Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh bắc giang hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.19 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

DƢƠNG THỊ HẬU

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------

DƢƠNG THỊ HẬU

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hồ Việt Hạnh

Hà Nội – 2017




LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.
Hồ Việt Hạnh, người thầy đáng kính đã tận tình hướng dẫn tôi từ việc gợi mở
ý tưởng nghiên cứu cho đến những nhận xét, góp ý quý báu giúp tôi hoàn
thành tốt luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Đà Lạt, Ban Chủ
nhiệm Khoa Lý luận chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi tham gia khoá
đào tạo cao học năm 2015-2017 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới các thầy giáo, cô giáo của
Khoa Khoa hoc Chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội đã trang bị cho chúng tôi những kiến thức và bài học bổ ích trong quá
trình tôi học tập tại đây.
Xin được cám ơn các đồng nghiệp tại Khoa Lý luận chính trị, những
người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu. Tôi cũng xin cảm
ơn lãnh đạo, cán bộ HĐND – UNBD tỉnh Bắc Giang, Liên hiệp các hội khoa
học kĩ thuật tỉnh Bắc Giang đã nhiệt tình tiếp đón và cung cấp những thông
tin hữu ích cho nghiên cứu này.
Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân, bạn
bè và đồng nghiệp - những người đã luôn ủng hộ, giúp đỡ, động viên tôi
trong suốt quá trình tôi học tập và làm việc trong thời gian qua.

Hà Nội, ngày

tháng 09 năm 2017
Dương Thị Hậu



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực,
khách quan và chưa từng được công bố ở các nghiên cứu khác. Các thông tin
trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày

tháng 09 năm 2017
Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Hậu


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục bảng
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 8
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ......... 9
6. Đóng góp của luận văn............................................................................ 9
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 10
Chƣơng 1 - TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC........................................................................ 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................... 11

1.2. Nội dung cơ bản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức ................................................................................................ 19
1.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức ....................................................................... 38
Tiểu kết chƣơng 1.........................................................................................40
Chƣơng 2 - VẬN DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY42
2.1. Những yếu tố tác động đến việc phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức tỉnh Bắc Giang .................................................................................. 42
2.2. Thực trạng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang
hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ...................................................... 53
2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò
của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh............................................................................................................ 62
Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................... 70
KẾT LUẬN ................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 74


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, đội ngũ trí thức
luôn là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và dân
tộc. Cha ông chúng ta đã từng khẳng định: “... Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy
thì thế nước yếu và thấp hèn. Vì thế các bậc thánh vương đế minh không đời
nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí
quốc gia làm công việc cần thiết.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
khẳng định trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, sự nghiệp cách mạng

càng phát triển càng cần nhiều trí thức. Bởi vậy trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Người luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của họ tham gia vào sự
nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ đưa ra một hệ thống
lý luận mang tính chỉnh thể về vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ trí thức,
nhưng thông qua việc nghiên cứu những trước tác, những bài nói, bài viết,
những mẩu chuyện của Người với trí thức và đặc biệt là từ chính phong cách
làm việc dân chủ, văn hóa ứng xử của Người với trí thức và tấm lòng yêu
thương, bao dung với con người nói chung và trí thức nói riêng,... đã cho thấy
những quan điểm thống nhất của Hồ Chí Minh về việc tổ chức và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức. Thực tiễn đã chứng minh cho tư tưởng đúng đắn
và sáng suốt đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người về trí thức
và đặc biệt là tư tưởng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là tài sản tinh thần
vô cùng quý báu mà chúng ta cần phải kế thừa và phát triển trong giai đoạn
hiện nay.

1


Ngày nay, khi khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, loài người
đang bước vào thời đại kinh tế tri thức thì giá trị của tri thức, vai trò của đội
ngũ trí thức càng được đề cao trở thành nguồn lực quan trọng nhất quyết định
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của
đất nước. Đại Hội XII của Đảng cũng đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và
nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu. Bởi vậy, hơn bao giờ
hết, đòi hỏi Đảng ta cần phải tiếp tục quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong thời
đại ngày nay. Đây được coi là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các địa
phương và các tỉnh trong cả nước.

Trong những năm qua, lực lượng trí thức của tỉnh Bắc Giang đã phát
huy thế mạnh của mình và khắc phục những khó khăn để từng bước đi lên
hòa nhập cùng với sự phát triển chung của đất nước, mặt khác Đảng bộ và
chính quyền địa phương đã luôn quan tâm tới công tác xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức; đội ngũ trí thức tỉnh ngày càng tăng lên về số
lượng và chất lượng và có nhiều đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang còn bộc
lộ nhiều hạn chế và yếu kém: một số trí thức còn thiếu ý thức trách nhiệm,
chưa phát huy được vai trò là lực lượng tiên phong của những tri thức mới,
thiếu ý chí vươn lên; các chủ trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền
còn chưa đồng bộ và đi vào cuộc sống, vẫn còn có những cán bộ lãnh đạo,
quản lý chưa thực sự tôn trọng và trọng dụng trí thức. Bước sang giai đoạn
mới, toàn tỉnh đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong
“Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020, tầm
nhìn 2030”. Để đưa sự nghiệp đó đến thành công phải có sự cố gắng của
nhân dân lao động trong toàn tỉnh và đặc biệt là vai trò đi tiên phong của đội

2


ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang. Bởi vậy, phải nâng cao hơn nữa nhận thức của
các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Bắc Giang về vai trò của đội ngũ trí thức
và cần thiết phải có những giải pháp mang tính đồng bộ để phát huy hơn nữa
vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang. Đó là một trong những nhiệm vụ
có tầm quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của Tỉnh.
Trước tình hình trên, để góp phần làm rõ thực trạng đội ngũ trí thức tỉnh
Bắc Giang và nhằm phát huy hơn nữa vai trò của họ trong công cuộc đổi mới
hiện nay, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức tỉnh Bắc Giang hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trí
thức trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề trí thức nói chung:
2.1. Một số công trình nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức:
- Những công trình tiêu biểu đã in thành sách
Trần Đương: Bác Hồ với nhân sĩ trí thức, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2005
và nhiều tác giả Bác Hồ cầu hiền tài, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2007. Hai
công trình nghiên cứu trên đã tập hợp được nhiều câu nói, bài viết, những
mẩu chuyện chân thực và cảm động về Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí thức.
Nguyễn Khánh Bật và Trần Thị Huyền: Xây dựng đội ngũ trí thức thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2012, đã nghiên cứu khá đầy đủ về nội dung Tư tưởng
Hồ Chí Minh về trí thức bao gồm cả khái niệm, vai trò và nội dung xây dựng
đội ngũ trí thức trong cách mạng Việt Nam, cũng như sự vận dụng của Đảng
ta đối với công tác trí thức giai đoạn hiện nay.
Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh: Vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh vào việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb. Chính trị

3


Quốc gia, Hà Nội, 2008; PGS,TS. Đàm Đức Vượng: Hồ Chí Minh đào tạo
cán bộ và trọng dụng nhân tài, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
Nghiên cứu chủ yếu về công tác giáo dục và đào tạo đối cán bộ đảng viên của
Đảng ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Các đề tài khoa học nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức:
Nhiều tác giả cũng đã chọn trí thức làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
khoa học của mình như: Dương Văn Nghi: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức,
Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học;
Nguyễn Phương Quỳnh: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào

việc xây dựng đội ngũ trí thức của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Hòa Bình, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành
Hồ Chí Minh học, lưu tại thư viện Viện Hồ Chí Minh.
Những đề tài luận văn trên đã nghiên cứu và chỉ ra được những nội dung
cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức bao gồm khái niệm về trí thức,
quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam
và đã chỉ ra sự cần thiết phải vận dụng vào xây dựng đội ngũ trí thức trong
giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Những công trình nghiên cứu tiêu biểu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí
thức được công bố trên các tạp chí:
Các bài báo nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về trí thức như:
Phạm Ngọc Anh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí thức
trong cách mạng Việt Nam, Lịch sử Đảng, số 7 - 2003; Nguyễn Khánh Bật:
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tìm kiếm và trọng dụng nhân tài,
Tạp chí thông tin tư liệu, số 3-2008; Nguyễn Quốc Bảo: Chủ tịch Hồ Chí
Minh và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức, Tạp chí tuyên giáo, số 2-2009;
Trần Đình Huỳnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí thức, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 12-2009; Nguyễn Đắc Hưng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và

4


nhân tài, Báo nhân dân, 2004; Lưu Mai Hoa: Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn
đề xây dựng đội ngũ trí thức, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, số 10 - 2015; Nguyễn Thắng Lợi: Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7- 2009
Những bài báo đã trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh ở rất nhiều góc nhìn,
cách tiếp cận khác nhau, nhưng mục đích chung các tác giả đều chỉ ra cho
chúng ta thấy những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với trí
thức: Quan điểm Hồ Chí Minh về thu hút và trọng dụng trí thức, nhân tài;

quan điểm về xây dựng đội ngũ trí thức các mạng Việt Nam,...
2.2. Một số công trình nghiên cứu về trí thức nói chung:
Phạm Tất Dong (chủ biên): Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt
Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công trình đã có những luận giải xác
đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lượng sản xuất, trong sáng tạo
văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo, quản lý và điều hành sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyễn Đắc Hưng: Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội, 2005, 2008. Hai cuốn sách làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò
của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định
nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những
người không chỉ có trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực
sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu
ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt
động thực tiễn.
Nguyễn Văn Khánh - chủ biên của hai công trình: Xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước ; Nguồn lực

5


trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2010, 2012. Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung
ở những luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách
tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh
hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng
của nguồn nhân lực này, tác giả đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết
thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng

yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước.
2.3. Một số công trình khoa học nghiên cứu về xây dựng, phát huy vai
trò của của đội ngũ trí thức thuộc các địa phƣơng trong quá trình đổi
mới
Nguyễn Thế Hùng: Đội ngũ trí thức tỉnh Lào Cai trong công cuộc đổi
mới đất nước, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2009; Lê Phong Hồng: Vai
trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2009; Đặng Thị
Mai: Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003;
Nguyễn Thị Hằng Nga: Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng
trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2000;
Nguyễn Thành Phương: Đội ngũ trí thức tỉnh Bến Tre: Thực trạng và phương
hướng phát triển thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn Thạc sĩ
triết học, Hà Nội, 2001; Vương Vân Thanh: Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh
Bắc Ninh thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2010.
Thông qua các công trình trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ
bản về trí thức, vai trò của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt các tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ

6


những đặc điểm, vai trò, cũng như thực trạng của đội ngũ trí thức từng địa
phương; trên cơ sơ đó các tác giả đã đề xuất những yêu cầu và những giải
pháp cơ bản xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức của các địa phương
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu trên đều rất công phu, nghiêm túc
và được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau đã giúp tác giả có những tư liệu tốt

và phương pháp tiếp cận để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên chủ yếu mới chỉ
bàn đến vấn đề trí thức nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức và trí thức tỉnh Bắc Giang, cụ thể:
- Chưa làm rõ những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của trí thức
và biện pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức;
- Chưa làm rõ những yêu cầu cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
phát huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang hiện nay;
- Chưa đưa ra được thực trạng và những giải pháp tiếp tục phát huy vai trò
đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ đổi mới.
Đề tài “Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” được thực hiện dựa trên sự kế thừa từ việc phân
tích những điểm mạnh và điểm yếu của các nghiên cứu trước đó. Trên cơ sở
phân tích nội dung các nghiên cứu, tác giả xác định những khoảng trống,
những vấn đề còn bỏ ngỏ liên quan đến chủ đề nghiên cứu mà những nhà
nghiên cứu đi trước chưa đề cập đến hoặc giải quyết chưa thấu đáo để lựa
chọn vấn đề nghiên cứu, cách tiếp cận cũng như phương pháp nghiên cứu
phù hợp.

7


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về trí
thức, đánh giá đúng thực trạng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc
Giang, luận văn đề xuất được một số giải pháp góp phần phát huy hơn nữa
vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức.
- Xem xét, đánh giá thực trạng của việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Giang trong thời gian vừa qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức tỉnh Bắc Giang trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và của tỉnh
Bắc Giang nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và sự vận dụng vào phát huy vai trò
đội ngũ trí thức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những quan điểm của
Hồ Chí Minh về vai trò của đội ngũ trí thức và phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức; Đề cập đến thực trạng vận dụng tư tưởng đó vào phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất những giải pháp để tiếp tục
phát huy vai trò của họ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

8


- Phạm vi thời gian:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức gắn với xuyên suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người.
Luận văn nghiên cứu khảo sát thực trạng về phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức với sự phát triển tỉnh Bắc Giang giai đoạn từ năm 2008 đến nay.
Trong những giai đoạn khác luận văn cũng có thể đề cập đến trong chừng
mực để làm rõ hơn chủ đề mà luận văn triển khai nghiên cứu.
- Phạm vi không gian:
Nghiên cứu vấn đề phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tác động đến

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của tỉnh Bắc Giang. Luận văn cũng có thể
đề cập đến phạm vi toàn quốc và các tỉnh khác trong chừng mực làm rõ hơn
chủ đề của luận văn triển khai nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức làm cơ sở định hướng nghiên cứu.
Luận văn có kế thừa hợp lý kết quả nghiên cứu của công trình đi trước
có liên quan.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài: phương pháp
lịch sử, logic, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Kết quả của luận văn góp phần làm cơ sở khoa học cho các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương tỉnh Bắc Giang trong quá trình lãnh đạo quản
lý trí thức nhằm phát huy hơn nữa vai trò to lớn của họ trong sự nghiệp đổi mới.

9


- Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
còn bao gồm 2 chương:
Chƣơng 1 - TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Chƣơng 2 - VẬN DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO PHÁT

HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH BẮC GIANG HIỆN
NAY

10


Chƣơng 1 - TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.Trí thức
Việc xác định trí thức là ai, trí thức có những phẩm chất nổi bật gì có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đưa ra các biện pháp, chính sách, chế
độ đãi ngộ xứng đáng nhằm tôn vinh và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
trong xây dựng và phát triển đất nước.
Theo cách hiểu nghĩa của từ: “trí” thuộc về hiểu biết (Science, savoir),
“thức” thuộc về lương tri (conscience). Trí thức là những người biết mình,
biết người, hiểu biết xã hội và phụng sự xã hội, gắn sự nghiệp của mình với
sự phát triển xã hội, và do đó, trí thức phải là người có đức độ. Vì vậy, khi
nhắc đến “chuẩn” của trí thức, người ta thường nhấn mạnh đến một lượng
kiến thức lớn, nhưng đồng thời lại nói đến tinh thần sáng tạo và tiêu chuẩn
của đạo đức.
Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La tinh: Intelligentia nghĩa là
thông minh, có trí tuệ, hiểu biết. Từ những năm nửa sau thế kỷ XIX, khái
niệm này trở nên thông dụng. Theo Ja.Tchepanxky, hiện có trên 60 định
nghĩa khác nhau về “trí thức”. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi
quốc gia lại có những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “trí
thức”. Chẳng hạn, Đại từ điển Bách khoa Liên Xô (1985) định nghĩa: “Trí
thức là tầng lớp những người làm nghề lao động phức tạp chủ yếu là lao động
phức tạp, sáng tạo, phát triển và phổ biến văn hóa”. Trong từ điển Bách khoa
triết học tiếng Nga, (1983) định nghĩa “trí thức” là “tầng lớp” những người

làm nghề lao động phức tạp và thường có học vấn cao tương ứng, có chức
năng sáng tạo, phát triển và phổ biến văn hóa”.

11


Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng bàn khá nhiều và khá toàn diện về trí thức.
Lênin viết: “Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức
Literat, Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ
các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các
đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc
(Tức là những người mà người Anh gọi là Brain worker), khác với những đại
biểu của lao động chân tay” [64, tr.372].
Ở Việt Nam, một số từ điển cũng đã cung cấp những khái niệm trí thức.
Từ điển Chủ nghĩa xã hội Khoa học xác định: Trí thức là “một nhóm xã hội
bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học vấn
chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó” [56, tr.360]. Từ điển Triết học
định nghĩa trí thức là “tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động
phức tạp. Giới trí thức bao gồm: kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư,
nghệ sĩ, thầy giáo, người làm công tác khoa học và một bộ phận lớn viên
chức” [57, tr.598].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra một số những luận điểm về trí
thức, qua đó cho thấy đầy đủ diện mạo về trí thức theo như quan niệm của Hồ
Chí Minh. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10 năm 1947,
với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: “Trí thức là gì? Trí
thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự
đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là sự hiểu biết đấu
tranh dân tộc và xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó,
không có trí thức nào khác” [30, tr.235]. Như vậy, với Hồ Chí Minh, trí thức
gắn liền với tri thức, phẩm chất quan trọng nhất của của người trí thức đó là

hiểu biết tức là phải có tri thức. Hồ Chí Minh chia ra làm hai loại tri thức: tri
thức khoa học tự nhiên và tri thức khoa học xã hội. Và yêu cầu, người trí thức
phải nắm vững những tri thức trong lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Ngoài ra,

12


thông qua cách phân loại tri thức như trên, có thể chia trí thức thành hai
nhóm lớn là, trí thức trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và trí thức trong lĩnh
vực khoa học xã hội. Đây là cách phân loại rất gần gũi với quan niệm hiện
đại đang được sử dụng phổ biến ngày nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đưa ra quan niệm về một người “trí thức
hoàn toàn”, đó là người phải luôn biết gắn lý luận với thực hành, lý luận trên
cơ sở tổng kết thực tiễn và phải giải quyết được những vấn đề thực tiễn nảy
sinh trên lý luận khoa học. Như Người đã viết: “Một người học xong đại học,
có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công,
không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc
thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ là trí thức một nửa. Trí thức của y là
trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành trí thức hoàn
toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. [32, tr.275].
Hồ Chí Minh còn tiếp cận trí thức thông qua khái niệm “lao động trí óc”.
Trong bài Đảng lao động Việt Nam với lao động trí óc, Người xác định trí
thức là “những người lao động trí óc”. Vậy “lao động trí óc là ai?”. Câu trả
lời của Hồ Chí Minh: Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học,
văn nghệ, những người làm bàn giấy,..
Như vậy, với những quan niệm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ta
cái nhìn toàn diện về trí thức, tránh những tư tưởng hiểu chưa đúng về trí
thức với cái nhìn phiến diện, như coi trí thức là những người lao động trí óc,
với quan điểm là phân biệt với lao động chân tay, không có mối liên hệ nào.
Hay cứ học xong, có bằng đại học, cao đẳng thì đều là trí thức… Với những

cách nhìn nhận giản đơn đó đã tầm thường hóa khái niệm trí thức và do cách
nhìn nhận ấy đã làm tầm thường hóa không ít những người thuộc giới trí
thức.

13


Tóm lại, trên cơ sở quan quan điểm của C.Mác, Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và những khái niệm nêu trên, có thể khái quát: Trí thức là một tầng lớp
xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu, có đạo
đức, lao động trí tuệ - sáng tạo khoa học, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng
tri thức khoa học, trong hoạt động thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuy góc độ tiếp cận khác nhau, song các khái niệm trên tập trung đề cập
tới một số dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, trí thức là một tầng lớp xã hội
Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội được
thu nạp từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau; cho nên trí thức không
đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập nào. Trong xã hội có giai cấp,
trí thức luôn của giai cấp thống trị và phục vụ cho giai cấp thống trị. Vì vậy,
V.I.Lênin đã khẳng định: Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí
thức chỉ là một con số không mà thôi. Đồng thời trong xã hội cần thiết đến sự
sáng tạọ, lý tưởng của trí thức để giải phóng con người, giải phóng xã hội
cả về mặt thể chất, trí tuệ và xã hội.
Thứ hai, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn
sâu
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn của trí thức tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Trình độ học vấn và chuyên môn của trí thức được thể
hiện ở trình độ khoa học cơ bản và khoa học chuyên ngành; được hình thành

qua đào tạo, bồi dưỡng và không ngừng phát triển bằng con đường tự đào tạo,
lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Ở nước ta, trình độ học vấn
của trí thức thường được quan niệm từ bậc cao đẳng trở lên. Phần lớn trí thức
được đào tạo từ các trường cao đẳng, đại học và nhận được bằng cấp khác

14


nhau. Tuy nhiên bằng cấp cũng chỉ là một trong những tiêu chí để phân biệt
trí thức với các lực lượng khác trong xã hội; bởi trên thực tế, nhiều người
không qua đào tạo cơ bản, không có bằng cấp, nhưng bằng con đường tự học,
tự nghiên cứu và tích cực lao động sáng tạo, nên họ đã trở thành trí thức và
bổ sung vào đội ngũ trí thức.
Thứ ba, trí thức là người lao động trí óc, sáng tạo
Lao động trí óc là đặc trưng lao động của trí thức và sản phẩm lao động
của họ là những tri thức khoa học sáng tạo. Lao động sáng tạo của trí thức là
đi tìm bản chất và phát hiện quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan; đem lại những tri thức khoa học mới, tiến bộ, hữu ích, phổ biến
và ứng dụng những tri thức đó vào thực tiễn để nâng cao chất lượng mọi mặt
của đời sống xã hội, dự báo tương lai và đưa ra phương hướng, biện pháp
nhằm phát triển xã hội.
Những sản phẩm lao động sáng tạo chủ yếu là những giá trị tinh thần,
là sự phản ánh sâu sắc bản chất của sự vật, hiện tượng, là cơ sở lý luận định
hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn nhiều lĩnh vực cho sự phát triển
của xã hội trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Ngoài phẩm chất trên những trí thức chân chính có tinh thần dân tộc,
luôn nặng lòng yêu nước, thương dân, có trách nhiệm cao với quốc gia và
dân tộc. Như Khổng Tử đã nói: Nho sĩ phải là người đủ ba phẩm chất: có
trách nhiệm cao; có lòng tự trọng và dũng cảm , Các Mác cũng nói rõ hơn:
Trí thức ngoài khả năng sáng tạo, còn phải “dám phê phán thẳng thừng mọi

thức cần phê phá, không lùi bước trước mọi kết luận, mọi đụng chạm - dù là
đụng chạm tới thứ quyền lực nào”.
1.1.2. Đội ngũ trí thức
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất thế nào là “đội ngũ trí
thức”, nhưng dựa trên những khái niệm về trí thức bàn luận ở trên, có thể

15


quan niệm về đội ngũ trí thức như sau: Đội ngũ trí thức là đội ngũ những
người làm các nghề lao động phức tạp, đòi hỏi có học vấn và chuyên môn
sâu cho ngành lao động đó, giữ vai trò chủ đạo trong việc sáng tạo tri thức,
phổ biến giáo dục tri thức và ứng dụng tri thức khoa học vào phát triển sản
xuất và tiến bộ xã hội. Đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội có quan hệ mật
thiết với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác.
Như vậy, đội ngũ trí thức trước hết là tập hợp đông đảo những người trí
thức làm việc trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội bao
gồm: Khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật, quản lý nhà
nước, an ninh quốc phòng, hệ thống các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã
hội nghề nghiệp và các hội trí thức,…
Đội ngũ thức cũng là một tầng lớp xã hội có quan hệ mật thiết với các
giai cấp và tầng lớp khác. Như Lênin đã khẳng định: Nếu không nhập cuộc
với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm công nông hóa trí thức, trí thức công nông
hóa. Ngày nay, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại và với trình độ dân trí ngày càng cao đã và đang rút ngắn dần khoảng
cách giữa lao động chân tay với lao động phức tạp nói chung. Trong bối cảnh
đó, diễn ra sự xích lại gần nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức
với việc xuất hiện các nhóm trí thức công nhân.
1.1.3. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức

Trong mọi thời kỳ phát triển của lịch sử thế giới cũng như ở nước ta,
đội ngũ trí thức luôn là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức.
Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả
các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

16


Đánh giá vai trò của đội ngũ trí thức, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhận định: Trong mọi thời đại, tri
thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt
sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng
của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành
nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong
chiến lược phát triển.
Như vậy, có thể hiểu rằng vai trò của tầng lớp tri thức tập trung vào 5 vai
trò chủ yếu sau:
 Tiếp thu và truyền bá tri thức
 Sáng tạo các giá trị mới của tri thức
 Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách
và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội
 Dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội
 Tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải
vật chất cho xã hội.
Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng
trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị.

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã
hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước
giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân
tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực

17


chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc.
Trước hết là các cấp ủy Đảng từ trung ương đến cơ sở, luôn xác định
công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Có trách nhiệm trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ và giải pháp
trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực
hiện thắng lợi Nghị quyết. Các ban của Ðảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy tổ chức nghiên cứu,
quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong
nhân dân; có chương trình hành động cụ thể đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ có nhiệm vụ rà soát hệ
thống luật pháp và các văn bản liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng,
đãi ngộ và tôn vinh trí thức để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới phù hợp với
Nghị quyết.
Nhà nước phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thông qua công tác cán
bộ. Đòi hỏi cần phải công khai, minh bạch trong tất cả các khâu đánh giá, sử
dụng, phát hiện, tuyển chọn, trọng dụng nhân tài. Thông qua đối thoại trực
tiếp với đội ngũ trí thức để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, thông qua
đó để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Đồng thời thể chế hóa những nghị
quyết của Đảng về công tác trí thức thành các văn bản pháp luật và các chính
sách trọng dụng và tôn vinh, đãi ngỗ với trí thức.
Các đoàn thể xã hội và đặc biệt là Liên hiệp các hội và khoa học kĩ thuật

tập hợp những những trí thức khoa học và công nghệ, tạo môi trường dân chủ
cho trí thức làm việc, giới thiệu những trí thức tiêu biểu tham gia trong các vị
trí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Tóm lại, thời đại ngày nay, khi mà khoa học và công nghệ phát triển
nhanh chóng thì vai trò của đội ngũ trí thức càng trở nên to lớn và quan trọng

18


hơn. Đối với Việt Nam, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức không chỉ
có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm nguồn lực con người cho công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản tƣ tƣởng tƣởng Hồ Chí Minh về phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức
1.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đội ngũ trí thức
Thứ nhất, trí thức là lực lượng tiếp thu và truyền bá tư tưởng tiến bộ vào
Việt Nam
Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, trí thức Việt Nam đã đi tiên phong
tham gia cách mạng, là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách
mạng tiến bộ của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực truyền bá trong quần
chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách mạng - tiền thân
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói về lực lượng này, Hồ Chí Minh cho rằng:
Trí thức Việt Nam là lực lượng rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng
tiến bộ, “có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”, “có học thức, dễ cảm
chính trị... dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công, nông”.
Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán
bộ cho cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc). Học viên theo
học lớp này chủ yếu là những thanh niên Việt Nam yêu nước, lúc ấy đang ở
Quảng Châu hoặc từ trong nước sang. Đa số họ là thanh niên trí thức, học

sinh, một số là trí thức nho học. Hồ Chí Minh là linh hồn của lớp học. Người
tổ chức, lãnh đạo, thiết kế chương trình, nội dung đồng thời là giảng viên
chính của các lớp huấn luyện, đào tạo. Có thể nói, đây chính là Trường đào
tạo cán bộ nhân tài đầu tiên của Việt Nam. Trong thời gian từ năm 1925 1927, hàng chục các lớp huấn luyện, đào tạo hàng trăm cán bộ trí thức ở khắp
mọi miền đất nước đã được Người đào tại, huấn luyện tại Quảng Châu.

19


Cống hiến của Người đối với cách mạng Việt Nam là hết sức to lớn.
Trước hết Hồ Chí Minh đã làm thay đổi ý thức hệ cho lớp cán bộ thanh niên
trí thức đầu tiên của Việt Nam, đưa họ từ Chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ
nghĩa Mác - Lênin, được trang bị những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin, về kỹ năng thực hành vận động công tác quần chúng, về nguyên tắc
hoạt động bí mật,.... Đồng thời Người cũng đã đưa lớp cán bộ đầu tiên của
Cách mạng Việt Nam vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên mà nòng cốt
là cộng sản Đoàn - tổ chức tiền thân của Đảng mà hội viên chủ yếu là thanh
niên trí thức.
Bên cạnh việc tổ chức các lớp học tại Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ
Chí Minh còn rất quan tâm đến tới việc tuyển chọn những thanh niên trí thức
tiêu biểu của Việt Nam gửi đi đào tạo tại Trường Đại học Cộng sản Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản mục đích để đào tạo những trí thức am hiểu lý
luận chính trị, nắm vững bản chất cách mạng khoa học chủ nghĩa Mác Lênin. Trường Đại học Cộng sản Phương Đông là Trường chuyên đào tạo
cán bộ cách mạng cho các nước thuộc địa và phụ thuộc. Số đông học sinh tốt
nghiệp ra trường đã trở thành những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam, những Tổng Bí thư của Đảng trong những năm 30 của Thế kỷ
XX. Đó là Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng; Lê Hồng Phong, Tổng
Bí thư 1935-1936, ủy viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản; Hà Huy Tập,
Tổng Bí thư 1936-1938 và nhiều nhà lãnh đạo chủ chốt khác như Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Lương Bằng... Cùng với đó, Hồ Chí Minh cũng
tìm cách gửi những thanh niên trí thức có khả năng quân sự vào học Trường

quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Ngoài ra một bộ phận thanh niên trí thức đã dược đào tạo trong khóa
học tại Quảng Châu được cử về trong nước và Xiêm (Thái Lan) hoạt động.
Họ trở thành những người tuyên truyền, tổ chức phong trào cách mạng trong

20


×