúng
mà quần chúng “ngu muội quá đỗi” không hiểu. Cùng với ý nghĩa trên, tác giả đưa ra tư
tưởng chủ đề của tác phẩm: cần có liều “thuốc” mới chữa căn bệnh rời rã của quốc dân.
Câu 2:
Có thể tham khảo những luận điểm chính sau đây (không cần thiết tuân theo thứ tự):
- Vai trò của sách trong thời đại thông tin nghe – nhìn: khẳng định các phương tiện
thông tin nghe - nhìn đang phát triển ngày nay không thể thay thế được hoàn toàn cho
việc đọc sách.
- Tác dụng của việc đọc sách:
+ Cung cấp thông tin, tri thức mọi mặt.
+ Bồi dưỡng giáo dục, nâng cao khiếu thẩm mĩ, làm cho tâm hồn con người phong phú.
+ Giáo dục đạo đức, tình cảm, hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng đất nước.
+ Chú ý, cảnh giác với sách có nội dung độc hại.
+ Đọc sách là cái đích hướng đến của tất cả mọi người trong khát vọng chinh phục tri
thức.
Câu 3.a:
I. Giới thiệu tác phẩm:
Truyện ngắn
Vợ chồng A Phủ
vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng
chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề
tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức
chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng
rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc
bén và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật
trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã
chứng minh rất rõ điều đó.
II. Phân tích giá trị nhân đạo:
- Cô Mỵ xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “khổ từ trong trứng”. Bố mẹ
nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lý. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã
qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mỵ, thống lý Pá Tra muốn Mỵ làm con dâu
“gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi
dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mỵ về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình
yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ.
- Tô Hoài đã lột trần bản chất bóc lột của giai cấp thống trị ở miền núi trước cách mạng,
đại diện là gia đình thống lý Pá Tra. Cô Mỵ, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ,
thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mỵ ở nhà
chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có
những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mỵ cũng
quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mỵ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mỵ thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua
xót: “Ở lâu trong cái khổ Mỵ quen rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức:
“Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con
ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”.
- Cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá
ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u uất. Hoàn cảnh quyết định tính
cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn thể hiện khá sắc
nét. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bốc lột tất sẽ dẫn đến cảnh
ngộ bi đát ấy.
- Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc
sống, thì
Vợ chồng A Phủ
quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người
phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong
xiềng xích của thần quyền.
- Nhà văn đã cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội
vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mong manh bất ổn. Cảnh cô Mỵ lặng lẽ
ngồi lơ lững trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay
đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái
bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất
lực của Mỵ tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi
được.
- Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh
hiện thực. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc
đời Mỵ. Lý do mà thống lý Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không
phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay
ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công
lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng
kiến tại nhà thống lý. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công
bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.
- Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các
nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn
thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được
ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi. Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa, Tô
Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Đây thật sự là một giá trị nhân
đạo độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất.
- Có ngọn lửa nào đang được khơi lên bằng hơi men. Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay
váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột
biến tâm lý nhưng là kết quả hợp lý toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh
với tính cách nhân vật. Sự
“vượt rào”
của Mỵ tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói
đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị
lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ
lưu giữ trong lòng Mỵ như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt
chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc
giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu
hỏi sáng rõ:
“người kia việc gì phải chết?”
Mỵ quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây
trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mỵ cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ
trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế
nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lý Pá Tra về ở trong đồn, thì
họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại
kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng
muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy.
Mỵ và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu! Đó là
tấm lòng nhân đạo mới mẻ của Tô Hoài nhờ có ánh sáng của cách mạng.
- Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là
bằng ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc
hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao
động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường
cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.
- Giá trị hiện thực của
Vợ chồng A Phủ
đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài.
Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về
xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót. Đó cũng là tấm
lòng nhân đạo của nhà văn trước sự bất hạnh của đồng loại.
- Tính chân thật, chính xác, logic ở những đoạn mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết
thông cảm, biết trân trọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người
ta tinh tế như vậy. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống.
Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm
than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một
thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình
giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Ông vẫn tin rằng hoàn cảnh
dẫu có khắc nghệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đã sống
lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống
mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi
đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm
lại cuộc đời, để sống như một con người. Thể hiện một niềm tin mạnh mẽ vào con
người, đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
III.
Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mỵ và A Phủ. Cái nhìn của ông
về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mỵ
và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả
năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái
nhìn đó đã tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm.
Câu 3.b:
I. Giới thiệu:
Tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp hình tượng dòng sông qua bút pháp tài hoa
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
II. Nội dung chính:
(thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng phải đảm bảo
những ý chính sau đây):
Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp sông hương ở nhiều góc độ: từ thượng nguồn tới khi qua kinh
thành Huế; từ tự nhiên, lịch sử văn hóa, nghệ thuật.
1. Vẻ đẹp sông Hương ở thương nguồn:
- Ở đấy ta gặp một dòng sông đẹp, mạnh mẽ được ví như
“cô gái Digan phóng khoáng
và man dại”
, sông như bản trường ca; sông như cơn lốc, sông như cô gái Di gan và
nâng lên thành vẻ đẹp cao cả:
“người mẹ phù sa”
.
- Tác giả tăng vẻ đẹp cho dòng sông bằng nghệ thuật nhân hóa.
2. Vẻ đẹp sông Hương trước khi về kinh thành Huế:
- Hương giang như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại”.
- Dòng sông mềm như tấm lụa (hình dáng).
- Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím (màu sắc).
- Trôi chậm như mặt hồ yên tĩnh (dòng chảy).
Tất cả đều đó tạo nên một vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí như cổ thi.