Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Áp dụng hình phạt theopháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện xuân lộc, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.26 KB, 70 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ANH DŨNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUÂN LỘC,
TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ANH DŨNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUÂN LỘC,
TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài “Áp dụng hình phạt theopháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PG.TS
Hồ Sỹ Sơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc; các số liệu, ví dụ và trích dẫn đảm bảo tính chính xác, trung thực
và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người cam đoan

Võ Anh Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT ................................................................................................................ 7
1.1. Cơ sở lý luận của áp dụng hình phạt ...................................................... 7
1.2. Cơ sở pháp luật của áp dụng hình phạt ................................................ 21
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TOÀ ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI......................................... 26
2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt tại Toà án nhân dân huyện
Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ............................................................................ 26
2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc,
tỉnh Đồng Nai .............................................................................................. 27
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
HÌNH PHẠT TẠI HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI ................... 42
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng hình phạt tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai 42

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tại Toà án nhân dân
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ................................................................. 48
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADHP

: Áp dụng hình phạt

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự.

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thụ lý và xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017 ................................ 26
Bảng 2.2: Tình hình xét xử vụ án hình sự và áp dụng hình phạt chính của Tòa
án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017............ 28
Bảng 2.3: Tình hình xét xử vụ án hình sự và áp dụng hình phạt bổ sung của
TAND huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017 .................... 32
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm của Tòa
án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017............ 34
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội của
Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017 .... 35
Bảng 2.6: Tình hình áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
của TAND huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến 2017 ............. 37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một hiện tượng xã hội có tính nguy hiểm cho xã hội mang
tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Như vậy, xã hội có giai cấp nào cũng
tồn tại tội phạm, điều quan trọng là làm thế nào để phòng ngừa, ngăn chặn và
hạn chế tội phạm xảy ra. Nhà nước ở mỗi xã hội có giai cấp đều có những giải
pháp để thực hiện và một trong những giải pháp được Nhà nước sử dụng đó là
hình phạt.
Hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do toà án áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân phạm tội nhằm tước đoạt, hoặc hạn chế ở họ những quyền và
lợi ích nhất định theo quy định của BLHS. Hình phạt không chỉ có mục đích
là nhằm trừng trị mà còn giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội về ý thức

tuân theo pháp luật và các quy tắc xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới đồng
thời cũng nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh ngăn
ngừa, phòng, chống tội phạm.
Thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng cho
chúng ta thấy rằng, từng cặp đôi tính cưỡng chế và thuyết phục, trừng trị và
giáo dục hay tính cải tạo của hình phạt đều có tác động khác nhau và có mối
quan hệ lẫn nhau được phân hóa giữa chúng trong mỗi loại hình phạt. Khi áp
dụng hình phạt, tòa án phải xem xét một cách toàn diện các tình tiết của vụ
án, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, quy định của pháp luật hình sự, tình
hình và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và cả nước để
quyết định hình phạt sao cho đảm bảo công lý, tính nghiêm minh và công
bằng xã
hội.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói chung và
trên địa bàn huyện Xuân Lộc nói riêng, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp;
1


về tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Bên cạnh đó,
TAND huyện Xuân Lộc không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động
xét xử, trong đó có hoạt động ADHP và đã đạt được nhiều kết quả đáng trân
trọng. Tuy nhiên, quá trình ADHP của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc vẫn
còn những thiếu sót, vi phạm như: ADHP không đúng, ADHP khi chưa đánh
giá toàn diện, đầy đủ chứng cứ. Những thiếu sót, vi phạm trên không chỉ xâm
phạm quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân mà còn làm giảm niềm
tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp, ảnh hưởng
xấu đến dư luận và ảnh hưởng đến việc đạt được mục đích của hình phạt.
Tình trạng đó, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
ngoài điều kiện tự nhiên, môi trường, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước ta nói chung và của huyện Xuân Lộc nói riêng, khả năng, năng lực,

kinh nghiệm còn hạn chế của một số cán bộ xét xử còn có cả hạn chế, bất cập
của pháp luật hình sự. Chính vì vậy, vấn đề áp dụng hình phạt của Tòa án
nhân dân huyện Xuân Lộc cần được nghiên cứu để qua đó đề xuất những giải
pháp nhằm đảm bảo Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc áp dụng đúng hình
phạt. Cũng chính vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Áp dụng hình phạt
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai”
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc áp dụng hình phạt trong hoạt động giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân có thể nói là “vùng trũng” trong khoa học pháp lý nói
chung và khoa học luật hình sự nói riêng. Các công trình nghiên cứu có đề
cập đến hình phạt, chủ yếu nghiên cứu về quyết định hình phạt - một nội dung
chủ yếu và quan trọng của ADHP. Tuy nhiên, trong những năm gần đây có
một số công trình nghiên cứu có đề cập nghiên cứu về ADHP trong … đó có
thể kể đến:
2


- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Đắc Hùng với đề tài “Áp dụng hình
phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội”, năm 2018;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Minh Loan với đề tài “Áp dụng
hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội”, năm 2017;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Thương Hiền với đề tài
“Áp dụng hình phạt từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, năm 2017;
Phân tích nội dung nghiên cứu của những công trình nghiên cứu nêu
trên có thể thấy về mặt lý luận dù chưa sâu sắc và toàn diện, song đã được đề
cập nghiên cứu là khái niệm, đặc điểm, các loại căn cứ, nguyên tắc v.v…. của
áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó đượcnghiên

cứu ở những địa bàn khác nhau của nước ta nhưng không phải là huyện Xuân
Lộc, tỉnh Đồng Nai. Trong khi đó, để thấy được sự phù hợp hay không của
các quy định của pháp luật hình sự với thực tiễn xét xử (mà xét đến cùng là
thực tiễn cuộc sống) thì việc nghiên cứu về ADHP cần được tiến hành ở càng
nhiều địa bàn và ở các cấp độ khác nhau, càng nhiều càng tốt. Do vậy, việc
chọn địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai để nghiên cứu ADHP, thiết
nghĩ là phù hợp và có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận quy định của pháp luật và
thực tiễn về ADHP trong xét xử hình sự của Tòa án nhân dân huyện Xuân
Lộc, luận văn đề xuất các giải pháp để góp phần bảo đảm cho việc ADHP
đúng của Tòa án nhân dân cấp huyện nói chung và của Toà án nhân dân
huyện Xuân Lộc nói riêng.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Phân tích những vấn đề lý luận của áp dụng hình phạt;
- Phân tích thực tiễn ADHP tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai;
- Lập luận, đề xuất các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tại
TAND cấp huyện ở nước ta hiện nay.
Các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn này được
nghiên cứu trên góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam

trên địa bàn huyện Xuân Lộc. Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu
ra trong khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng; các quy
định của pháp luật nước ta; thực tiễn áp dụng hình phạt tại Toà án nhân dân
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung
nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thực tiễn đề tài này chỉ nghiên cứu hoạt động áp dụng hình phạt
của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Về thời gian: Trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2013 - năm
2017).
- Về địa bàn nghiên cứu: Địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
4


quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt, về phòng, chống
tội phạm ….
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và lô gic,
phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là công trình nghiên cứu cơ bản và toàn diện ở cấp độ luận văn
thạc sĩ luật học về vấn đề ADHP của TAND trong thực tiễn xét xử. Bằng

phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về ADHP huyện Xuân
Lộc. Luận văn đóng góp thêm phần nhận thức, từ đó đi đến thống nhất những
vấn đề lý luận về ADHP để áp dụng trong thực tiễn ngày càng hiệu quả và
hoàn thiện hơn trong kỹ thuật xây dựng pháp luật hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bằng việc phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn ADHP của
Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo của các cán bộ làm công tác pháp luật, những tác
giả nghiên cứu khoa học, tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và học
tập ở các trường đào tạo ngành Luật.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt.
5


Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tại huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng
tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
1.1. Cơ sở lý luận của áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt
Hình phạt có mục đích đã được quy định tại Điều 31 BLHS năm 2015:

“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội
mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống,
ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn
trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” [30, tr. 10].
Hoạt động ADHP của TAND phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật
Tố tụng hình sự, kể từ khi thụ lý hồ sơ; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn; chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử; đưa vụ án ra xét xử; ban hành
và giao các quyết định, bản án của TAND. Kết quả của tiến hành xét xử các
vụ án hình sự, là Tòa án (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) phải ra một phán
quyết đối với hành vi phạm tội được xét xử công khai tại phiên tòa.
Một trong những nội dung của ADHP của Toà án là quyết định hình
phạt. “Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân ngay sau khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội. Nếu
định tội là tiền đề, là cơ sở cho quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt
là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử” [7, tr. 225].
Ngoài ra, ADHP còn bao gồm miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình
sự, xử lý vật chứng …. Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp người bị kết
án thỏa mãn các điều kiện do BLHS quy định, do thay đổi chính sách hình sự
hay mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội không lớn và được
TAND quyết định cho họ miễn trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:

7


Áp dụng hình phạt là một hình thức thực hiện pháp luật được thực hiện
bởi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là những người được Nhà nước trao
quyền trên cơ sở những quy định pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, xác định sự thật khách quan của vụ án, lựa chọn loại

và mức hình phạt đối với người hoặc pháp nhân phạm tội phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và trong
những trường hợp mà pháp luật quy định, quyết định miễn trách nhiệm hình
sự hay xử lý vật chứng.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng hình phạt
Từ khái niệm nêu trên về ADHP có thể thấy ADHP là một hoạt động
áp dụng pháp luật và có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ADHP là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do TAND
mà trực tiếp là HĐXX tiến hành:
Tính chất quyền lực Nhà nước trong ADHP của TAND trước hết được
thể hiện ở chỗ hình phạt do Nhà nước ban hành và thông qua cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng đối với người hoặc pháp nhân phạm tội và có
tính chất thực hiện bắt buộc đối với họ.
TAND là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử, nhân danh Nhà
nước xét xử các vụ án hình sự. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự của Hội đồng xét xử, (thông thường gồm: Nếu xét xử rút gọn thì có 01
Thẩm phán; nếu vụ án xét xử theo thủ tục bình thường là 01 thẩm phán và 02
hội thẩm nhân dân; nếu vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì thành
phần HĐXX có 02 thẩm phán và 03 hội thẩm nhân dân; còn HĐXX phúc
thẩm là 03 thẩm phán, trong trường hợp cần thiết có thêm 02 hội thẩm.

8


Như vậy, ADHP của TAND là hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân nhân danh quyền lực nhà nước để tuyên một chủ thể có tội và phải
chịu mức hình phạt tương ứng hoặc không có tội.
Thứ hai, ADHP là hoạt động cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hình
sự đối với hành vi phạm tội và người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội:

Tính cá biệt hoá của hoạt động ADHP được thể hiện các địa chỉ để
ADHP là xác định, gồm tất cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không
gian; các quyết định ADHP được ban hành cụ thể đối với từng quan hệ xã hội
xác định. Những người nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử cần xác định
những hành vi phạm tội được xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành…, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, nếu trường hợp có đồng phạm thì xác định vai trò
của từng bị cáo trong vụ án … xác định sự thật khách quan của vụ án như:
Xác định các giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm từ khi bắt đầu cho tới
khi kết thúc; là thuộc trường hợp hành động hay không hành động; đã có đủ
yếu tố cấu thành tội phạm hay không; nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì đó
là tội gì? gồm những ai? …
Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân căn cứ vào các tài liệu,
chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập có tại hồ sơ, vào quá
trình kiểm tra chứng cứ, thẩm vấn, tranh tụng tại phiên toà, xem xét bị cáo bị
Viện kiểm sát kết tội là có căn cứ hay không? từ đó, có những quyết định
đúng đắn cho việc giải quyết vụ án là trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ vụ
án hay tuyên bị cáo có tội hoặc không có tội. Trường hợp có tội, thì Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, hoàn cảnh xảy ra tội phạm, các vấn đề về nhân thân,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng loại và mức

9


hình phạt đối với bị cáo sao cho đảm bảo xét xử đối với bị cáo là đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ ba, hoạt động ADHP được thực hiện chủ yếu tại phiên tòa:
Tại phiên tòa sau khi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thẩm vấn và
kiểm chứng, đánh giá những chứng cứ thu nhập được trong tất cả các giai

đoạn tố tụng một cách công khai, khách quan, toàn diện. Từ đó, mới có quyết
định áp dụng loại hình phạt tương xứng hay miễn hình phạt hoặc miễn trách
nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Phiên tòa xét xử án hình sự được xét xử công khai (trừ những trường
hợp xét xử kín theo luật định đó là: Giữ bí mật quốc gia, giữ gìn thuần phong
mỹ tục của dân tộc, người bị hại bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm hoặc yêu
cầu chính đáng của người bị hại,…). Phiên toà công khai, quần chúng nhân
dân, các cơ quan Báo chí, Đài phát thanh được quyền tham gia. Phiên tòa xét
xử hình sự được diễn ra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và các thành
viên của HĐXX. Tại phiên toà, nguyên tắc tranh tụng luôn được đảm bảo.
Các bị cáo được quyền trình bày ý kiến và yêu cầu của mình và tranh luận
việc bị truy tố và kết tội là đúng hay sai; các luật sư có quyền đưa ra chứng cứ
và tham gia tranh luận để bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người mà họ đảm trách.
Qua xét hỏi tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm, TAND
kiểm tra công khai tính đúng đắn việc áp dụng pháp luật của các cơ quan
Công an, Viện kiểm sát trong quá trình tiến hành tố tụng thông qua việc kiểm
tra các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và xuất trình tại phiên toà.
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các
quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan. Từ đó chúng ta thấy rằng,

10


ADHP chính là áp dụng các quy định của pháp luật mà chủ yếu là BLHS và
được tiến hành trong giai đoạn xét xử.
Thứ tư, hoạt động ADHP được tiến hành theo trình tự, tố tụng chặt
chẽ.
Chủ thể ADHP là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Trong tiến trình

ADHP phải đảm bảo được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, những quy định
bắt buộc để xét xử các vụ án theo thẩm quyền. Áp dụng hình phạt là khâu
cuối của hoạt động xét xử của Tòa án.
Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật góp phần bảo đảm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân; các bước tiến hành tố tụng được
chính xác, khách quan; các bản án, quyết định ADHP của TAND bảo đảm
đúng pháp luật.
Thứ năm, áp dụng hình phạt mang tính tư duy sáng tạo cao
Các chế tài trong BLHS năm 1999, được xây dựng theo kiểu tùy nghi
lựa chọn chiếm đa số trong cơ cấu các điều luật, khung hình phạt tối thiểu và
tối đa cách nhau 10 năm. BLHS 2015, đã có nhiều cải tiến nhưng các khung
hình phạt chế tài xây dựng theo kiểu tùy nghi, lựa chọn vẫn còn nhiều. Do đó,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nghiên cứu, đánh giá từng bị cáo trong
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Từ đó, áp dụng nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
đối với từng người phạm tội để áp dụng một mức hình phạt tương xứng.
Như vậy, để áp dụng hình phạt đúng, Thẩm phán và Hội thẩm phải là
những người có trình độ, khả năng, năng lực, kinh nghiệm xét xử cao; có bổn
phận, trách nhiệm trước số phận của con người và pháp nhân. Một hình phạt
được áp dụng đúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và nhất là yếu tố
con người. Bởi vậy, ADHP là hoạt động khó khăn, phức tạp. Nói cách khác,
ADHP là hoạt động mang tính tư duy sáng tạo cao.

11


1.1.3. Nội dung của áp dụng hình phạt
1.1.3.1. Quyết định hình phạt
- Quyết định hình phạt chính
Quyết định hình phạt chính đối với người phạm tội là việc tòa án lựa
chọn loại và mức hình phạt đã được quy định đối với tội phạm (cấu thành tội

phạm) để áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thực hiện tội phạm đó.
Tuỳ thuộc vào hình phạt chính cụ thể được quy định đối với tội phạm
cụ thể (cấu thành tội phạm cụ thể) đang được tiến hành xét xử, toà án (Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân) áp dụng một hình phạt chính như: Cảnh cáo
(Điều 34 BLHS năm 2015) [30, tr. 10]; Phạt tiền (Điều 35 BLHS năm 2015)
[30, tr. 11]; Cải tạo không giam giữ (Điều 36 BLHS năm 2015) [30, tr. 11];
Trục xuất (Điều 37 BLHS năm 2015) [30, tr. 12]; Tù có thời hạn (Điều 38
BLHS năm 2015) [30, tr. 12]; Tù chung thân (Điều 39 BLHS năm 2015) [30,
tr. 12]; Tử hình (Điều 40 BLHS năm 2015) [30, tr. 12].
Đối với pháp nhân thương mại phạm tội tuỳ thuộc vào hình phạt được
quy định đối với tội phạm. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể áp dụng
một trong các loại hình phạt: Phạt tiền (Điều 77 BLHS năm 2015) [30, tr. 26];
Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78 BLHS năm 2015) [30, tr. 26]; Đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79 BLHS năm 2015) [30, tr. 26].
- Quyết định hình phạt bổ sung
Tuỳ thuộc vào việc quy định trong pháp luật, toà án có thể áp dụng một
hoặc một số hình phạt bổ sung. Căn cứ vào hình phạt bổ sung được BLHS
quy định đối với tội đang xét xử, toà án (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân)
quyết định hình phạt đối với người phạm tội thì gồm: Cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định (Điều 41 BLHS năm 2015)
[30, tr. 12]; Cấm cư trú (Điều 42 BLHS năm 2015) [30, tr. 13]; Quản chế
(Điều 43 BLHS năm 2015) [30, tr. 13]; Tước một số quyền công dân (Điều


44 BLHS năm 2015) [30, tr. 13]; Tịch thu tài sản (Điều 45 BLHS năm 2015)
[30, tr. 13]; Phạt tiền (khi quy định là hình phạt bổ sung) hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh
vực nhất định (Điều 80 BLHS năm 2015) [30, tr. 26]; Cấm huy động vốn
(Điều 81 BLHS năm 2015) [30, tr. 26].
- Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:

Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, toà án không
chỉ căn cứ vào Điều 50 BLHS mà còn phải căn cứ vào các quy định đối với
người dưới 18 tuổi, bao gồm 7 nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi,
trong đó có nguyên tắc chung, có nguyên tắc miễn trách nhiệm hình sự, có
nguyên tắc quyết định hình phạt (Điều 91 BLHS), cụ thể như:
- Việc “Xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã
hội” (Khoản 1 Điều 91 BLHS).
- Nguyên tắc “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu
quả, nếu không thuộc trường hợp quy đinh tại Điều 29 BLHS, thì có thể được
miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục quy định
tại Mục 2 Chương XII BLHS” (Khoản 2 Điều 91 BLHS), đó là:
Thứ nhất: Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng,
phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội
hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép
chất ma túy); Điều 249 (tội tàn trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận
chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy);
Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của BLHS.


Thứ hai: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý quy định tại Khoản 2 Điều 12 của BLHS, trừ trường hợp quy định tại
Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 142 (tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người đủ 13 đến dưới 16
tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16
tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248

(tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàn trữ trái phép chất ma
túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán
trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này.
Thứ ba: Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò
không đáng kể trong vụ án.
- Nguyên tắc “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào đặc điểm về nhân
thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và việc
phòng ngừa tội phạm” (Khoản 3 Điều 91 BLHS).
- Nguyên tắc “Khi xét xử, tòa án chỉ chỉ áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miến trách nhiệm hình sự và
áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả
giáo dục, phòng ngừa” (Khoản 4 Điều 91 BLHS).
- Nguyên tắc “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội” (Khoản 5 Điều 91 BLHS).
- Nguyên tắc “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục
khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, tòa
án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp


dụng người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp
ngắn nhất” (Khoản 6 Điều 91 BLHS).
- Nguyên tắc “Án đã tuyên đối với người chứ đủ 16 tuổi phạm tội, thì
không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” (Khoản 7 Điều 91
BLHS).
1.1.3.2. Miễn hình phạt
Tại Điều 59 BLHS năm 2015 quy định về miễn hình phạt. Miễn hình
phạt là trường hợp Toà án kết tội nhưng người phạm tội không phải chấp

hành hình phạt do thoả mãn được những điều kiện được quy định tại BLHS.
Cần lưu ý rằng, trong BLHS năm 2015, quy định về hình phạt bổ sung ở dạng
tùy nghi nhiều nhưng toà án chỉ có thể miễn hình phạt bổ sung trong trường
hợp hình phạt bổ sung đó được quy định là bắt buộc. Người phạm tội có thể
được miễn hình phạt nhưng chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự, nghĩa là
bị cáo có các điều kiện để miễn hình phạt, nhưng chưa đủ điều kiện để được
miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015.
Người được miễn hình phạt coi như không có án tích, nghĩa là được coi
như không có tiền án ngay khi tuyên án và không làm phát sinh các hậu quả
pháp lý của việc thực hiện trách nhiệm hình sự.
1.1.3.3. Miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29 BLHS năm 2015).
- Người đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là thuộc trường
hợp:
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi chính sách,
pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Nghĩa là: Căn cứ để xác định do chuyển biến tình hình mà hành vi phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa là những quy định của Nhà nước có liên
quan đến hành vi phạm tội, các quy định này phải bằng văn bản có tính pháp
quy, bao gồm: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, quyết định, nghị quyết của Chính


phủ hoặc Thủ tướng chính phủ, các thông tư hướng dẫn của các bộ, hoặc cơ
quan ngang bộ, trong một số trường hợp là nghị quyết của hội đồng nhân dân
tỉnh hoặc quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh nếu các quyết định
này không trái với Hiến pháp và pháp luật. Nếu sự chuyển biến của tình hình
và tình hình đó tuy có liên quan đến tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội
đã xảy ra nhưng chưa được Nhà nước quy định thì người có hành vi phạm tội
vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự:
Một là, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình

hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Nghĩa là sau
khi họ thực hiện hành vi phạm tội họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội và
xã hội rất cần họ là được coi là do chuyển biến tình hình mà người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Hai là, Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắt bệnh
hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa. Đây
là điểm quy định mới của BLHS năm 2015. Tuy nhiên, không phải trường
hợp mắc bệnh hiểm nghèo nào cũng được miễn trách nhiệm hình sự mà phải
kèm theo điều kiện nữa là không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Ba là, Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào
việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng làm hạn chế đến mức thấp nhất
hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được Nhà
nước và xã hội thừa nhận. Người phạm tội có đủ các điều kiện này thì mới
được xét để miễn trách nhiệm hình sự.
Bốn là, Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện


của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì
có thể được miễn trách nhiệm hình sự (Khoản 3 điều 29 BLHS năm 2015).
1.1.4. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt
- Nguyên tắc pháp chế:
Tòa án khi áp dụng hình phạt đối với những người thực hiện hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đồng thời phải tuân thủ đúng
nguyên tắc pháp chế, nghĩa là phải căn cứ và áp dụng đúng các quy định của
Bộ luật Hình sự và Tố tụng hình sự, các văn bản liên quan đến hình phạt và
quyết định hình phạt. Hai là, Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh Nhà nước
thực hiện áp dụng hình phạt. Trong khi áp dụng hình phạt Tòa án phải tuân
thủ trình tự và các điều kiện quy định trong Bộ luật Hình sự áp dụng các loại

hình phạt; tuân theo các mức hình phạt hoặc khoản của điều luật quy định đối
với tội mà các bị cáo đã thực hiện. Tòa án tuyên hình phạt đối với một bị cáo
phải có căn cứ và có lý do. Ba là, nguyên tắc pháp chế còn thể hiện tính hợp
lý của áp dụng hình phạt, Tòa án lựa chọn một loại và mức hình phạt phù hợp
đối với mỗi bị cáo, phải đúng pháp luật và phải phù hợp với các nguyên tắc
khác.
- Nguyên tắc công bằng:
Nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi áp dụng hình phạt, Toà án phải căn
cứ vào vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội
gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về nhân thân
người phạm tội của từng người.
- Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự:
Khi áp dụng hình phạt Tòa án phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật
Hình sự và các văn bản có liên quan, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội, vai trò, mức độ tham gia của từng người trong vụ án đồng phạm,
để từ đó chọn loại và mức hình phạt phù hợp cho từng đối tượng trong vụ án.


Điều kiện giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo nào thì áp dụng đối với bị cáo đó.
Hay nếu bị cáo nào phạm nhiều tội thì các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của tội này cũng không áp dụng đối với tội kia và ngược
lại. Đối với tình tiết về nhân thân hay loại trừ trách nhiệm hình sự của người
phạm tội nào thì áp dụng đối với chính người đó.
- Nguyên tắc nhân đạo:
Khi áp dụng hình phạt đòi hỏi Tòa án phải có tư tưởng nhân đạo trong
chính sách hình sự, phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật về hình
phạt và áp dụng hình phạt. Khi áp dụng hình phạt hay các biện pháp cưỡng
chế hình sự khác đối với những người phạm tội, không nhằm mục đích trừng
trị mà giáo dục mới là trên hết. Do đó, Toà án phải nắm vững nguyên tắc xử
lý, mục đích hình phạt, hệ thống hình phạt, miễn hình phạt, miễn trách nhiệm

hình sự cũng như các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, là phụ
nữ đang có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người già phạm tội.
1.1.5. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt
Ý nghĩa của ADHP được thể hiện:
- Thứ nhất: ADHP đúng có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa tội phạm và
đảm bảo sự công bằng trong xã hội.
- Thứ hai: ADHP là hoạt động thực tiễn và lý luận nên luôn có mối
quan hệ qua lại lẫn nhau. Thông qua xét xử các vụ án hình sự, trong quá trình
ADHP các quy phạm pháp luật hình sự được vận dụng trong thực tiễn sẽ đánh
giá được tính phù hợp, đầy đủ, toàn diện trong đời sống xã hội; phát hiện
những vướng mắc, bất cập; những quy phạm pháp luật hình sự không rõ hay
những dự đoán sự phát triển của xã hội của nhà làm luật có những quy định đi
trước xa hay những hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra nhưng chưa có quy
phạm pháp luật điều chỉnh… làm cho chủ thể ADHP lúng túng khi ADHP.


Những quy phạm pháp luật không khả thi, không còn phù hợp với xã hội cần
được sửa đổi, thay thế.
- Thứ ba: ADHP có ý nghĩa trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục ý thức tuân theo pháp luật. Thông qua các phiên tòa xét xử công khai,
phiên tòa lưu động hay việc công bố bản án trên cổng thông tin điện tử, qua
việc ADHP Toà án đã phân tích, giải thích pháp luật, các chính sách khoan
hồng hay những biện pháp trừng trị của pháp luật đối với người hoặc pháp
nhân phạm tội, từ đó chuyển tải kiến thức pháp luật đến với quần chúng nhân
dân một cách trực quan, thực tế và hiệu quả nhất.
- Thứ tư: Hoạt động ADHP của TAND có ý nghĩa trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, là cơ sở để bảo vệ pháp chế XHCN.
Bởi chính từ hoạt động ADHP của Toà án làm cho mọi tổ chức và công dân
nâng cao ý thức chấp hành theo Pháp luật, từ đó, Pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, thống nhất.

1.1.6. Những yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt
- Chất lượng của quy phạm pháp luật
Việc ADHP đòi hỏi hình phạt phải được áp dụng một cách dân chủ,
công bằng, cá thể hóa, nhân đạo… Trong khi đó, quy định hình phạt có nhiều
dạng chế tài là lựa chọn hay tương đối dứt khoát, hay gối khung hình phạt
khác nhau, đối với hình phạt bổ sung là tùy nghi hay bắt buộc … Do vậy, nếu
các quy phạm pháp luật hình sự được xây dựng có chất lượng sẽ tác động tích
cực đến ADHP và ngược lại.
- Chất lượng giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung buộc mọi chủ thể trong xã
hội phải tuân theo. Do đó, nội dung của các quy phạm pháp luật có lúc chưa
rõ ràng, khó hiểu và không hoàn toàn sát hợp với tình huống phát sinh trong
cuộc sống nên đòi hỏi phải có hoạt động giải thích pháp luật nhằm làm sáng


×