Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THỐNG NHẤT một số vấn đề về dạy học môn NGỮ văn ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG đổi mới PPDH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.61 KB, 7 trang )

THỐNG NHẤT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG
ĐỔI MỚI PPDH
(5-1-2014)
SỞ
GIÁO
PHÒNG GDTrH

DỤC



ĐÀO

TẠO



NAM

THỐNG NHẤT MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI PPDH
PHẦN VĂN HỌC
A. Mở đầu:
Trước đây phần Văn học được gọi là Giảng văn. Hiện nay trước sự thay đổi quan niệm về môn Ngữ văn trong
chương trình phổ thông, tên gọi của phân môn cũng có sự thay đổi: phân môn Văn/ Đọc hiểu văn bản (VB) /Đọc văn.
+ Nếu như Giảng văn, phân tích tác phẩm văn học là việc làm của giáo viên (GV), GV là chính, học sinh (HS) là phụ
(GV chủ động, là trung tâm, học sinh thụ động); với những hiểu biết và rung động của mình về tác phẩm văn
chương, thầy cắt nghĩa, bình giảng... nhằm giúp HS hiểu văn, chứ không nhằm đào tạo năng lực tự đọc hiểu văn
bản cho học sinh -> khái niệm đọc chỉ hạn chế trong việc đọc to, đọc chính âm, đọc diễn cảm…là một phương pháp
trong giảng văn. Quan hệ thầy trò là quan hệ một chiều, trò hiểu và rung cảm với sự rung cảm của thầy.
+ Đọc văn/Đọc hiểu VB thì khác: GV hướng dẫn học sinh chủ động thâm nhập, chiếm lĩnh tác phẩm - văn bản.


-> Từ việc khác nhau đó mà việc thiết kế giáo án, tổ chức các hoạt động dạy học cũng thay đổi. Dạy văn là dạy cho
học sinh năng lực đọc, kĩ năng đọc để học sinh có thể đọc - hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà
phát triển năng lực của chủ thể học sinh: có kĩ năng nắm bắt thông tin nhanh nhất, chủ động nhận ra các giá trị văn
học, những ý nghĩa xã hội, có khả năng phản hồi thông tin, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng, cảm xúc, góp phần
tích cực vào việc tham gia vào cuộc sống xã hội với đầy đủ các giá trị: chân, thiện, mĩ trở thành con người phát triển
toàn diện - con người có văn hóa.
B/ Thống nhất một số vấn đề dạy học phần Văn:
I/ Nguyên tắc dạy đọc hiểu trong trường phổ thông:
- Dạy – học văn học xuất phát từ đặc trưng của bộ môn.
- HS là bạn đọc sáng tạo trong quá trình tiến hành hoạt động dạy và học văn học.
- Vì vậy cần đổi mới phương pháp dạy học để HS:
+ Hoạt động nhiều hơn;
+ Thực hành nhiều hơn;
+ Thảo luận nhiều hơn;
+ Suy nghĩ nhiều hơn.
Từ đó mà hình thành năng lực tự đọc hiểu.
- Đảm bảo tính tích hợp.
- GV cần có thái độ dân chủ trong tiếp nhận, chấp nhận những cách hiểu khác nhau của HS từ đó phát huy đối thoại,
thảo luận, phân tích giá trị của từng cách hiểu, chú ý sách lược đọc, để lựa chọn cách hiểu có ý nghĩa nhất, hay
nhất, có sức thuyết phục cao.
- Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học.
II/ Một số vấn đề lưu ý khi thiết kế bài học:
2.1. Mục tiêu bài học: cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ trong chương trình.
- Điều cần bàn ở đây là quan niệm về chuẩn của 1 bộ phận không nhỏ giáo viên còn quá đơn giản, máy móc; thậm
chí chỉ cần gọi tên được những tiêu chí kiến thức về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, hoặc buộc phải có những
chữ tương tự trong cuốn chuẩn KT, KN thế là đảm bảo chuẩn mà chưa chú ý đến cách thức tổ chức hoạt động dạy
và học để làm sao học sinh chiếm lĩnh được đơn vị kiến thức đó. Một đơn vị kiến thức nhưng có nhiều cách thức,
nhiều con đường khám phá và có nhiều cách diễn đạt khác nhau về cùng một vấn đề.
-> Như vậy cần phải hiểu một cách linh hoạt, sáng tạo về chuẩn kiến thức, kĩ năng; từ đó định hướng cho việc lựa
chọn một hệ thống các hoạt động, phương pháp và phương tiện dạy học.

- Trong các đơn vị kiến thức chuẩn cần xác định trọng tâm để nhấn mạnh làm rõ hơn trong bài học. Những kiến thức
còn lại có thể nêu định hướng cho HS tìm hiểu, giáo viên có thể đánh giá việc tiếp thu phần kiến thức này qua kiểm
tra bài cũ. Ở đây chuẩn đã kết hợp với dạy học giảm tải.
2.2. Chuẩn bị của GV và HS:
- GV: chuẩn bị các thiết bị dạy học, phương tiện và tài liệu dạy học cần thiết (tranh ảnh, phiếu học tập, tài liệu tham
khảo, trích đoạn băng hình tư liệu...) Cân nhắc đến hiệu quả của việc sử dụng. Muốn sử dụng công nghệ thông tin
(CNTT), cần cân nhắc: tùy từng bài học, tùy từng đơn vị kiến thức, không nhất thiết bài học nào cũng sử dụng.
- HS: chuẩn bị bài học theo sự hướng dẫn của GV. Giáo viên không nên chỉ yêu cầu đơn giản đối với học sinh là
soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn trong sách giáo khoa (SGK) mà phải cụ thể hóa bằng những việc làm (kể cả việc
yêu cầu HS tự làm và sưu tầm phương tiện và đồ dùng học tập), những câu hỏi phục vụ trực tiếp cho kiến thức của
tiết học tiếp theo.
-> Phần chuẩn bị tương đối quan trọng, tạo tâm thế học tập cho học sinh, thu được hiệu quả cao khi học tiết học sau
đó. Có thể nói: học sinh không chuẩn bị bài thì tiết học đó coi như không thành công.


2.3. Nội dung của thiết kế:
Hoạt động của GV và HS trong một tiết học được chia theo quá trình của tiết học, có thể phân chia thành:
- Hoạt động khởi động, định hướng, tạo tâm thế cho giờ học; có các hình thức sau: kiểm tra bài cũ, kiểm tra phần
chuẩn bị bài mới của học sinh, lời dẫn vào bài mới, hoặc đưa ra một trò chơi, nêu một tình huống có liên quan đến
kiến thức của bài mới (một ý kiến có tính chất phản đề, một vấn đề nghi vấn…),
(Lưu ý: việc kiểm tra phần chuẩn bị bài mới của HS, có thể kiểm tra việc soạn bài, làm bài tập của học sinh bằng
nhiều hình thức như: phát vấn ngay trên lớp, chấm vở soạn của một số HS, yêu cầu tóm tắt tác phẩm, kể tên nhân
vật và các tình tiết chính, nêu cảm nhận ban đầu về tác phẩm…và những câu hỏi bám sát phần hướng dẫn chuẩn bị.
Việc kiểm tra có thể tiến hành ở đầu giờ hoặc đan xen trong giờ học nhưng bắt buộc phải kiểm tra thì mới duy trì
được thói quen chuẩn bị bài của HS, tạo tâm thế học bài mới tốt hơn.)
- Các hoạt động nhằm đạt mục tiêu của bài học về kiến thức kĩ năng bao gồm: hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức
mới, hoạt động củng cố, hoạt động hình thành kĩ năng.
- Hoạt động kết thúc tiết học, bao gồm: đánh giá, ra bài tập về nhà và nhắc học sinh tiến hành các công việc chuẩn bị
cho bài sau.
2.4. Hình thức của thiết kế: Thiết kế có thể trình bày theo nhiều cách:

- Có thể gồm 2 cột:
Công việc của giáo viên Công việc của học sinh
(1) (2)
Cột (1): Ghi rõ các công việc của GV sẽ hướng dẫn HS trong giờ học (cụ thể đến từng hoạt động hoặc thao tác, dự
kiến thời gian).
Cột (2): Ghi rõ yêu cầu và dự kiến mức độ về kiến thức, kĩ năng, thái độ HS cần đạt.
- Có thể trình bày thiết kế theo hình thức tuyến tính (hàng ngang), không chia cột mà xâu chuỗi các hoạt động của
GV và HS…
III/ Một số vấn đề lưu ý khi tổ chức các hoạt động dạy học:
3.1. Thống nhất tên gọi một số tiêu chí của bài học:
a. Các đề mục lớn:
I/ Giới thiệu chung
II/ Đọc hiểu văn bản
III/ Tổng kết
IV/ Củng cố, luyện tập
b. Các đề mục nhỏ:
- Trong phần tìm hiểu chung thường có 2 ý cần triển khai như:
Ý 1. Tác giả: Thời đại / Thân thế / Sự nghiệp (tác phẩm tiêu biểu / phong cách nghệ thuật / vị trí của tác giả trong nền
văn học). Đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm phong cách nghệ thuật của tác giả.
Ý 2. Tác phẩm: xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục, tóm tắt…
- Phần Đọc – hiểu văn bản trong sách Hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng đưa ra hai tiêu chí: Nội dung và nghệ
thuật. Lưu ý đây là kiến thức cần đạt tới chứ không phải là cấu trúc khai thác văn bản tác phẩm. Trong khi hướng
dẫn HS tìm hiểu tác phẩm nếu tách như thế dễ bị trùng lặp về kiến thức, và không phù hợp với việc khai thác văn
bản văn học. GV chủ động lựa chọn kết cấu bài giảng theo kiểu bổ dọc hay bổ ngang tùy theo cách thức tiếp cận.
Phải có thao tác khái quát trong từng đơn vị kiến thức được tìm hiểu, bao gồm nội dung và nghệ thuật, nếu là nhân
vật thì đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật và ý nghĩa của nhân vật. Thể hiện kết quả đọc hiểu của HS.
- Phần tổng kết bài học: dựa trên phần ghi nhớ trong sách giáo khoa cho học sinh đánh giá tác phẩm trên hai mặt nội
dung và nghệ thuật; không nên cho HS ghi 1 câu là ghi nhớ SGK như vậy đồng nghĩa với việc chưa tổng kết bài học.
- Phần củng cố, dặn dò:
+ Củng cố: có thể thực hiện bằng các thao tác như: yêu cầu đọc diễn cảm bài thơ, đọc phân vai với kịch, làm bài tập

trắc nghiệm nhỏ, có thể cho HS xem một cảnh của vở kịch bằng video, hệ thống bài học theo một sơ đồ tư duy…
+ Dặn dò: hướng dẫn HS chuẩn bị bài mới bằng những bài tập cụ thể, yêu cầu HS ghi lại vào vở.
3.2. Tổ chức các hoạt động dạy học trong một giờ Đọc văn:
2.2.1. Một số phương pháp được sử dụng trong một giờ Đọc văn như:
- Dạy học vấn đáp, đàm thoại
- Dạy và học phát hiện giải quyết vấn đề
- Thảo luận nhóm…
-> Những phương pháp này được giáo viên chủ động lựa chọn sử dụng sao cho có hiệu quả, biết kết hợp các
phương pháp một cách hợp lí tạo cho giờ học sự sinh động cuốn hút, học sinh vừa hứng thú học tập vừa có điều
kiện phát triển nhận thức, kỹ năng.
2.2.2. Một số vấn đề cần lưu ý:
Vấn đề thứ nhất: Cần thiết kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại với các phương pháp dạy học truyền thống.
- Tiếp tục sử dụng các phương pháp truyền thống một cách hợp lý:
VD: Phương pháp thuyết trình trong một giờ Đọc văn cũng rất cần thiết. Vậy thuyết trình ở chỗ nào: thuyết trình trong
dẫn dắt, gợi mở; thuyết trình trong giảng bình ý nghĩa của chi tiết, hình ảnh độc đáo; thuyết trình trong việc khái quát
chốt lại ý nghĩa của tác phẩm… một lời giảng bình đẹp, sâu sắc có thể theo các em đi suốt cuộc đời, có tác dụng bồi
đắp tâm hồn, hướng thiện; tạo sức cuốn hút cho một giờ đọc văn. Có thể nói khả năng thuyết trình thể hiện năng lực


của người dạy văn. Vấn đề là ở chỗ cần chú ý đến thời lượng nên dừng ở mức độ nào.
- Việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại là điều rất cần được khuyến khích nhưng phải tính đến
cách thức thực hiện, hiệu quả, và được giải quyết triệt để trọn vẹn trong từng hoạt động dạy học.
Thảo luận nhóm: Phải đưa ra câu hỏi thảo luận thực sự có vấn đề cần thiết phải thảo luận.
Thảo luận nhóm phải để cho HS trình bày quan điểm, trao đổi, nhận xét bổ sung giữa các nhóm, người giáo viên
phải biết định hướng đến những cách hiểu thống nhất, biết phân tích, lý giải và chỉ ra những cách hiểu chưa hợp lí.
Vấn đề thứ hai: chú ý phương pháp đọc: Đây là một trong những phương pháp quan trọng không thể thiếu trong giờ
một giờ Đọc văn. Có thể đọc trước khi đến lớp, đọc để tóm tắt, đọc phần tìm hiểu chung, đọc trong quá trình tìm hiểu
cụ thể, đọc củng cố…; đọc dưới nhiều hình thức: đọc to, đọc thầm, đọc cảm tính - đọc diễn cảm, đọc phân vai…GV
tùy ý lựa chọn cho phù hợp với bài học.
=>Trong thực tế chúng tôi đi dự giờ của GV, phương pháp này rất nhiều khi bị bỏ qua thậm chí là cả trong giờ thi

GVG.
Vấn đề thứ ba: câu hỏi đọc hiểu
* Cần phải có ý thức xây dựng hệ thống câu hỏi trong một giờ Đọc văn để sử dụng trong những phương pháp dạy
học khác nhau.
* Nguyên tắc:
- Ngoài những câu hỏi liên quan đến tác giả và những kiến thức khái quát về tác phẩm; ở phần đọc hiểu chi tiết, chỉ
nêu những câu hỏi về những từ, những câu, những liên kết mà chỉ có hiểu đúng chúng thì mới nắm được ý nghĩa
văn bản.
- Hệ thống câu hỏi này cũng nên thể hiện các mức độ của tư duy mang tính phân hóa phù hợp với từng đối tượng
học sinh từ dễ đến khó:
+ Câu hỏi nhận biết cần nêu câu hỏi yêu cầu HS kể lại hoặc tóm tắt để kiểm tra HS phần đọc, lựa chọn các chi tiết,
hình ảnh tiêu biểu…phù hợp HS trung bình, yếu.
+ Câu hỏi thông hiểu (đọc có suy nghĩ, phân tích) hỏi về các vấn đề do chỗ trống, lạ hóa, chỗ nghĩa chưa xác định
tạo nên; hỏi về ý nghĩa tác dụng của các từ ngữ then chốt, giải thích từ ngữ, câu văn khó … phù hợp HS khá, trung
bình.
+ Câu hỏi vận dụng( vận dụng ở mức thấp, vận dụng ở mức cao) thể hiện sự sáng tạo: từ những hiểu biết cơ bản về
một đơn vị kiến thức mà yêu cầu HS vận dụng tự tìm hiểu và thông báo kết quả…dành cho HS khá giỏi.
* Một số trường hợp cần lưu ý:
- Những chỗ mà HS đọc là hiểu ngay thì không nên mất thì giờ nêu câu hỏi chúng (trừ trường hợp cá biệt).
- Tránh những câu hỏi kiểu: có - không, phải không? Có tính áp đặt và trả lời thụ động không cần suy nghĩ, tạo thói
quen nói đế, nói leo.
- Không nên quá chú trọng việc khái quát nâng lên thành vấn đề chính trị, đạo đức, hoặc những vấn đề của nghiên
cứu văn học sẽ không gây hứng thú cho HS, quá sức học sinh, ví dụ (VD):
1) Tác phẩm Chí Phèo đã nêu lên vấn đề xã hội gì?
2) Những thành công và hạn chế của tác phẩm Chí Phèo?
3) Anh/ chị hiểu thế nào là nhân vật điển hình? Tại sao nói Chí Phèo là nhân vật điển hình độc đáo? (Dẫn theo GS
Đỗ Ngọc Thống)
- Những câu sử dụng kiến thức ngoài văn bản để gợi ý tìm hiểu văn bản chỉ thích hợp sau khi đã đọc hiểu tác phẩm
rồi, mở rộng suy nghĩ. VD:
1) Ban đầu Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Phần đầu truyện có hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không và kết thúc

truyện lại trở lại hình ảnh đó. Điều đó có liên quan gì đến chủ đề của truyện?
2) Cũng viết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, truyện Chí Phèo có gì mới mẻ so với truyện Tắt đèn?
3) Hãy phân tích mối tình giữa Thị Nở và Chí Phèo để làm sáng tỏ nhận định: Cuộc gặp gỡ với Chí Phèo đã lóe sáng
như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dẳng dặc của Chí Phèo.
+ Các kiểu câu mệnh lệnh “hãy phân tích mối tình”, hãy phân tích tâm trạng, tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật,
tìm hiểu và phân tích những hạn chế…(Dẫn theo GS Trần Đình Sử)
- Nếu những câu hỏi đưa ra học sinh không thể trả lời ngay được cũng nên có phương án câu hỏi gợi ý.
Vấn đề thứ tư: Sử dụng công nghệ thông tin trong một giờ Đọc văn (Tiếng Việt, Làm văn):
- Là một trong những cách làm tăng giá trị lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn.
Chúng ta phải suy nghĩ việc sử dụng hợp lý và hiệu quả phù hợp nội dung tiết dạy. Không nhất thiết ở tiết học nào
cũng phải sử dụng trình chiếu.
+ Phải hài hòa ghi bảng và trình chiếu. Những gì đã được trình chiếu rồi không nên viết lại nguyên xi lên bảng phấn.
+ Nên trình chiếu những ngữ liệu tích hợp phức tạp, những kiến thức đối sánh, những hình ảnh tư liệu phù hợp.
+ Những slide trình chiếu nên đánh số thứ tự và ghi rõ nội dung trình chiếu là gì ngay trong giáo án.
- Tránh: đưa quá nhiều chữ, lời bình dài khó theo dõi, tạo thói quen nhìn chép cho HS; hoặc đưa vào những hình ảnh
minh hoạ phản cảm, ví dụ: chim đại bàng minh họa cánh chim trong Chiều tối, một đàn con nở ra từ cái bọc trăm
trứng minh họa cho câu thơ: Lạc Long Quân và Âu Cơ…; không nên dùng quá nhiều hiệu ứng, hình ảnh động, nhiều
màu sắc, rối…
Một số vấn đề về dạy học theo đặc trưng thể loại, kiểu bài chưa bàn nhiều ở đây, vấn đề này sẽ là chủ đề cho hội
thảo lần sau.


PHẦN
TIẾNG
VIỆT
I. Vị trí, nhiệm vụ và đặc điểm của phân môn tiếng Việt ở trường phổ thông
1. Tiếng Việt là một trong ba phân môn giữ vị trí quan trọng nhất định trong bộ môn Ngữ văn nói riêng và trong các
môn học cơ bản nói chung của chương trình phổ thông. Ở cấp tiểu học phân môn tiếng Việt là tên gọi thay thế cho
cả bộ môn Ngữ văn, thể hiện nhiệm vụ chủ đạo của cấp học chú trọng đến việc dạy tiếng, dạy chữ cho học sinh. Lên
đến cấp trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) phân môn tiếng Việt chuyển dần sang vị trí tương đối

cân
bằng
so
với
hai
phân
môn
còn
lại.
Chương trình Ngữ văn hiện nay được biên soạn theo hướng tích hợp, tiếng Việt cùng với Văn và Làm văn hướng tới
việc hình thành và nâng cao kiến thức sử dụng ngôn ngữ cho người học làm cơ sở cho việc sử dụng và lĩnh hội
ngôn ngữ trong mọi hoạt động giao tiếp và tư duy, rèn luyện và phát triển kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
Tiếng Việt không bó hẹp trong phạm vi hệ thống cấu trúc mà ngày càng hướng tới tính ứng dụng, thực hành đúng
như
ngôn
ngữ
trong
đời
sống
thực
của
nó.
Những điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy và học môn Ngữ văn nói chung, tiếng Việt nói riêng, định hướng
cho
cả
hệ
thống
phương
pháp
dạy

học
được
sử
dụng.
2. Tuy nhiên, với tình hình học tập bộ môn Ngữ văn hiện nay của học sinh và thói quen của giáo viên thì phân môn
tiếng Việt chưa thực sự được chú ý đầu tư. Hệ quả là HS sử dụng tiếng Việt còn nhiều hạn chế như: viết câu sai về
ngữ pháp, dùng từ thiếu chính xác, diễn đạt không trúng và không đúng ý, câu văn không cảm xúc, chưa biết đa
dạng các kiểu câu hay diễn đạt một vấn đề theo nhiều cách khác nhau trong làm văn cũng như trong thực tế giao
tiếp...,
thậm
chí,

học
sinh
cả
bài
văn

một
đoạn
không
dấu
chấm
câu.
Vậy phải dạy tiếng Việt như thế nào cho có hiệu quả? Đây là câu hỏi đặt ra đối với mỗi GV đứng lớp.
II/ Khái quát về cấu trúc phân môn Tiếng Việt trong chương trình trung học phổ thông:
2.1. Đơn vị kiến thức: Chương trình Tiếng Việt hiện nay được phân đều ở các khối lớp và có thể xếp vào 4 nhóm
sau:
Nhóm
1:

Những
vấn
đề
chung
về
ngôn
ngữ
Nhóm
2
:
Về
từ
vựng
Nhóm
3:
Về
ngữ
pháp:
Nhóm
4
:
Về
phong
cách
học
2.2.
Loại
bài:
Loại
bài


thuyết:
hình
thành
kiến
thức


năng
mới
Loại
bài
thực
hành:
củng
cố
kiến
thức


năng
đã
được
học.
III/
Thống
nhất
một
số
vấn

đề
về
dạy
học
tiếng
Việt:
3.1.
Nguyên
tắc
dạy
học
tiếng
Việt:
Phải
bám
sát
chuẩn
kiến
thức,

năng.
- Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp: phải đặt các đơn vị ngôn ngữ đưa ra giảng dạy, học tập trong hệ thống
hành chức của nó (ví dụ: đặt từ trong câu, đặt câu trong đoạn, đoạn trong văn bản…) tìm hiểu kiến thức về bản thân
ngôn ngữ phải gắn với việc xem xét khả năng hoạt động của nó trong giao tiếp và tư duy, trong nói và viết.
- Nguyên tắc tích hợp: huy động kiến thức sẵn có về tiếng Việt với những kiến thức, kĩ năng có trong bài học để mở
rộng, làm sâu sắc, nâng cao thêm kiến thức lí thuyết về tiếng Việt. Tích hợp với phần Văn và Làm văn.
Chú
trọng
khâu
luyện

tập
thực
hành.
- Phương pháp được lựa chọn phải phù hợp với đối tượng, đặc trưng bộ môn, kiểu bài; phối hợp nhiều phương
pháp để giờ học không nhàm chán, tạo tâm thế chủ động, gây hứng thú cho HS.
3.2.
Phương
pháp
cụ
thể
cho
từng
kiểu
bài:
3.2.1.
Dạng
bài

thuyết:
a.
Cấu
tạo
2
phần:
Bài
học
Luyện
tập.
b.
Các

bước
tiến
hành:


Phần
1:
Xây
dựng
khái
niệm

thuyết
(Bài
học):
*
Bước
1:
Tìm
hiểu
ngữ
liệu.
- Nên theo hướng quy nạp, từ những ngữ liệu cụ thể cho học sinh tìm hiểu, phân tích lí giải, nhận xét, từ đó mà hình
thành
khái
niệm.
Tổ
chức
hoạt
động

dạy
học:
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngữ liệu thông qua những câu hỏi gợi ý trong SGK.
+ Có thể phân nhóm hoặc cho học sinh làm việc cá nhân sau đó báo cáo kết quả.
+ Cho HS nhận xét ngữ liệu từ đó khái quát vấn đề lý thuyết, rút ra khái niệm.
- Yêu cầu: bám sát các ngữ liệu trong SGK, kết hợp lấy thêm ngữ liệu bên ngoài phù hợp với bài học. Nếu những bài
mà SGK cung cấp nhiều VD cũng không nhất thiết phải phân tích hết, nên xoáy vào một hai ngữ liệu tiêu biểu,
những
ngữ
liệu
còn
lại
hướng
dẫn
cho
học
sinh
tự
tìm
hiểu.
Trong thực tế có rất nhiều giáo viên khi dạy phần này lại quá chú trọng đến ngữ liệu bên ngoài, thậm chí thay hoàn
toàn ngữ liệu SGK. Điều này cũng chứng tỏ sự công phu, sáng tạo của giáo viên. Song trên thực tế sẽ mất thêm
nhiều thời gian của tiết học thay vì có thể sử dụng sách giáo khoa một cách có hiệu quả hơn.
Ngữ liệu bên ngoài cũng có thể dùng sau khi tìm hiểu ngữ liệu trong SGK và xem nó như một bài tập vận dụng, có
sự định hướng tìm hiểu; hoặc có thể thay thế ngữ liệu trong SGK trong trường hợp thực sự đảm bảo tính chính xác,
khoa
học
hơn
ngữ
liệu

trong
SGK.
Đó

thể
là:
+
Ngữ
liệu
gắn
với
thực
tế.
Ví dụ: khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, có thể lấy nhiều ngữ liệu là những đoạn hội thoại ghi âm được
trong cuộc sống hằng ngày hoặc các đoạn hội thoại của chính các em để phân tích.
+
Cho
HS
liên
hệ
mở
rộng
tới
việc
phát
triển
của
ngôn
ngữ
hiện

nay.
Ngôn ngữ luôn biến đổi cùng đời sống xã hội, vì thế trong quá trình dạy học tiếng Việt cần chỉ rõ cho các em về sự
biến đổi này. Từ đó hướng các em tới việc sử dụng tiếng Việt trong sáng hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, có thể liên hệ tới ngôn ngữ 9X đang gây xôn xao dư luận hiện
nay với những biến đổi về ngữ âm (thay đổi hình thức của các phụ âm đầu, phụ âm cuối và vần trong tiếng: pạn pè
(bạn bè), hem thik (không thích),…), kết hợp từ (ảo tung chảo, buồn như con chuồn chuồn, chán như con gián,…).
Từ việc liên hệ này GV có thể cho HS nhận xét và thể hiện thái độ trong việc lựa chọn ngôn từ thích hợp khi giao
tiếp.
*
Bước
2:
Ghi
nhớ
nội
dung
bài
học.
- Giáo viên yêu cầu HS phát biểu khái niệm trên cơ sở xem xét ngữ liệu hoặc đọc lại phần ghi nhớ trong SGK.
GV
nhấn
mạnh
lại
những
nội
dung

bản,
lưu
ý
trọng

tâm
kiến
thức.
*
Bước
3:
Luyện
tập
- Vị trí của phần luyện tập trong một bài cung cấp lý thuyết cũng rất quan trọng vì với ngôn ngữ, học kiến thức lý
thuyết

hình
thành

năng
sử
dụng
ngôn
ngữ.
Thời
lượng
khoảng
15
phút.
- Các dạng bài tập: kết hợp bài tập trong SGK và nếu còn thời gian thì lấy thêm những bài tập bên ngoài, theo các
cấp
độ
từ
dễ
đến

khó:
nhận
biết,
thông
hiểu,
vận
dụng.
Tổ
chức
hoạt
động:
+ Sử dụng phương pháp làm mẫu: Tập trung giải quyết một bài tập tiêu biểu, sau đó yêu cầu HS làm việc cá nhân
hoặc theo nhóm, có thể lên bảng trình bày, hoặc định hướng về nhà…-> Hình thức phải sinh động, linh hoạt.
+ Có thể cho HS tự lấy thêm bài tập bên ngoài theo dạng tương tự, tìm những hiện tượng ngôn ngữ trong đời sống,
trong văn học có liên quan đến bài học và tìm hiểu, lý giải. Hoặc giáo viên có thể đưa ra các hiện tượng ngôn ngữ
trong
đời
sống
hiện
nay
để
học
sinh
thảo
luận,

giải.
+ Sau khi thực hành, GV có thể yêu cầu HS nhắc lại kiến thức lý thuyết của tiết học, ra bài tập về nhà.
3.2.2.
Dạng

bµi
thùc
hµnh:
*
Bước
1:
Củng
cố

thuyết
(khoảng
57
phút).
Đối với những bài thực hành mà kiến thức lý thuyết lại không hề được cung cấp trong chương trình, giáo viên cũng
nên nghiên cứu tìm hiểu thêm tài liệu để định hướng cho các em những hiểu biết cơ bản nhất về lý thuyết làm cơ sở
cho
việc
thực
hành.
*Bước
2:
Làm
bài
tập:
- Các loại bài tập: trước hết ưu tiên giải quyết các bài tập trong SGK, có thể lấy thêm một số các bài tập vận dụng ở
ngoài
(tích
hợp
phần
Văn


từ
thực
tế
sử
dụng
ngôn
ngữ).
Tổ
chức
hoạt
động:
+ Một tiết thực hành thường gồm rất nhiều bài tập, từ dễ đến khó, cho nên phải đa dạng hóa cách thức tiến hành để
tránh nhàm chán, mệt mỏi: chia nhóm, làm việc cá nhân, gọi HS làm bài ngay trên bảng…GV cho nhận xét, bổ sung,
đánh
giá
bài
làm
của
học
sinh.
+ Đối với những tiết dạy có quá nhiều bài tập, không nhất thiết phải làm hết các bài tập, mỗi loại nên cho thực hành
mẫu
còn
lại
định
hướng
cho
HS
làm

bài
tập

nhà.
+ Điều quan trọng của thực hành là phải hình thành kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh phù hợp với đơn vị kiến
thức được cung cấp.


PHẦN
LÀM
VĂN
I/
Vị
trí,
thực
trạng
của
phân
môn
Làm
văn:
- Trước đây, Làm văn được tách riêng thành môn học. Chương trình hiện nay được xây dựng trên nguyên tắc tích
hợp, Làm văn trở thành một phần của bộ môn Ngữ văn và chiếm một thời lượng không nhỏ.
- Vị trí của phần Làm văn quan trọng không chỉ ở thời lượng mà còn vì nó ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá kết
quả
chung
của
việc
học
tập

môn
Ngữ
văn.
- Tuy nhiên, do tính chất của phân môn thiên về cung cấp những kiến thức về lý thuyết kiểu bài, rèn kĩ năng nên
thường được cho là kém hấp dẫn, giáo viên ngại dạy, học sinh ngại học. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng
này? Đổi mới phương pháp dạy Làm văn như thế nào, quy trình dạy văn ra sao?
II/
Thống
nhất
một
số
vấn
đề
về
dạy
học
Làm
văn:
2.1.
Nguyên
tắc
dạy
Làm
văn:
Gắn

thuyết
với
thực
hành.

- Chú ý hình thành kĩ năng cho HS: Dạy học Làm văn là sau mỗi tiết học cần hình thành được cho học sinh những kĩ
năng
nhất
định
về
kiểu
bài,
các
thao
tác
nghị
luận,

năng
nói

viết.
Vấn đề đặt ra là sau mỗi bài học, GV phải hướng dẫn HS khái quát lại các bước thực hiện một cách thật ngắn gọn,
dễ ghi nhớ và phải cho HS thực hành nhiều lần về cùng một kiểu bài, một thao tác nghị luận…
VD: Dạng bài NLXH về một tư tưởng đạo lí, ngoài phần mở bài và kết bài có thể khái quát thành 3 bước:
B1: Hiểu được tư tưởng đạo lí cần bàn là gì? (giải thích rút ra ý nghĩa khái quát).
B2:
Bày
tỏ
thái
độ:
+
Khẳng
định
tính

đúng
đắn
của

tưởng
đó
(vai
trò,
phân
tích
biểu
hiện).
+ Lật ngược vấn đề, bổ sung, phê phán những quan niệm tiêu cực, trái chiều với tư tưởng đạo lí đang bàn.
B3:
Rút
ra
bài
học
thực
tế.
Kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học trong chương trình cơ bản ít được giáo viên quan tâm vì đây là một
dạng bài khó. Nhưng với các em tham dự thi chọn học sinh giỏi cũng cần thiết được trang bị, khắc sâu về kĩ năng.
Trong quá trình ôn luyện, giáo viên cũng cần chú ý rèn kĩ năng cho HS về kiểu bài này. - Dạy, học Làm văn theo
phương
pháp
tích
hợp.
a. Tích hợp giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn (Tích hợp ngang)
b.
Tích

hợp
trong
cùng
phân
môn
(Tích
hợp
dọc)
c.
Tích
hợp
những
kiến
thức
ngoài
thực
tế
cuộc
sống.
Đổi
mới
kiểm
tra,
đánh
giá.
2.2.
Quy
trình
dạy
học

phân
môn
Làm
văn:
Làm văn thường có bốn loại bài học: lí thuyết, thực hành luyện tập, bài viết và trả bài.
2.2.1.
Bài

thuyết:
Hình
thành

thuyết:
+
Tìm
hiểu
ngữ
liệu.
+
Nội
dung
bài
học:
khái
quát
hình
thành
những

năng


bản.
- Luyện tập: giải quyết các bài tập trong SGK để khắc sâu kĩ năng thực hành cho HS. Có thể đưa thêm một số đề bài
luyện tập gắn với kiến thức phần Văn và Tiếng Việt phù hợp với nội dung bài học.
2.2.2.
Bài
thực
hành:
Ôn
lại

thuyết
(5-7
phút).
Làm
bài
tập
thực
hành:
+ Loại bài tập: kết hợp bài tập trong SGK và các bài tập vận dụng gắn với những đề bài ôn tập phần Văn, các bài
làm
của
học
sinh…gắn
với
thực
tiễn.
+ Hoạt động dạy học: cần đa dạng hóa các hoạt động dạy học để tránh tâm lí mệt mỏi, nhàm chán (làm việc cá nhân,
làm
việc

theo
nhóm,
học
sinh
thực
hành
GV
chấm
chữa
ngay
trên
lớp...).
2.2.3.
Bài
viết
kiểm
tra:
Yêu
cầu
soạn
bài
đầy
đủ
các
bước
như
một
giáo
án.
Lưu

ý:
+ Phần chuẩn bị của HS: cần ghi rõ HS phải ôn phần kiến thức nào để làm bài kiểm tra, điều này sẽ liên qua đến
mục
tiêu
cần
đạt

kế
hoạch
ôn
tập
của
cả
GV,
HS.
+
Soạn
đề
bài
phải
soạn
luôn
đáp
án

biểu
điểm.
Thực
tế
GV

chỉ
soạn
đề
bài,
không
thể
hiện
hoạt
động
dạy
học.
2.2.4.
Tiết
trả
bài:
- Yêu cầu soạn đầy đủ các bước lên lớp, tiến trình dạy học và các hoạt động dạy học như một tiết học bình thường.
Trong
tiến
trình
dạy
học

thể
thống
nhất
một
số
tiêu
chí
như

sau:
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu đề và xây dựng đáp án: hoạt động này giống như một hình thức ôn luyện, vận
dụng
kiến
thức
của
ba
phân
môn.
Hoạt động 2: Nhận xét ưu nhược điểm (phải cụ thể, có minh họa, nhắc nhở, sửa chữa).


Hoạt
động
3:
Trả
bài
cho
học
sinh
xem
lại.
Hoạt động 4: Thống kê kết quả để theo dõi chất lượng giảng dạy từ đó điều chỉnh kiến thưc và phương pháp.
III/
Bàn
thêm
về
đổi
mới
kiểm

tra
đánh
giá:
- Hiện nay khuynh hướng ra đề theo hướng mở cũng là một tiêu chí đánh giá năng lực tự đọc hiểu của học sinh,
phát
huy
vai
trò
chủ
thể
của
người
học.
Lưu
ý:
+ Đề mở trong nghị luận văn học (NLVH), nghị luận xã hội (NHXH), thậm chí ngay trong câu hỏi tái hiện.
+ Nhất là đề thi học sinh giỏi. Mấy năm gần đây cứ tập trung vào một kiểu ra đề là lấy một câu chuyện rồi yêu cầu
phát biểu suy nghĩ. Cũng rất hay nhưng ra mãi một kiểu thì sẽ tạo ra cảm giác nhàm chán. Thậm chí có GV đi ra đề
thi chọn học sinh giỏi lấy nguyên đề luyện tập trong SGK, copy trên mạng; đây là cần tránh tối đa. Tạo ra những bất
ngờ từ ngay những đề văn sẽ khơi dậy vốn sống, hứng thú sáng tạo ở HS.
Xin
giới
thiệu
với
các
thầy

giáo
một
số

đề
thi
hay:
Các
đề
thi
của
Trung
Quốc:
1. Đề thi của Bắc Kinh: Viết một bài viết với tiêu đề “Một nét chấm phá về Bắc Kinh”.
2. Đề thi tỉnh Giang Tây: Có con chim yến nọ sau khi ấp trứng trở nên rất béo, không thể bay được cao. Mẹ của chim
yến khuyên nó nên tăng cường tập luyện để giảm béo, như thế mới có thể bay được cao. Lấy “Chim yến giảm béo”
làm
chủ
đề,
tự
đặt
tiêu
đề

viết
một
bài
800
chữ.
3.
Đề
thi
thành
phố

Trùng
Khánh:
(1)
Hãy
viết
một
bài
viết
200
chữ
miêu
tả
một
bến
xe.
(2) Bước đi và dừng lại là hiện tượng thường gặp trong cuộc sống, nó đã giúp ta có được những suy nghĩ và liên
tưởng về tự nhiên, xã hội, lịch sử, nhân sinh. Hãy lấy chủ đề “Bước đi và dừng lại” để viết một bài viết 600 chữ.
Đề
văn
của
Hoa

trong
một
số
cuốn
SGK
văn
học:
VD:

lớp
10.
1. Viết một bài luận về một website âm nhạc, trong đó hãy phân tích tính trữ tình của một bài hát cụ thể. Cho ví dụ để
giúp
người
đọc
hiểu
tại
sao
tính
trữ
tình
lại
quan
trọng
với
bạn.
2. Những vấn nạn ở học đường, trong cộng đồng và trong thế giới rộng lớn này là khó tránh khỏi. Hãy chọn một vấn
nạn mà bạn quan tâm sâu sắc và viết bài luận chỉ rõ vấn đề, phân tích nguyên nhân và nêu các giải pháp có thể…
Ở Việt Nam: những năm gần đây tài liệu tham khảo đề nghị luận xã hội vô cùng phong phú, có nhiều có rất nhiều đề
văn
hay:
VD:
Viết
một
bài
văn
với
chủ
đề:

Người
chiến
thắng
(Hà
Nội,
2008)
Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em (khối chuyên THPT trường ĐH Sư phạm Hà Nội).
D/
Kết
luận:
Trên đây là những ý kiến thống nhất có tính định hướng về quy trình và phương pháp dạy học môn Ngữ văn theo
từng phân môn. Khi thực hiện, GV nên chủ động linh hoạt trong từng bài học cụ thể, không nên quá cứng nhắc cứ
phải
thế
này
hay
cứ
phải
thế
kia

quan
trọng


tính
hiệu
quả.
Các tổ nhóm chuyên môn tiếp tục trao đổi thảo luận đóng góp ý kiến bổ sung để đạt được sự thống nhất, góp phần
vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn của tỉnh nhà.




×