Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tha tù trước thời hạn có điều kiện theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THẾ NAM

THA TÙ TRƯỚC THỜI HẠN CÓ ĐIỀU KIỆN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THẾ NAM

THA TÙ TRƯỚC THỜI HẠN CÓ ĐIỀU KIỆN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI, năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng của tôi.
Các số liệu, tài liệu được trích dẫn trong luận văn theo nguồn đã công
bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hà Thế Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THA TÙ TRƯỚC THỜI
HẠN CÓ ĐIỀU KIỆN ..................................................................................... 8
1.1 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của việc tha tù trước thời hạn có điều kiện ....8
1.2. Ý nghĩa của việc quy định tha tù trước thời hạn có điều kiện ...........................11
1.3. Phân biệt tha tù trước thời hạn có điều kiện với miễn chấp hành hình phạt,
giảm mức hình phạt đã tuyên.......................................................................................14
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 22
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ THA TÙ
TRƯỚC THỜI HẠN CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH ĐỒNG NAI ......................................................................................... 24
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tha tù trước thời hạn
có điều kiện ....................................................................................................................24
2.2. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tha tù trước thời
hạn có điều kiện và kinh nghiệm đối với Việt Nam ..................................................41
2.3. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tha tù trước thời hạn tại tỉnh Đồng Nai .......52
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 65
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG VÀ THỰC HIỆN ĐÚNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THA TÙ TRƯỚC THỜI HẠN CÓ
ĐIỀU KIỆN.................................................................................................... 67
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp thực hiện quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 về tha tù trước thời hạn có điều kiện .........................................................67
3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tha tù trước thời hạn có điều kiện .................75
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CHHP

:

Chấp hành hình phạt


PLHS

:

Pháp luật hình sự

TAND

:

Tòa án nhân dân

THAHS

:

Thi hành án hình sự

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

UBND

:

Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Ngành TAND tỉnh
Đồng Nai từ năm 2013 đến năm 2017....................................................................55
Bảng 2.2. Số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự và quyết định hình
phạt từ năm 2013 đến năm 2017 của TAND tỉnh Đồng Nai .......................... 56
Bảng 2.3. Thống kê số liệu đặc xá tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến
năm 2017 ......................................................................................................... 60
Bảng 2.4. Số liệu thống kê đặc xá, giảm thời gian chấp hành hình phạt
tù của Trại giam Xuân Lộc từ năm 2013 đến năm 2017 ................................ 60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một trong những chế định quan trọng
trong Luật hình sự Việt Nam. Đây chính là cơ sở pháp lý nền tảng có liên quan
đến nhiều chế định khác mà căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các cơ
quan tư pháp hình sự tham gia vào quá trình áp dụng trong giai đoạn chấp hành
hình phạt. Chấp hành hình phạt là kết quả của sự lên án mang tính cưỡng chế
Nhà nước đối với hành vi tiêu cực xâm hại đến các lợi ích được pháp luật hình
sự bảo vệ, nhưng tự thân nó tha tù trước thời hạn có điều kiện lại thể hiện sự
khoan hồng, nhân đạo, mang giá trị nhân văn mà ở đó, nguyên tắc chủ đạo,
xuyên suốt trong chính sách hình sự của Nhà nước luôn là sự kết hợp giữa việc
trừng trị với khuyến khích người bị kết án quyết tâm tự giáo dục mình mình để
nhận lấy sự tha miễn đó.
Việc chấp hành hình phạt một mặt không chỉ là sự kết hợp giữa các yếu tố
trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội hướng thiện mà còn quan trọng hơn
với chính sách xã hội phù hợp đã giúp cho người bị kết án được phóng thích sớm
khỏi nhà tù, tái hòa nhập nhanh chóng vào cộng đồng trong môi trường ổn định,
phòng ngừa việc tái phạm, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích Nhà nước, xã hội và

công dân. Mặt khác, bên cạnh việc xét xử thì việc tha tù trước thời hạn có điều
kiện còn là công việc thường xuyên của Tòa án, nên các quy định tại các chế
định này phải bảo đảm được đầy đủ về bản chất chính trị - pháp lý của Nhà
nước, điều kiện kinh tế - xã hội, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bởi vì,
sau khi bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, không còn một
hình thức pháp lý nào khác để công dân thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Do đó, việc tiếp thu, ghi nhận những tiến bộ của nền văn
minh nhân loại về quyền con người và bảo vệ chúng ngay cả trong giai đoạn
chấp hành hình phạt, nhất là những quyền của nhóm dễ bị tổn thương như trẻ
em, người già, người khuyết tật... đó là từng bước nội luật hóa bằng các chính

1


sách hình sự trong việc tha tù trước thời hạn có điều kiện mà Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã xác định, “cần xây dựng, ban hành
kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân” [3].
Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
12/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm
2015) mặc dù đã quy định về vấn đề này nhưng vẫn còn những hạn chế nhất
định trong đó, nhà làm luật xây dựng định nghĩa pháp lý của khái niệm tha tù
trước thời hạn có điều kiện; hoặc căn cứ áp dụng tuy được mở rộng theo phân
loại tội phạm nhưng đã mâu thuẫn nhau giữa tha tù trước thời hạn có điều kiện
đối với người đã thành niên và người dưới 18 tuổi (điểm b khoản 2 Điều 66 với
khoản 1 Điều 106 của BLHS năm 2015); điều kiện áp dụng để tha tù trước thời
hạn có điều kiện chưa đầy đủ... Những bất cập này chắc chắn phần nào sẽ làm
giảm tính tích cực, chủ động trong việc áp dụng vào thực tiễn thi hành.
Vì vậy, định hướng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phát triển theo xu thế
chung của thời đại, chính là việc nghiên cứu rà soát pháp luật, chính sách đối chiếu,
so sánh với thông lệ quốc tế và các tiêu chuẩn về nhân quyền cũng như mô hình

hoạt động ưu việt trên thế giới để tham khảo đánh giá tìm giải pháp phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam; xây dựng lại các quy phạm pháp luật có tính khả
thi hơn là yêu cầu cấp thiết được đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Do đó, việc tiếp
tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tha tù trước thời hạn có điều
kiện nói chung với mong muốn làm giàu thêm về lý luận và hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật; góp phần vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự
trong thời gian tới.
Với nhận thức đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Tha tù trước thời hạn
có điều kiện theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm
Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2


Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một trong những chế định quan trọng
có liên quan mật thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và các chế định khác
trong luật hình sự mà chúng được ghi nhận trong pháp luật hình sự ở nhiều nước
trên thế giới từ rất sớm. Ở nước ta, miễn chấp hành hình phạt cũng mới chỉ
được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp tại một số điều luật riêng lẻ trong Bộ luật
hình sự, chưa được ghi nhận tại một chương riêng như các chế định khác về tội
phạm, hình phạt.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan
đến vấn đề tha tù trước thời hạn có điều kiện, đã được công bố trong từng phạm
vi nhất định với những mức độ khác nhau nhưng không nhiều. Sau khi BLHS
năm 2015 được ban hành đã có một vài công trình nghiên cứu như Giáo trình,
Bình luận khoa học Luật hình sự có liên quan trực tiếp đến tha tù trước thời hạn
có điều kiện. Tác giả xin được liệt kê các công trình nghiên cứu là các bài báo
khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến tha tù trước thời hạn có điều kiện
được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành như:

- Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi, bổ sung 2017 phần các tội phạm, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
Phần chung, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- ThS. Nguyễn Thanh Trúc (2008), “Biện pháp miễn chấp hành có điều
kiện thời hạn còn lại của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20, tr.136.
- ThS. Nguyễn Văn Thủy và ThS. Nguyễn Quang Long (2014), “Quy định
miễn chấp hành hình phạt có điều kiện trong Bộ luật hình sự của một số nước
trên thế giới”, Tạp chí Kiểm sát số 17.
- Lê Thị Vân Anh (2014), “Tha tù trước thời hạn có điều kiện”, Tạp chí
Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề 8.
Theo đó, những công trình khoa học trên đã tập trung nghiên cứu dưới

3


góc độ so sánh luật của các nước và đưa ra hướng gợi mở khi tiếp nhận Tha tù
trước thời hạn có điều kiện để sửa đổi bổ sung BLHS năm 1999 - xây dựng
BLHS Việt Nam năm 2015 về chế định này. Do đó, các nghiên cứu trên tuy đã
nhận diện tính ưu việt của nó nhưng chưa làm sáng tỏ một số vấn đề về khái
niệm, bản chất đặc trưng, căn cứ, điều kiện áp dụng và thẩm quyền áp dụng chế
định tha tù trước thời hạn có điều kiện theo BLHS Việt Nam năm 2015 hiện
hành.
Những công trình nghiên cứu về tha tù trước thời hạn theo quy định của
BLHS như Giáo trình hay Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 2015 cũng
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu quy định và nội dung cơ bản của tha tù trước thời
hạn có điều kiện theo quy định của pháp luật.
Những công trình trên sẽ được tác giả tiếp thu, kế thừa và tiếp tục nghiên
cứu trong việc hoàn thiện luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các
quy định của pháp luật về tha tù trước thời hạn có điều kiện theo BLHS Việt
Nam dưới góc độ lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó Luận
văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tha tù trước thời
hạn có điều kiện theo BLHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng
cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn đã đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về tha tù trước
thời hạn có điều kiện, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về
tha tù trước thời hạn có điều kiện như:
- Nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tha tù
trước thời hạn có điều kiện như khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc tha tù

4


trước thời hạn có điều kiện trong luật hình sự Việt Nam và phân biệt tha tù trước
thời hạn có điều kiện với miễn chấp hành hình phạt, giảm chấp hành hình phạt
đã tuyên và rút ra những kết luận;
- Làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về tha tù trước
thời hạn có điều kiện theo pháp luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích quy định của BLHS năm 2015 và một số quy định
khác có liên quan đến tha tù trước thời hạn có điều kiện và thực tiễn áp dụng
dụng những quy định có liên quan đến vấn đề này tại tỉnh Đồng Nai;
- Nghiên cứu các quy định trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế
giới về tha tù trước thời hạn có điều kiện và rút ra những kinh nghiệm đối với Việt

Nam.
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nội dung cơ bản của việc tha tù trước thời
hạn có điều kiện, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định tha tù trước
thời hạn có điều kiện trên phương diện (khía cạnh) lập pháp; khả năng huỷ bỏ
việc tha tù trước thời hạn có điều kiện để chấp hành hình phạt của bản án như
một sự bảo đảm về hiệu quả của cơ chế này và định hướng tiếp tục hoàn thiện
trong tương lai các quy định của pháp luật được nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật về tha tù trước thời hạn có điều kiện và thực tiễn thực hiện những quy
định có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một Luận văn thạc sĩ, tác giả không thể giải quyết
hết được một cách toàn diện những vấn đề có liên quan trong hệ thống pháp luật
Việt Nam về tha tù trước thời hạn có điều kiện; tác giả tập trung nghiên cứu phân
tích quy định pháp luật về lĩnh vực này trong Luật hình sự Việt Nam trong mối liên
quan với Quy định của BLTTHS và Luật thi hành án hình sự.

5


Do BLHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành được hơn một nửa năm nên
luận văn chỉ có thể nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định có liên quan đến
tha tù trước thời hạn có điều kiện tại tỉnh Đồng Nai trong 05 năm trở lại đây (2013 –
2017) như giảm thời hạn chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt..., đặc xá
và việc tha tù trước thời hạn đợt 1 năm 2018 tại tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu và thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận
biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và

pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền; về chính sách hình sự; về vấn đề cải cách tư pháp.
Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự; phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp nghiên cứu so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, đề
tài còn áp dụng các phương pháp thống kê, hệ thống hóa các vấn đề được nghiên
cứu để tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong Luận văn.
Luận văn tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của luật hình sự, luật tố
tụng hình sự, luật thi hành án hình sự, xã hội học...và một số ngành luật khác liên
quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về tha tù trước thời hạn
có điều kiện và có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, học tập,
giảng dạy những vấn đề liên quan đến tha tù trước thời hạn có điều kiện;
Nội dung luận văn là có thể là tài liệu tham khảo góp phần vào việc tiếp
tục hoàn thiện quy định của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện. Luận
văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người làm công tác thực tiễn có liên
quan đến việc áp dụng và thực hiện việc tha tù trước thời hạn có điều kiện.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về tha tù trước thời hạn có điều
kiện và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng và thực hiện đúng quy định của

pháp luật về tha tù trước thời hạn có điều kiện.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THA TÙ TRƯỚC THỜI HẠN CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của việc tha tù trước thời hạn có
điều kiện
Hiến pháp năm 2013 được xây dựng với nhiều nội dung mới hơn so với
các bản hiến pháp trước đây, trong đó đặc biệt chú trọng và đề cao quyền con
người, quyền công dân. Bộ luật hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền
con người và quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt có nhiều quy
định mới về chính sách hình sự trong đó có chế định tha tù trước thời hạn có
điều kiện. Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một chính sách hình sự mới hết
sức nhân đạo được quy định tại BLHS năm 2015 nhằm thực hiện chủ trương đề
cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội
[51] đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [4].
Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày
24/4/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng
Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì, tha tù
trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang
chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS, xét thấy
không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù trong cơ sở giam giữ
[16].
Điều đó có nghĩa là, cho phép người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về
với cộng đồng để phục thiện, được trả tự do sớm nhưng phải tuân thủ một số
điều kiện nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định trong một thời

gian gọi là thời gian thử thách (thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của
hình phạt tù mà người đó phải chấp hành hoặc có thể được rút ngắn thời gian thử
thách). Nếu trong thời gian thử thách mà người phạm tội vi phạm các điều kiện

8


đặt ra thì tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể thay đổi điều
kiện thử thách hoặc có thể buộc người đó phải chấp hành nốt thời hạn còn lại của
hình phạt tù trong trại giam, đây là điểm khác biệt của tha tù trước thời hạn có
điều kiện so với quy định của đại xá, đặc xá. Đại xá là sự khoan hồng đặc biệt
của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết
án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất
nước hoặc trong trường hợp đặc biệt (thường vào các dịp lễ Quốc khánh); Đại xá
được hiểu là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn và
triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội [53].
Với Việt Nam, tha tù trước thời hạn có điều kiện là quy định mới nhưng
trên phạm vi thế giới thì có rất nhiều nước đã áp dụng từ rất lâu do những mặt
tích cực mà nó đem lại. Quy định này một mặt tạo điều kiện cho người bị kết án
phạt tù có cơ hội được cải tạo trong môi trường bình thường, qua đó hạn chế
những tác động tiêu cực do việc giam giữ mang lại, tạo thuận lợi cho việc phục
hồi, tái hòa nhập cộng đồng của họ. Mặt khác, với các điều kiện thử thách chặt
chẽ đặt ra cho người được tha tù trước thời hạn sẽ có tác dụng giáo dục họ sống
có trách nhiệm, có kỷ luật, tăng quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, khắc phục nguyên
nhân, điều kiện phạm tội, qua đó bảo đảm hiệu quả trong việc phòng ngừa tái
phạm [51].
Ngoài ra, biện pháp này khuyến khích, nâng cao trách nhiệm của cộng
đồng, gia đình, các đoàn thể xã hội trong việc phối hợp với các cơ quan quản lý
nhà nước trong việc tham gia giám sát, giáo dục, phục hồi người được tha tù
trước thời hạn, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án

của Nhà nước ta, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước liên quan đến công
tác quản lý, giám sát, chế độ ăn ở, sinh hoạt, học tập của phạm nhân. Đặc biệt,
với việc áp dụng chế định này, hàng năm sẽ một lượng lớn phạm nhân được trả
tự do và do đó, giúp giảm bớt tình trạng quá tải trong các cơ sở giam giữ hiện
nay, qua đó cải thiện các điều kiện sinh hoạt cho người đang chấp hành án phạt
tù.

9


Mặc dù là một chế định mới được quy định trong BLHS năm 2015, nhưng
tha tù trước thời hạn có điều kiện cũng là một trong những giải pháp để rút ngắn
thời gian phải chấp hành hình phạt tù trong trại giam. Theo nội dung chế định
này, người chấp hành án phạt tù đã thi hành án được một thời gian nhất định,
thỏa mãn những điều kiện quy định, có thể được xem xét để trả tự do, thời gian
thử thách đúng bằng thời gian còn lại của hình phạt tù; và nếu trong thời gian thử
thách người được tha tù có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ của người được tha
tù có điều kiện 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt hành chính từ 02 lần trở lên, thì có
thể bị Tòa án quyết định buộc người được tha tù quay trở lại trại giam để thi
hành phần hình phạt tù còn lại.
Như vậy, về bản chất pháp lý, người được tha tù trước thời hạn là người
đang tiếp tục chấp hành án, chỉ thay đổi hình thức từ chấp hành án trong các cơ
sở giam giữ sang chấp hành án tại cộng đồng xã hội. Người được tha tù trước
thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ trong thời gian thử thách.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tha tù trước thời hạn có điều kiện có thể được xem là một trong
những biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Người đang chấp
hành hình phạt tù được trả tự do sớm nhưng phải tuân thủ một số điều kiện nhất
định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định trong một thời gian gọi là
thời gian thử thách (thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù

mà người đó phải chấp hành hoặc có thể được rút ngắn thời gian thử thách). Nếu
trong thời gian thử thách mà người phạm tội vi phạm các điều kiện đặt ra thì tùy
từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể thay đổi điều kiện thử
thách hoặc có thể buộc người đó phải chấp hành nốt thời hạn còn lại của hình
phạt tù trong trại giam.
Thứ hai, việc Toà án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện nhất
thiết chỉ được áp dụng khi có đủ những căn cứ và những điều kiện do pháp luật
quy định.

10


Thứ ba, tha tù trước thời hạn có điều kiện không phải là một loại hình
phạt.
Thứ tư, tha tù trước thời hạn có điều kiện là một chế định nhân đạo của
luật hình sự Việt Nam. Tha tù trước thời hạn có điều kiện cho phép người phạm
tội bị xử phạt tù có điều kiện quay trở về với cộng đồng để phục thiện, sửa chữa
lỗi lầm mình gây ra với sự giúp đỡ, giám sát của gia đình và các cơ quan, đoàn
thể xã hội.
Thứ năm, đây là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù còn lại có điều
kiện.
Thứ sáu, được áp dụng đối với người bị phạt tù có thời hạn khi người đó
có đầy đủ những điều kiện đáp ứng theo quy định của pháp luật và Tòa án xét
thấy không cần thiết phải bắt buộc họ chấp hành hình phạt tù.
Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện vẫn là người đang chấp
hành án, chỉ thay đổi hình thức từ chấp hành án trong các cơ sở giam giữ sang
chấp hành án tại cộng đồng xã hội.
Từ sự phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm tha tù trước thời hạn có điều
kiện như sau: Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù còn lại có điều kiện được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp

hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự, xét
thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù trong cơ sở giam
giữ.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định tha tù trước thời hạn có điều kiện
Thứ nhất, về phương diện chính trị - xã hội, tha tù trước thời hạn có điều
kiện đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về bảo đảm quyền con người và sự cụ thể
hóa chủ trương "đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử
lý người phạm tội" theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

11


Có thể nói tha tù trước thời hạn có điều kiện là xu hướng tất yếu của công
tác thi hành án phạt tù, coi trọng giáo dục hơn giam giữ; phù hợp với chuẩn mực,
thông lệ quốc tế theo tinh thần của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính
trị năm 1966: “Những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo... Việc đối
xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và
đưa họ trở lại xã hội” và “Phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự tái hòa nhập xã
hội của những người nguyên là tù nhân theo những điều kiện tốt nhất có thể, với
sự tham gia và giúp đỡ của cộng đồng và các tổ chức xã hội” được nêu trong
“Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân” năm 1990 của Liên
hiệp quốc. Việc thực hiện chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện có tính răn
đe xã hội cao, tạo động lực thúc đẩy phạm nhân cải tạo tiến bộ và có cơ hội tái
hòa nhập cộng đồng sớm hơn, hiệu quả hơn cho người bị kết án phạt tù, đồng
thời nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong việc phối hợp với các cơ quan
nhà nước trong quản lý, giáo dục, giám sát người bị kết án phạt tù, góp phần
giảm tỷ lệ tái phạm và vi phạm pháp luật. Mặt khác, thực hiện cơ chế tạm tha tù
có điều kiện còn góp phần giảm tải cho các trại giam, giảm chi phí cho việc ăn,
mặc, ở, phòng bệnh, chữa bệnh, chế độ sinh hoạt của phạm nhân, nâng cao chất

lượng công tác quản lý, giam giữ, cải tạo người chấp hành hình phạt tù.
Thứ hai, đối với người phạm tội, tha tù trước thời hạn có điều kiện góp
phần thực hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước mang đến cơ hội làm
lại cuộc đời sớm hơn cho những người phạm tội (bị kết án).
Với những quy định của chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện, mở
ra cho người phạm tội thấy cơ hội họ sớm tái hòa nhập cộng đồng là rất lớn, giúp
họ có sự cố gắng trong quá trình cải tạo, phấn đấu để xếp loại cải tạo tốt nhất.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện tác động trực tiếp đến tâm lý, tình cảm và thái
độ chấp hành hình phạt tù của phạm nhân. Có thể nói, việc quy định tha tù trước
thời hạn có điều kiện cho người bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt tù có
đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định tại BLHS năm 2015 [22] đã động viên

12


các phạm nhân phấn đấu học tập, lao động, cải tạo tốt, lập công, chuộc tội, ăn
năn hối cải để có thể được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện sớm trở về hoà
nhập với cộng đồng.
Thứ ba, đối với gia đình, thân nhân người phạm tội và xã hội, tha tù trước
thời hạn có điều kiện có ý nghĩa rất tích cực đối với gia đình, thân nhân người
phạm tội và tác động đến toàn xã hội.
Mỗi lần được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện, rất nhiều phạm nhân
sẽ trở về sinh sống tại các địa phương trong cả nước. Đây là niềm vui lớn của rất
nhiều gia đình Việt Nam có người thân được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Thực tế công tác xét đủ tiêu chuẩn tha tù trước thời hạn có điều kiện thời gian
qua cho thấy, chính quyền địa phương, đoàn thể và gia đình phạm nhân đã phối
hợp chặt chẽ, làm tốt công tác "hậu tha tù". Những phạm nhân được xét tha tù
khi trở về địa phương được tạo điều kiện thuận lợi để có việc làm, sớm ổn định
cuộc sống và tái hoà nhập cộng đồng. Tỷ lệ tái phạm thấp, tình hình an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội sau khi được tha tù vẫn tiếp tục ổn định.

Thứ tư, tha tù trước thời hạn có điều kiện thể hiện bản chất ưu việt, tinh
thần nhân đạo, bao dung và tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta đối với
những người có quá khứ lầm lỗi mà trong quá trình lao động, cải tạo, chấp hành
hình phạt họ đã nhận thức được và thực sự mong muốn đóng góp phần còn lại
của cuộc đời cho lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích của bản thân và gia đình
họ.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện còn là sự ghi nhận của Nhà nước đối
với kết quả cải tạo, chấp hành tốt nội quy, quy chế của phạm nhân và cũng đồng
thời là kết quả của quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân của đội ngũ cán bộ,
chiến sỹ làm nhiệm vụ quản lý trại giam, cùng với gia đình phạm nhân và xã hội.
Thứ năm, tha tù trước thời hạn có điều kiện góp phần vào việc thu hồi tài
sản của Nhà nước và nhân dân
Bằng việc đưa ra quy định về một trong các điều kiện để được tha tù trước
thời hạn có điều kiện là: “Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền,

13


nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí” [22]; nghĩa là đã giúp thu lại cho Nhà
nước và nhân dân một số lượng tài sản đáng kể, nhằm bổ sung vào nguồn tài sản
đã bị thất thoát của Nhà nước.
Tóm lại, tha tù trước thời hạn có điều kiện một mặt tạo điều kiện cho
người bị kết án phạt tù có cơ hội được cải tạo trong môi trường bình thường, qua
đó hạn chế những tác động tiêu cực do việc giam giữ mang lại, tạo thuận lợi cho
việc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng của họ. Mặt khác, với các điều kiện thử
thách chặt chẽ đặt ra cho người được tha tù trước thời hạn sẽ có tác dụng giáo
dục họ sống có trách nhiệm, có kỷ luật, tăng quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, khắc
phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội, qua đó bảo đảm hiệu quả trong việc
phòng ngừa tái phạm. Biện pháp này khuyến khích, nâng cao trách nhiệm của
cộng đồng, gia đình, các đoàn thể xã hội trong việc phối hợp với các cơ quan

quản lý nhà nước trong việc tham gia giám sát, giáo dục, phục hồi người được
tha tù trước thời hạn, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác thi hành
án của Nhà nước ta, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước liên quan đến
công tác quản lý, giám sát, chế độ ăn ở, sinh hoạt, học tập của phạm nhân. Đặc
biệt, với việc áp dụng chế định này, hàng năm sẽ một lượng lớn phạm nhân được
trả tự do và do đó, giúp giảm bớt tình trạng quá tải trong các cơ sở giam giữ hiện
nay, qua đó cải thiện các điều kiện sinh hoạt cho người đang chấp hành án phạt
tù.
1.3. Phân biệt tha tù trước thời hạn có điều kiện với miễn chấp hành
hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên
1.3.1. Phân biệt tha tù trước thời hạn có điều kiện với miễn chấp hành
hình phạt tù
Miễn chấp hành hình phạt là huỷ bỏ việc chấp hành biện pháp cưỡng chế
về hình sự nghiêm khắc nhất mà Toà án đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật đối với người bị kết án [12, tr.790]. Về bản chất pháp lý, miễn CHHP
là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện ở chỗ -

14


Toà án vẫn quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, nhưng không
buộc người này phải chấp hành toàn bộ hình phạt ấy khi có đầy đủ căn cứ và
những điều kiện do PLHS quy định. So sánh khái niệm, bản chất pháp lý của chế
định miễn CHHP với khái niệm, bản chất pháp lý của chế định tha tù trước thời
hạn có điều kiện có thể rút ra những điểm giống và khác nhau sau đây:
Những điểm giống nhau của chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện
với chế định miễn chấp hành hình phạt:
Thứ nhất, tha tù trước thời hạn có điều kiện và miễn CHHP đều là chế
định nhân đạo của PLHS Việt Nam, phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính

sách hình sự nói chung và PLHS nói riêng.
Thứ hai, chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện và miễn CHHP đều
được áp dụng đối với đối tượng là người phạm tội có đủ những điều kiện nhất
định.
Thứ ba, việc áp dụng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện và chế
định miễn CHHP đều mang lại hậu quả pháp lý có lợi cho đối tượng được
hưởng.
Thứ tư, đều thực hiện theo quy định của BLHS, do Tòa án ra quyết định
tha tù hoặc miễn CHHP.
Thứ năm, đều chung một hình thức, đó là văn bản áp dụng pháp luật của
Tòa án.
Những điểm khác nhau giữa chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện
với chế định miễn chấp hành hình phạt.
Về bản chất pháp lý
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Người đang chấp hành hình phạt tù
được trả tự do sớm nhưng phải tuân thủ một số điều kiện nhất định do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền xác định trong một thời gian gọi là thời gian thử thách
(thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù mà người đó phải

15


chấp hành hoặc có thể được rút ngắn thời gian thử thách). Nếu trong thời gian
thử thách mà người phạm tội vi phạm các điều kiện đặt ra thì tùy từng trường
hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể thay đổi điều kiện thử thách hoặc có
thể buộc người đó phải chấp hành nốt thời hạn còn lại của hình phạt tù trong trại
giam.
Miễn chấp hành hình phạt: Bản chất pháp lý của miễn CHHP được thể
hiện ở chỗ Tòa án vẫn quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm,

nhưng không buộc người này phải chấp hành toàn bộ hình phạt ấy khi có đủ căn
cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
Về căn cứ và những điều kiện áp dụng
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Người đang chấp hành án phạt tù về
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang
chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng. Điều kiện áp dụng: phạm tội
lần đầu; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; có nơi cư trú rõ ràng; đã chấp
hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và
án phí; đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít
nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm
xuống tù có thời hạn. Trường hợp người phạm tội là người có công với cách
mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên,
người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới
36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời
hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã
được giảm xuống tù có thời hạn; không thuộc một trong các trường hợp: Người
bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều
299 của BLHS; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định
tại Chương XIV của BLHS do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối

16


với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251 và 252 của BLHS;
người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản
3 Điều 40 của BLHS.
Miễn chấp hành hình phạt: Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc
tù có thời hạn đến 03 năm chưa CHHP thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn CHHP, nếu thuộc một trong các trường

hợp sau đây: sau khi bị kết án đã lập công; mắc bệnh hiểm nghèo; chấp hành tốt
pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm,
chưa CHHP nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát,
Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Người bị kết án phạt
tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ CHHP, nếu trong thời gian được tạm đình
chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó
khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại.
Về đối tượng
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Người đang chấp hành án phạt tù về
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (bao gồm cả tù
chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn) hoặc người đang chấp hành án
phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng.
Miễn chấp hành hình phạt: Áp dụng đối với người bị kết án phạt tiền, cải
tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, tù có thời hạn bằng bản án có hiệu lực
pháp luật của Toà án.
Về thời điểm áp dụng
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Khi người phạm tội đang chấp hành án
phạt tù.

17


Miễn chấp hành hình phạt: Khi người phạm tội được đặc xá hoặc đại xá;
và khi người phạm tội chưa chấp hành án (cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn) hoặc đã chấp hành một phần hình phạt (tù đến 03 năm nhưng đang được

tạm đình chỉ, phạt tiền, cấm cư trú, quản chế).
Về thời gian thử thách
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Bằng thời gian còn lại của hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt: Không có thời gian thử thách.
1.3.2. Phân biệt tha tù trước thời hạn có điều kiện với giảm mức hình phạt
đã tuyên
Theo khoản 1 Điều 63 của BLHS năm 2015 thì “Người bị kết án cải tạo
không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành
hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được
một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có
thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt”. Như
vậy, giảm mức hình phạt đã tuyên được hiểu là rút ngắn thời hạn của việc chấp
hành phần hình phạt còn lại của loại hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn, tù chung thân đối với người bị kết án. Về bản chất pháp lý, giảm mức hình
phạt đã tuyên là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể
hiện ở chỗ - khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy định trong
PLHS, Toà án quyết định việc rút ngắn thời gian CHHP cải tạo không giam giữ,
hình phạt tù có thời hạn hoặc quyết định giảm từ tù chung thân xuống tù có thời
hạn (30 năm) đối với người bị kết án đang CHHP tương ứng (nếu người này đã
chấp hành được một thời gian nhất định). So sánh khái niệm, bản chất pháp lý
của chế định giảm mức hình phạt đã tuyên với khái niệm, bản chất pháp lý của
chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện có thể rút ra những điểm giống và
khác nhau sau đây:
Những điểm giống nhau của chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện
với chế định giảm mức hình phạt đã tuyên

18


Thứ nhất, tha tù trước thời hạn có điều kiện và giảm mức hình phạt đã

tuyên đều là chế định nhân đạo của PLHS Việt Nam, phản ánh nguyên tắc nhân
đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS nói riêng.
Thứ hai, tha tù trước thời hạn có điều kiện và giảm mức hình phạt đã
tuyên đều được áp dụng đối với đối tượng là người phạm tội có đủ những căn cứ
và điều kiện nhất định.
Thứ ba, việc áp dụng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện và chế
định giảm mức hình phạt đã tuyên đều mang lại hậu quả pháp lý có lợi cho đối
tượng được hưởng.
Thứ tư, đều thực hiện theo quy định của BLHS, do Tòa án ra quyết định
tha tù hoặc giảm mức hình phạt.
Thứ năm, đều chung một hình thức, đó là văn bản áp dụng pháp luật của
Tòa án.
Những điểm khác nhau của chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện với
chế định giảm mức hình phạt đã tuyên:
Về bản chất pháp lý
Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Như đã phân tích trên, người đang
chấp hành hình phạt tù được trả tự do sớm nhưng phải tuân thủ một số điều kiện
nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định trong một thời gian gọi
là thời gian thử thách (thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù
mà người đó phải chấp hành hoặc có thể được rút ngắn thời gian thử thách). Nếu
trong thời gian thử thách mà người phạm tội vi phạm các điều kiện đặt ra thì tùy
từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể thay đổi điều kiện thử
thách hoặc có thể buộc người đó phải chấp hành nốt thời hạn còn lại của hình
phạt tù trong trại giam.
Giảm mức hình phạt đã tuyên: Bản chất pháp lý của giảm mức hình phạt
đã tuyên thể hiện ở chỗ khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện quy định trong
PLHS, Tòa án quyết định việc rút ngắn thời hạn CHHP cải tạo không giam giữ,
hình phạt tù có thời hạn hoặc quyết định giảm từ tù chung thân xuống tù có thời
hạn (30 năm) đối với người bị kết án đang CHHP tương ứng.


19


×