Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 195 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC
SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH CNDVBC&CNDVLS

Mã số: 9229002

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Sỹ Phán

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tơi. Các số liệu trích dẫn trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận nêu
trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất cứ
cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Huyền


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Cụm từ đầy đủ

Cụm từ viết tắt
CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐH

Đại học

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

KTTT

Kinh tế thị trường

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ..............................................................................................................................6
1.1. Những cơng trình nghiên cứu về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa............................................................................................6

1.2. Những cơng trình nghiên cứu về đạo đức, tác động của kinh tế thị trường đến
đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên và sinh viên ngành xây dựng nói
riêng .......................................................................................................................10
1.3. Những cơng trình nghiên cứu, một số văn bản về giải pháp nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực từ sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo
đức sinh viên và sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay ............................21
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................29
Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC
SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN ..........................................................................................................31
2.1. Kinh tế thị trường và sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức ...........31
2.1.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam .............................................................................................................31
2.1.2. Đạo đức, tính quy luật của sự hình thành và phát triển đạo đức............36
2.1.3. Cơ chế tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức ...............................38
2.2. Sinh viên ngành xây dựng và những chuẩn mực đạo đức cần có của sinh viên
ngành xây dựng dưới tác động của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay ............49
2.2.1. Sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay và đặc điểm của họ ......49
2.2.2. Những chuẩn mực đạo đức cần có của sinh viên ngành xây dựng ở Việt
Nam hiện nay ......................................................................................................57
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................69
Chương 3: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
MỘT SỐ KẾT LUẬN RÚT RA .............................................................................70
3.1. Thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở Việt Nam hiện nay .....................................................................................70
3.1.1. Tác động tích cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở
Việt Nam hiện nay ..............................................................................................70



3.1.2. Tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở
nước ta hiện nay .................................................................................................97
3.2. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu thực trạng tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay .................112
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................115
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ..................................................................................................116
4.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo
đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay...........................................116
4.2. Đổi mới chương trình đào tạo, hình thức giáo dục đạo đức nhằm phát huy tác
động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành
xây dựng hiện nay ................................................................................................121
4.3. Nâng cao vai trò của các chủ thể giáo dục nhằm phát huy tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở
nước ta hiện nay ...................................................................................................133
4.4. Nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện đạo đức
của sinh viên ngành xây dựng dưới sự tác động của kinh tế thị trường ..............143
Tiểu kết chương 4 ..................................................................................................148
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................149
PHỤ LỤC LUẬN ÁN ............................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................175


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển. Với chủ trương chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng, từng bước ổn
định, ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình.
Về mặt nhận thức, kinh tế thị trường là thành tựu của nền văn minh nhân
loại. Nó chẳng những khơng đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của
việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói - kinh tế thị trường là “một thành quả to lớn mà
nhân dân lao động thể lực và trí lực trên thế giới đã sáng tạo ra và ngày càng hoàn
thiện trong lịch sử lâu đời của nhiều dân tộc và của loài người cho đến thời đại ngày
nay” [70; tr 59].
Kinh tế thị trường một mặt phát huy tác dụng tích cực đến sự phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất cho người dân; kích thích tính tích
cực, sáng tạo của người lao động; góp phần nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức
đối với xã hội v.v. Mặt khác, kinh tế thị trường cũng tạo ra những hệ lụy, làm suy
thoái đạo đức con người ở nhiều lứa tuổi, ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Tại Đại
hội lần thứ VII, Đảng ta đã chỉ rõ “bản thân nền kinh tế thị trường không phải là
liều thuốc vạn năng. Hơn nữa, cùng với việc kích thích sản xuất phát triển, kinh tế
thị trường cũng là môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn
xã hội” [52; tr 55]. Thậm chí “kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn
với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là
tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm…” [53;
tr 72].

1


Cùng với những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có những tác

động tiêu cực đến ý thức, hành vi đạo đức của khơng ít sinh viên Việt Nam nói
chung, sinh viên ngành xây dựng nói riêng. Những hiện tượng thiếu trung thực
trong hoạt động xây dựng những năm gần đây như: rút ruột cơng trình, móc ngoặc
giữa thiết kế với thi cơng; giữa nghiệm thu cơng trình với thanh quyết tốn; thất
thốt, lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng; làm giả hồ sơ đền bù v.v. đang
trở thành tấm gương phản diện, tác động tiêu cực đến ý thức, tinh thần, thái độ học
tập, rèn luyện; đến lý tưởng, niềm tin chính trị; đến đạo đức, lối sống của một bộ
phận sinh viên ngành xây dựng nước ta hiện nay.
Bên cạnh đa số sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành xây dựng nói
riêng sống có ước mơ, hồi bão lớn lao, tình nguyện vì cộng đồng, quyết tâm học
tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì hạnh phúc của bản thân, vì tiền
đồ của dân tộc, hiện vẫn cịn khơng ít sinh viên sống thực dụng, chạy theo các trào
lưu, xu hướng lệch lạc, thiếu ý chí phấn đấu, rèn luyện vươn lên, thậm chí một số
sinh viên cịn vi phạm pháp luật.
Vậy làm thế nào để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng nước ta hiện nay? Những
chính sách kinh tế - xã hội nào cần được bổ sung, sửa đổi; những giải pháp nào
mang tính khả thi để có tác động tích cực đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng
nước ta, để họ có thể trở thành những kỹ sư ngành xây dựng tương lai vừa có
chun mơn nghề nghiệp giỏi, vừa có phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước? Đó là những vấn đề cấp thiết cần phải được giải quyết.
Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Tác động của kinh tế thị trường đến đạo
đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận án tiến sĩ
triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích:
Trên cơ sở góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tác động
của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay,

2



cũng như thực trạng của sự tác động đó, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường
đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; đạo đức;
tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức; xác định những chuẩn mực đạo đức
của sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở
nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu tác động của kinh tế
thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay ở cả hai mặt,
tác động tích cực và tác động tiêu cực.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành
xây dựng trên cả nước, nhưng diện khảo sát chủ yếu ở 5 trường đại học và cao đẳng
có quy mơ đào tạo số lượng sinh viên ngành xây dựng tương đối lớn ở Hà Nội, đó
là: ĐH Xây dựng, ĐH Kiến Trúc Hà Nội, ĐH Giao thông Vận tải, ĐH Thủy Lợi và
Cao đẳng Xây dựng Hà Nội.
Đối tượng khảo sát là sinh viên năm thứ 4, 5, vì đây là đối tượng đã trải qua
thời gian học tập nhất định tại trường, đã học các chương trình tiên tiến chuyên
ngành xây dựng, đã làm đồ án các mơn học chun ngành và có thời gian thực
hành, thực tập tại công trường hoặc các cơ sở đào tạo. Do đó, phần lớn sinh viên các
năm này, có thể đánh giá được mức độ tác động tích cực và tác động tiêu cực của

KTTT đến ý thức, thái độ, hành vi học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.

3


Về mặt thời gian: Từ năm 1986 đến nay. Tức là từ khi nước ta chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta gọi đó là
“nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước Việt Nam về kinh tế thị trường, về đạo đức sinh viên nói chung và đạo
đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng. Ngồi ra, tác giả cịn kế thừa một số kết
quả nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp lịch sử và logic, phân tích,
tổng hợp, so sánh, hệ thống, thống kê ... Ngồi ra, luận án cịn sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu (với các thầy cô đã và đang làm công tác giảng dạy tại các trường đại
học, cao đẳng thuộc ngành xây dựng), phương pháp chuyên gia, sử dụng bảng hỏi,
sử dụng các số liệu thứ cấp nhằm đánh giá tác động của kinh tế thị trường đến đạo
đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
Phương pháp tiếp cận của luận án là đi từ cái chung đến cái riêng. Từ tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung đến thực trạng tác động
của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng. Trên cơ sở
đó, phát hiện những vấn đề nảy sinh và tìm giải pháp để giải quyết các vấn đề đó.
5. Những đóng góp khoa học của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan tới sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây
dựng ở nước ta hiện nay.

4


- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng
ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về sự
tác động (tích cực và tác động tiêu cực) của kinh tế thị trường đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Đánh giá thực trạng tác động của kinh tế thị trường đến
đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn đạo đức học, đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành xây dựng nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình khoa học của tác giả
luận án đã được công bố, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11
tiết.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những cơng trình nghiên cứu về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa
Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến kinh tế thị trường và kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả,
nhà nghiên cứu. Có khơng ít cơng trình khoa học liên quan đến các vấn đề này đã
được cơng bố. Trong số đó, có thể đề cập đến một số cơng trình sau:
Năm 2008, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành cuốn “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Vũ Đình Bách. Trước khi đi sâu
phân tích biểu hiện, đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, tác giả đã có những luận giải về kinh tế thị trường và cho
rằng, trong KTTT tính cạnh tranh là nhân tố quyết định việc phân bổ hiệu quả các
nguồn lực và nhấn mạnh “tính tự phát của kinh tế thị trường đôi khi gây nên những
tổn thất to lớn như lạm phát, thất nghiệp, suy thối, xâm hại mơi trường, cạn kiệt
những nguồn tài nguyên không thể tái sinh” [5; tr 39]. Còn quy luật giá trị được coi
là quy luật chung, quy luật căn bản của kinh tế hàng hóa, yêu cầu sản xuất và trao
đổi hàng hóa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong cuốn “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Lý luận và
thực tiễn”, do Nguyễn Duy Hùng làm chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)
đã có rất nhiều bài viết liên quan đến kinh tế thị trường. Theo các tác giả của cuốn
sách: kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành
do trao đổi và lưu thơng hàng hóa làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy
lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến
khích hoạt động kinh tế. Xem KTTT là một loại quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị,
nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. KTTT là một phạm trù
kinh tế hoạt động, có chủ thể của q trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau
của các chủ thể hoạt động… Sự tác động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp
hay giai cấp này, có hại cho người, tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên KTTT có

6



mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Khơng thể nhấn mạnh chỉ một trong hai mặt
đó [80; tr 60].
Cuốn sách “Định hướng phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
tác giả Phạm Văn Dũng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010) đã khái lược về
sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường cũng như bản chất của nền kinh tế
đó. Theo tác giả, KTTT có những ưu thế nhất định, đó là nền KTTT rất năng động,
sử dụng hiệu quả các nguồn lực, duy trì động lực mạnh mẽ cải tiến kỹ thuật, phát
triển LLSX, “loại bỏ được nhanh chóng những nhân tố lạc hậu khơng hiệu quả,
khuyến khích được các nhân tố tích cực, hiệu quả. Đó là do sự tác động của các quy
luật thị trường”.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những khuyết tật của KTTT, đó là sự phát
triển khơng ổn định do tính tự phát của nền kinh tế, là “tình trạng khai thác và sử
dụng tài nguyên quá mức dẫn đến cạn kiệt tài ngun và ơ nhiễm mơi trường”
(trang 20). Đó cịn là “bất bình đẳng xã hội thể hiện trên cả ba mặt - thu nhập, tài
sản, cơ hội kinh doanh” (trang 21).
Trong bài “Đặc điểm, bản chất của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, tác giả Đỗ Thế Tùng quan niệm:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị trường,
lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ hàng hóa - tiền tệ làm cơ sở, là kinh tế hàng
hóa đạt đến trình độ xã hội hóa cao và trình độ kỹ thuật cao, trong đó tồn bộ hay
hầu hết đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thơng qua thị trường [64; tr 16].
Ngồi một số cơng trình trên, trong nhiều cuốn sách, bài viết khác, nhiều tác
giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề kinh tế thị trường. Sự phân tích này
sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho NCS trong quá trình thực hiện mục tiêu và nhiệm
vụ luận án, nhất là khi nghiên cứu sự tác động của KTTT đến đạo đức sinh viên
ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
So với những nghiên cứu liên quan đến kinh tế thị trường, những nghiên cứu
về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây phong
phú hơn nhiều. Trong số đó có thể kể đến một số cơng trình sau: Cuốn “Đặc trưng


7


của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do tác giả Vũ
Đình Bách và Trần Minh Đạo đồng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm
2006; cuốn “Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp” do Phạm Văn Dũng chủ biên (Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2009); cuốn “Hướng tới nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt
Nam” do Nguyễn Văn Nam chủ biên (Nxb Công Thương, năm 2010) v.v. Trong
các cơng trình khoa học này, nhiều vấn đề lý luận liên quan đến KTTT định hướng
XHCN đã được làm sáng tỏ, như: tính tất yếu, bản chất tính ưu việt của KTTT định
hướng XHCN; vấn đề tương quan giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân ở Việt
Nam; vai trò của nhà nước, tự do hóa kinh tế quốc tế và thực hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội; các điều kiện cơ bản và các thể chế đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam [47] . Đặc biệt trong bài viết
của mình, tác giả Phan Thanh Phố đã chỉ ra bản chất của nền KTTT định hướng
XHCN đó là: Kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp biện chứng giữa cái chung
là kinh tế thị trường với cái đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên trình
độ phát triển xã hội hóa sản xuất trong đó, lấy xã hội hóa sản xuất làm trục và lấy
định hướng xã hội chủ nghĩa làm nguyên tắc và mục tiêu chủ đạo trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cùng với các cuốn sách, trên các tạp chí khoa học cũng đăng tải một số bài
viết liên quan đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn, tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10-2014 có bài “Một số mâu thuẫn trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả
Trần Thành; tạp chí Lý luận chính trị số 3-2014 có bài “Những đặc trưng của kinh
tế thị trường và nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” của Vũ Văn Phúc; Nguyễn Văn Thanh với bài “Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý luận chính trị số 6-2015); Trần
Văn Phịng có bài “Có phải kinh tế thị trường thì khơng thể hịa hợp với định hướng

xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý luận chính trị số 10-2015) và bài Về quy định “nền
kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong Hiến

8


pháp 2013 của Đỗ Kim Tuyến và Phan Thanh Hương (tạp chí Lý luận chính trị số
12-2015); “Nhân tố chủ quan trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của tác giả Phan Mạnh Tồn (tạp chí Lý luận chính
trị số 5-2016); bài “Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Xuân Thắng (tạp chí Lý
luận chính trị, số 8-2016); Nguyễn Tấn Hùng với bài “Chế độ sở hữu và vấn đề giá
trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (tạp chí Lý
luận chính trị, số 7-2016); Phạm Thị Túy với bài“Sự phát triển tư duy lý luận của
Đảng về cấu trúc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam (tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2017); Bùi Thị Tỉnh với bài “Giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”,
tạp chí Triết học số 1 (320) tháng 1-2018 v.v.
Dưới góc độ này hay góc độ khác, các tác giả trong các bài viết trên đã trực
tiếp đề cập đến tính tất yếu của sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chỉ ra thực chất của mơ hình kinh tế đó. Đặc biệt trong bài “Một số luận
điểm mới về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay”, tác giả Nguyễn Xuân Thắng đã chỉ ra những “luận điểm mới” về phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và làm rõ các “phương diện” thể hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam. Các phương diện đó là:
mục tiêu phát triển; phương thức phát triển; phương thức phân phối; phương thức
quản trị và quản lý nền kinh tế (trang 14).
Năm 2008, Trung tâm Đào tạo - Bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị,
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức hội thảo khoa học Vai trò lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [67]. Hội thảo thu

hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học, với 56 bản tham luận. Trong
số đó có thể kể đến một số bài tham luận sau: "Đặc điểm, bản chất của nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đỗ
Thế Tùng; “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam” của Phan Thanh Phố; “Định hướng xã hội chủ nghĩa của

9


nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong tiến trình đổi
mới và hội nhập” của Dương Xuân Ngọc v.v. Các tham luận này đã đề cập trực tiếp
đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là tài liệu tham khảo có nhiều giá trị
đối với NCS trong quá trình luận giải một số nhận thức chung về KTTT định hướng
XHCN.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập khá toàn diện các vấn đề
liên quan đến KTTT và KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là
những tư liệu cần thiết để chúng tơi có thể tiếp cận, phân tích sự tác động của kinh
tế thị trường đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng mà luận án nghiên cứu.
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về đạo đức, tác động của kinh tế thị trường
đến đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên và sinh viên ngành xây dựng
nói riêng
Năm 1996, nhà xuất bản Thơng tin Khoa học xã hội có ấn hành cuốn “Những
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”. Cuốn sách tập hợp các bài viết
của các tác giả Trung Quốc, đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường. Tác giả Mao Jianping trong bài “Bàn về sự xung
đột giữa lợi ích và giá trị đạo đức” đã nhận định: “trong q trình chuyển đổi từ mơ
hình kinh tế kế hoạch truyền thống thành mơ hình kinh tế thị trường, không tránh
khỏi phải trả giá bằng sự rối loạn về quan niệm giá trị” (trang 105). Hay bài “Bàn
về quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức”, tác giả Wang Shuqin phân tích:

Tính tự chủ và tính lợi ích của bản thân kinh tế thị trường đã quyết định hành vi đạo
đức trong kinh tế thị trường (trang 138). Do có những nét tương đồng về văn hóa,
chính trị, nên cuốn sách có ý nghĩa tham khảo nhất định đối với NCS trong quá
trình triển khai luận án, nhất là những tác động tích cực, tiêu cực của kinh tế thị
trường đến đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng.
Năm 2012, Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách VEPR, Trường Đại
học Kinh tế, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã cho ra mắt cuốn sách “Những nền
tảng của nền kinh tế thị trường”. Cuốn sách tập hợp một số bài viết của các tác giả

10


trong và ngồi nước có liên quan trực tiếp đến kinh tế thị trường, đem lại cho độc
giả một cái nhìn tổng thể hơn về các vấn đề của kinh tế thị trường. Đặc biệt là các
bài viết nghiên cứu về Đạo lý của thị trường như “Thị trường và đạo đức” (tác giả
Peter Hill), “Yếu tố đạo đức trong xã hội tự do kinh doanh” (tác giả F.A.Hayek).
Các bài nghiên cứu về Thị trường tự do và phẩm giá con người như “Đạo lý của
bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội thị trường (tác giả Leonid V. Nikonov),
“Nghịch lý của đức hạnh” (tác giả Mao Vu Thức). Ngồi ra cịn có một số bài
nghiên cứu về Thị trường tự do và thịnh vượng, Thị trường tự do và trách nhiệm xã
hội. Đây là tài liệu tham khảo cho NCS khi nghiên cứu vấn đề về mối quan hệ giữa
kinh tế và đạo đức, phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án.
Cũng trong năm 2012, nhà xuất bản Tri thức đã giới thiệu cuốn sách “Thị
trường và đạo đức” do Tom G. Palmer làm chủ biên. Tác giả của những bài viết
được tập hợp trong cuốn sách là các nhà nghiên cứu của Trung Quốc, Nga, châu
Phi, Mỹ Latin, Hoa Kỳ… Xuất phát từ vị trí quan điểm của mình, mỗi tác giả đề cập
đến một khía cạnh khác nhau về thị trường tự do và đạo đức. Tác giả Tom G.Palmer
đã đưa ra quan điểm, có 20 ngộ nhận về nền kinh tế thị trường, đó là ngộ nhận cho
rằng “thị trường là vơ ln hoặc không cần quan tâm tới luân thường đạo lý” (trang
65); “thị trường khuyến khích thói tham lam và tính ích kỷ” (trang 67); “thị trường

không thể đáp ứng được một số nhu cầu căn bản của con người, như chăm sóc sức
khỏe, nhà ở, giáo dục và lương thực” (trang 94); “thị trường chỉ có lợi cho người
giàu và người có tài” (trang 101); “tất cả mọi quan hệ giữa người với người đều có
thể qui giản thành quan hệ thị trường” (trang 107) v.v. Tác giả bài viết cho rằng,
“thị trường tự do như con đường đúng đắn cho sự tiến bộ của xã hội, bởi thị trường
tự do là nơi “đề cao lòng trung thực” [123; tr 1]. Trong chừng mực nhất định, đây là
tài liệu tham khảo có ý nghĩa khi chúng ta nhìn nhận và đánh giá về những tác động
tiêu cực của KTTT đến đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân mỗi con người. Những
luận giải của các tác giả trong cuốn sách là nguồn tư liệu giúp NCS có cái nhìn đa
chiều hơn khi phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của KTTT đến đạo đức
nói chung, đạo đức sinh viên ngành xây dựng nói riêng.

11


Năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia có ấn hành cuốn“Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Phúc chủ biên. Cuốn sách tập hợp 27 bài viết theo ba chủ đề: 1)
Những tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức; 2) Vai trò của đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường và 3) Xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Tuy không đề cập trực tiếp tới tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành xây dựng nói
riêng, nhưng đây là tài liệu tham khảo cần thiết đối với tác giả luận án trong quá
trình luận giải các vấn đề liên quan tới thực trạng tác động của kinh tế thị trường
đến đạo đức sinh viên ngành xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
Trong cuốn sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp”
do Nguyễn Duy Quý làm chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2006), các tác giả
đã dành một chương để bàn về đạo đức xã hội dưới tác động và ảnh hưởng của kinh
tế và chính trị ở nước ta hiện nay từ hai góc độ: tích cực và tiêu cực. Theo các tác
giả, KTTT có tác động tích cực đến sự phát triển cá nhân, thể hiện ở việc, KTTT

khẳng định vai trò cá nhân trong đời sống cộng đồng, tạo điều kiện để giải phóng
năng lực sáng tạo, tính chủ động, năng động. “Cạnh tranh là quy luật vốn có của
nền kinh tế thị trường. Trong cạnh tranh, do áp lực và sức hấp dẫn về lợi ích, mỗi cá
nhân đều phải cố gắng vươn lên bằng trí tuệ, tài năng, sự tháo vát, óc sáng tạo của
chính bản thân mình” (trang 82). Cá nhân có xu hướng đề cao giá trị hoạt động thực
tiễn trong KTTT. Tuy nhiên, KTTT cũng có tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức
xã hội nói chung, tới đạo đức sinh viên nói riêng. Khơng ít người sống đề cao giá trị
vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần, giá trị văn hóa; thang giá trị đạo đức thay đổi,
biểu hiện lệch chuẩn đạo đức ngày càng lớn v.v.
Ngoài các cuốn sách trên, cịn có một số cuốn sách khác cũng bàn về đạo
đức, tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội nói chung, đạo đức sinh
viên nói riêng, như:“Những tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường ở Việt
Nam” do Hà Huy Thành làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, năm 2000); “Sự phát
triển của cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của

12


Đồn Đức Hiếu (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2003); “Xây dựng đạo đức mới trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Trịnh Duy Huy
(Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009); “Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Tuyết Ba (Nxb Khoa học Xã hội,
năm 2010); "Mấy vấn đề về đạo đức học mác x t và xây dựng đạo đức trong điều
iện inh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt (Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2012); “Giáo d c đạo đức mới cho sinh viên trong điều iện inh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay”, do tác giả Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt
đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2013); “Giáo d c đạo đức với sự phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán (Nxb Lý
luận Chính trị, năm 2016) v.v.
Dù là trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay mức độ khác, tất cả các cơng

trình trên đều đề cập đến đạo đức, tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã
hội nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng theo hai chiều hướng, vừa tích cực, vừa
tiêu cực. Tác giả Trịnh Duy Huy trong cuốn“Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cho rằng, kinh tế thị trường một mặt tạo
ra “đội ngũ lao động trẻ có học vấn, học thức cao, có lý tưởng sống tích cực để vào
đời lập thân, lập nghiệp” [82; tr 108], mặt khác kinh tế thị trường cũng đã “để lại
trong ý thức thế hệ trẻ những mặc cảm xã hội khi bước vào đời”, “các giá trị đạo
đức tốt đẹp được giáo dục trong nhà trường có nguy cơ bị đổ vỡ. Tâm lý hồi nghi,
chán nản, mất lịng tin và mất những điểm tựa tinh thần trong cuộc sống đã xuất
hiện trong lớp trẻ” [82; tr 115-116]. Tác giả Lê Thị Tuyết Ba trong cuốn “Ý thức
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” nhận xét: kinh tế
thị trường “một mặt, nó kích thích tính tích cực cá nhân, tạo động lực cho phát triển
kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế thị trường vốn là con đẻ của chế độ tư hữu, là môi
trường nuôi dưỡng chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, là mảnh đất dễ phát sinh những
tiêu cực và tệ nạn” (trang 77). Tác giả Trần Sỹ Phán trong cuốn “Giáo d c đạo đức
với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” cũng nhấn mạnh tác động
hai mặt của kinh tế thị trường. Theo tác giả, dưới tác động của kinh tế thị trường

13


“đại đa số sinh viên Việt Nam tỏ ra chăm chỉ học tập, chịu khó rèn luyện phẩm chất
đạo đức, quyết tâm vươn lên nắm lấy những tri thức khoa học, để trở thành những
chuyên gia giỏi một nghề, một ngành, biết nhiều nghề, nhiều ngành, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của thị trường sức lao động” (trang 106-107). Bên cạnh đó “vẫn
cịn khơng ít sinh viên định hướng chính trị và định hướng cho cuộc đời mình chưa
thật rõ nên ý chí phấn đấu khơng cao, khơng chăm chỉ học tập, rèn luyện, thiếu
trung thực trong thi cử, mua điểm, mua bằng, thờ ơ với sinh hoạt đoàn thể” (trang
109-110).
Trong những năm gần đây, trên một số tạp chí có đăng tải một số bài viết có

liên quan đến đạo đức, đến sự tác động của kinh tế thị trường đến đời sống đạo đức
xã hội nói chung, đạo đức sinh viên nói riêng. Tạp chí Giáo dục lý luận, số 3-2014
có bài “Nâng cao chất lượng giáo d c phẩm chất đạo đức cho sinh viên các trường
sư phạm hiện nay” của Tạ Hoa Dung và Lê Thị Điệp. Cũng ở tạp chí này, số đặc
biệt (219-2014, trang 118), tác giả Hồng Thị Thu Trang có bài “Một số vấn đề giáo
d c đạo đức mới trong việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên ở Thái
Nguyên hiện nay”; tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thơng, số 4-2015 có bài
“Định hướng giá trị nhân cách cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần
Sỹ Phán và Trần Thị Hồng Lê; tạp chí Quản lý giáo dục, số 9-2016 có bài “Tác
động của kinh tế thị trường đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay” của Trần Sỹ
Phán và Nguyễn Thị Thanh Huyền v.v.
Tác giả Nguyễn Anh Tú trong bài“Xây dựng phong cách sống tích cực - giải
pháp quan trọng để giáo d c đạo đức cho thanh niên, sinh viên dưới tác động của
biến đổi của kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” đăng ở tạp chí Giáo dục lý luận, số
đặc biệt 208 năm 2014 đã chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng phong cách sống tích
cực cho thanh niên, sinh viên trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, trong bài viết này,
tác giả đề cập một số vấn đề liên quan đến tác động tích cực cũng như tiêu cực của
kinh tế thị trường đến lối sống của thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay. Đây là
những tài liệu tham khảo có ý nghĩa nhất định khi NCS phân tích những chuẩn mực

14


đạo đức của sinh viên ngành xây dựng trong điều kiện phát triển nền KTTT định
hướng XHCN.
Tác giả bài viết “Tác động của kinh tế thị trường đến lối sống sinh viên Việt
Nam hiện nay” đăng ở tạp chí Quản lý giáo dục (số 9-2016) cho rằng: bản thân nền
kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng. Cùng với việc kích thích sản
xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi để làm nảy sinh và
phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội, thậm chí có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với

bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý
sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm (trang 3).
Cùng với một số cuốn sách, bài đăng trên các tạp chí, cịn có một số cuộc hội
thảo mà chủ đề tập trung xung quanh vấn đề đạo đức, tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay. Tháng 7-2008, Hội Khoa học
Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giáo d c
đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp”. Hội thảo đã
thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các giảng viên, giáo viên đến
từ nhiều trường đại học, cao đẳng và các trường trung học phổ thông. Với gần 70
tham luận, các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề của đạo đức sinh viên trong giai
đoạn hiện nay.
Tác giả Trần Thị Kim trong bài “Thực trạng đạo đức và giáo d c đạo đức
cho sinh viên hiện nay” cho rằng, hiện nay có nhóm sinh viên “có thái độ sống tích
cực, năng động, có chí hướng và say mê học tập” (trang 49), nhưng cũng có một bộ
phận sinh viên “chưa thấy hết được trách nhiệm, nghĩa vụ sinh viên trong trường đại
học”, có những hành vi lệch chuẩn làm ảnh hưởng đến tập thể, cộng đồng xã hội.
Tác giả Tô Lan Phương (Đại học Sư phạm Hà Nội) có bài “Giáo d c đạo đức cho
học sinh, sinh viên trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, tác giả Nguyễn
Hữu Thụ với bài “Giáo d c đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” v.v. đều cho rằng, một trong những vấn đề được
dư luận quan tâm đối với sinh viên ngày nay là vấn đề đạo đức, vì “đạo đức xã hội
đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái tốt và

15


cái xấu, thiện và ác” (trang 68). Sở dĩ như vậy là vì “nền kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập khu vực và quốc tế đã làm cho hệ giá trị và hành vi của một bộ phận
sinh viên ở các trường đại học hiện nay có thay đổi” [148; tr 71].
Năm 2009, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia

Nội) có tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện
nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học và một số nhà quản lý giáo dục. Trong bài tham luận “Một số yếu tố
tác động đến sự phát triển đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay”, tác giả
Nguyễn Thanh Tịnh cho rằng, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta, “đã tạo
ra những biến đổi to lớn của đời sống kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát triển đạo
đức của sinh viên Việt Nam, không chỉ đơn thuần là sự tác động tích cực mà cịn có
cả tiêu cực, làm nảy sinh hai khuynh hướng trái ngược nhau trong tư tưởng. Đó là
cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu trên lĩnh vực văn
hóa tư tưởng, đạo đức, lối sống ở mỗi sinh viên. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ mới
dừng ở những nhận định khái quát như vậy chứ chưa đi sâu vào phân tích cụ thể
những tác động tích cực và tiêu cực của KTTT đến sinh viên.
Trong các tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học “Công tác giáo d c đạo
đức, lối sống cho học sinh, sinh viên” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tháng 42014, khơng có bài nào trực tiếp bàn về tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức
sinh viên Việt Nam. Trạng ngữ chỉ thời gian được các bản tham luận đề cập đến, đó
là từ “hiện nay”. Chẳng hạn, tham luận của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, “Công
tác giáo d c đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,
cũng nêu ra một số biểu hiện của sự đi xuống trong đạo đức học sinh, sinh viên hiện
nay, nhưng trong phần phân tích nguyên nhân của thực trạng này thì khơng nhắc
đến là do mặt trái của KTTT tác động, mà chỉ nêu đó là do “lối sống ích kỷ, vơ cảm
của người lớn, sự mâu thuẫn, ly tán trong gia đình tác động tiêu cực” tới học sinh,
sinh viên và do “các sản phẩm văn hóa độc hại lưu truyền cơng khai ngồi xã hội,
qua mạng internet không lành mạnh đã tác động vào lối sống” của học sinh, sinh
viên và một số nguyên nhân chủ quan khác (Kỷ yếu Hội thảo, trang 86). Trong bài

16


“Giáo d c đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay”, tác giả
Nguyễn Thị Thọ cũng đã có nói đến sự tác động của KTTT, nhưng mới chỉ dừng ở

mức độ phân tích khái quát chung như: “dưới tác động hai mặt của kinh tế thị
trường đã làm thay đổi nhiều chuẩn mực đạo đức điều chỉnh các hành vi cá nhân,
đặc biệt là thế hệ trẻ”. Tác giả cũng đã chỉ ra những biểu hiện của sự xuống cấp đạo
đức trong học sinh, sinh viên là lối sống bng thả, ăn chơi, đua địi, khơng quan
tâm đến trách nhiệm của bản thân, tình trạng bạo lực, lối sống thực dụng v.v. Mặc
dù thuật ngữ “kinh tế thị trường” không được đề cập đến trong các bản tham luận,
nhưng một số tác giả là cá nhân hay tập thể ít nhiều đều đề cập đến ảnh hưởng của
kinh tế thị trường, của tồn cầu hóa và hội nhập thế giới đến đạo đức sinh viên Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, sự đề cập này chưa đi sâu vào phân tích cụ thể KTTT đã
tác động tích cực và tiêu cực như thế nào đến đạo đức sinh viên.
Cùng với các cơng trình nghiên cứu là sách và tạp chí, cịn có các đề tài khoa
học cấp quốc gia về vấn đề này như: đề tài “Đạo đức sinh viên trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực
trạng, vấn đề và giải pháp”, mã số QG.01.18 do tác giả Trương Văn Phước làm chủ
nhiệm, (Hà Nội, năm 2003); hay đề tài “Tác động của đổi mới kinh tế tới đời sống
sinh viên một số trường đại học ở Hà Nội”, mã số CB.02.05 do tác giả Nguyễn Thị
Bích Hà làm chủ nhiệm 2003, cho đến Chương trình khoa học cơng nghệ cấp nhà
nước KX05, đề tài KX.05.07, “Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế” (Hà
Nội, năm 2005) do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm v.v. ít nhiều đã đề cập đến vấn
đề đạo đức sinh viên nước ta hiện nay.
Có thể thấy vấn đề đạo đức, tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã
hội nói chung, đến đạo đức sinh viên nói riêng đã và đang là một trong những vấn
đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, nhất là với các học giả, nhà nghiên cứu. Thế
nhưng, những nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức sinh viên ngành xây
dựng - những kỹ sư ngành xây dựng trong tương lai cịn rất khiêm tốn. Trong lúc
đó, vấn đề này lại được rất nhiều nước quan tâm. Ngay việc phân loại kỹ sư và công

17



nhận kỹ sư chuyên nghiệp cũng dựa theo tiêu chí chặt chẽ cả về trình độ nghề
nghiệp, chun mơn, cả về đạo đức hành nghề, quy trình cơng nhận nghiêm túc,
khơng mang tính thương mại. Kỹ sư chun nghiệp là người có kiến thức, kinh
nghiệm và kỹ năng, khả năng quản lý tổ chức, quản lý và đạo đức nghề nghiệp
(chúng tôi nhấn mạnh). Một trong 6 điều kiện để được đăng bạ là kỹ sư chuyên
nghiệp tiêu chuẩn ASEAN được quy định tại điểm f của Quy chế đánh giá đối với
kỹ sư chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN là: “Tuân thủ các quy tắc đạo đức và quy
tắc ứng xử nghề nghiệp”.
Chính những “thất thốt, lãng phí, tham nhũng trong xây dựng do thiếu
chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp (lương tâm nghề nghiệp), thiếu trách nhiệm
với xã hội, nhân dân, đồng nghiệp và sự an toàn” [135]. Cùng với đó là các lỗi trong
“chủ trương, quyết định giao nhiệm vụ, quan niệm, hiểu biết, kỹ năng nghề nghiệp,
đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm của mỗi chúng ta với cộng đồng, với xã hội và
với người dân” [219] đang gây nên những bức xúc trong xã hội, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu một cách căn bản, có hệ thống về đạo đức nghề nghiệp trong ngành xây
dựng. Trong phạm vi bao qt của mình, chúng tơi thấy, cho đến nay chưa có một
cơng trình nghiên cứu độc lập nào bàn về tác động của kinh tế thị trường đến đạo
đức sinh viên ngành xây dựng ở nước ta hiện nay. Vấn đề đó chỉ được nhìn nhận từ
các góc độ và chiều cạnh khác nhau một cách hết sức khiêm tốn, thông qua một số
cuộc hội thảo, một số bài viết hay văn bản có liên quan đến nguồn nhân lực và phát
triển nguồn nhân lực ngành xây dựng mà thôi.
Tháng 9-2007, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học
“Phát triển nguồn nhân lực xây dựng”. Hội thảo đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà
khoa học, quản lý. Trong đó, vấn đề đạo đức nghề nghiệp rất được quan tâm. Trong
bài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Xây dựng”, tác giả Nguyễn
Trường Tiến cho rằng, các cơ sở ngoài việc đào tạo nguồn nhân lực có bản lĩnh, có
kỹ năng nghề nghiệp, biết giải quyết công việc, biết suy nghĩ sáng tạo ra thì “xây
dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp… đã trở thành nhu cầu cấp bách của ngành
xây dựng Việt Nam” [128].


18


Trong bài “Ngành xây dựng hiện đại và yêu cầu đối với nguồn nhân lực hiện
đại”, tác giả Phạm Sỹ Liêm nhấn mạnh, các cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành xây
dựng không chỉ quan tâm đến việc đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ mà phải chú ý
đào tạo cách ứng xử có đạo đức cho học viên. Họ phải là những người được đào tạo
kỹ năng, cách giao tiếp với cộng đồng một cách nhẫn nại, biết lắng nghe và có khả
năng thuyết phục; Học tập thái độ (attitude) nghiêm chỉnh trong hoạt động ngành
nghề như tính sáng tạo và sáng nghiệp (creativity and entrepreneurship), giữ chữ tín
và sự trung thực, lạc quan trước các thách thức, tôn trọng và khoan dung đối với các
giá trị, quan điểm và quyền lợi của người khác [200] v.v…
Tại Hội thảo khoa học “Xây dựng nguồn nhân lực kỹ thuật của ASEAN”
(11/2007), nhiều đại biểu cho rằng, một trong những thách thức đối với kỹ sư xây
dựng hiện nay là “cần thiết xây dựng tiêu chuẩn thống nhất để đánh giá kỹ sư. Quan
tâm đến chất lượng, giá trị, văn hóa, đạo đức nghề nghiệp. Họ phải là những người
có khả năng sáng tạo” [1].
Tác giả Nguyễn Đức Toản trong bài “Đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp Việt
Nam và đạo đức nghề nghiệp” đã đề cập đến các tiêu chuẩn kỹ sư chuyên nghiệp là
“bao gồm tiêu chuẩn nghề nghiệp/ năng lực chuyên môn/ tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp và tiêu chuẩn đào tạo/học tập suốt đời/học tập liên tục”. Đó cịn là “trách
nhiệm đối với xã hội, trách nhiệm đối với nghề nghiệp, trách nhiệm đối với khách
hàng, trách nhiệm đối với đồng nghiệp, và trách nhiệm đối với văn hóa, lịch sử và
các giá trị vĩnh hằng” [216].
Trong “Định hướng phát triển nhân lực đến năm 2020” của Quy hoạch phát
triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020 (Bộ Xây dựng), ở mục 5. “Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức, viên chức” có đề ra mục tiêu “đến năm 2020 tồn
ngành có từ 50,0 - 60,0% số cán bộ, công chức, viên chức, lao động đã qua đào tạo
được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc. Có đội ngũ lãnh đạo,

quản lý ngành xây dựng được đào tạo cơ bản, có năng lực chun mơn, có kỹ năng
chun ngành và đạo đức nghề nghiệp (người trích nhấn mạnh) đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ cơng nghiệp hố và hội nhập quốc tế”.

19


Hiện nay, các cơ sở đào tạo sinh viên ngành xây dựng cũng đã quan tâm đến
vấn đề này. Ngày 30-12-2014, trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức báo cáo chuyên đề “Định hướng nghề nghiệp ngành xây dựng”. Hội nghị khoa
học đã thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ sinh viên ngành xây dựng của Khoa
Đào tạo đặc biệt của trường. Ngoài những nội dung liên quan đến nghiệp vụ ngành
xây dựng, thì đạo đức sinh viên ngành xây dựng cũng thu hút sự quan tâm của
khơng ít giáo viên và sinh viên. Trong bài “Định hướng nghề nghiệp ngành xây
dựng” (Khoa Xây dựng, trường Đại học Vũng Tàu) đã phân tích rõ tầm quan trọng
của vấn đề đạo đức sinh viên ngành xây dựng, vì sản phẩm của xây dựng có đặc thù
là “khơng chấp nhận có phế phẩm, liên quan trực tiếp đến sinh mạng nhiều người,
nên đòi hỏi tất cả người làm xây dựng, đặc biệt là kỹ sư xây dựng, phải có tinh thần
trách nhiệm rất cao, người có ý thức chống lãng phí, có kỹ năng giao tiếp tốt” [183].
Các cuốn sách “Kinh tế xây dựng trong cơ chế thị trường” của tác giả Bùi
Mạnh Hùng (Nxb Xây dựng, năm 2003); “Cẩm nang kỹ thuật an toàn và vệ sinh
lao động trong xây dựng, thiết kế, thi công và quản lý” của tác giả Hồ Sĩ Minh
(Nxb Xây dựng, năm 2011), hay cuốn “Quản lý rủi ro trong doanh nghiệp” của tác
giả Lê Anh Dũng và Bùi Mạnh Hùng (Nxb Xây dựng, năm 2015) v.v. Đây là những
tài liệu học tập và tham khảo của sinh viên các trường ngành xây dựng. Dù là các
cuốn sách về kinh tế, kỹ thuật nhưng đã gián tiếp đề cập tới tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức ngành xây dựng. Chẳng hạn, xuất phát từ đặc điểm của nền kinh
tế thị trường trong xây dựng, tác giả cuốn sách“Kinh tế xây dựng trong cơ chế thị
trường” cho rằng: “đặc điểm về giá cả” trong ngành xây dựng chịu tác động trực
tiếp của cơ chế kinh tế thị trường, nhưng khơng vì sự tác động từ mặt trái của kinh

tế thị trường mà chạy theo lợi nhuận một cách khơng chính đáng.
Khơng phải là một cơng trình nghiên cứu khoa học, tuy nhiên trong văn bản
“Quy định chuẩn đầu ra các ngành đào tạo trình độ đại học” của các trường đại
học có đào tạo sinh viên ngành xây dựng cũng rất coi trọng đến vấn đề đạo đức sinh
viên. Để đáp ứng mục tiêu chung của giáo dục đại học Việt Nam được quy định tại
khoản b, điều 5 Luật Giáo d c đại học là: “Đào tạo người học có phẩm chất chính

20


×