VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
Ngành: Triết học
Mã số: 8 22 90 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MAI OANH
HÀ NỘI, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Mai Oanh. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không
trùng với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã được công bố.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN ............................7
1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân ...............................7
1.2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp
công nhân ..................................................................................................................14
1.3. Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................20
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH HIỆN NAY ..........................................................................................28
2.1. Tình hình giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ..................28
2.2. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đang đặt ra để phát triển giai cấp công
nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay....................................................................50
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................59
3.1. Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
...................................................................................................................................59
3.2. Những giải pháp cơ bản phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay .....................................................................................................................62
3.3. Kiến nghị ............................................................................................................68
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân thành phố Hồ
Chí Minh 2015
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi bàn về quy luật thịnh suy của một quốc gia, ngay từ thế kỷ XVIII, bảng
nhãn Lê Quý Đôn đã đưa ra nhận định sâu sắc: “phi công bất phú”. Điều này, có
nghĩa, phát triển kinh tế công nghiệp là con đường tất yếu của mọi quốc gia. Đồng
thời với kinh tế công nghiệp, là sự phát triển toàn diện của giai cấp công nhân, với
tư cách là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Quy luật này đã được chứng minh
trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc từ khi xuất hiện hoạt
động sản xuất công nghiệp, xuất hiện giai cấp công nhân đến nay.
Nhìn lại chặng đường 88 năm, kể từ ngày Đảng ta ra đời, giai cấp công nhân
Việt Nam không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, nhất là trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giai cấp công nhân đã chứng tỏ là lực lượng sản
xuất cơ bản, nắm giữ những lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền
sản xuất, là lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay cả nước có
khoảng 14 triệu công nhân, tạo ra khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân
sách của cả nước. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến,
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ mới, giai cấp công nhân nước ta là lực lượng nòng cốt trong
khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng,
kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhận thức điều này, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thế nhưng, để có nền công nghiệp
phát triển hiệu quả, có thể đưa đất nước đạt đến sự giàu có, cường thịnh, trở thành
“con rồng”, “con hổ” thì điều cốt yếu là phải làm thế nào xây dựng được đội ngũ
công nhân lớn về số lượng và mạnh về chất lượng, có trình độ chuyên môn – kỹ
thuật cao, năng động, sáng tạo, có lương tâm nghề nghiệp, ý thức chính trị vững
vàng… Để xây dựng đội ngũ công nhân như vậy, không phải là việc đơn giản, dễ
1
dàng, có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà là quá trình lâu dài, phức tạp
với nhiều lộ trình, bước đi phù hợp.
Xuất phát từ nhận thức như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, quản lý đất
nước, Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách phát triển giai cấp công nhân. Nhờ vậy, đến nay
giai cấp công nhân nước ta đã có bước phát triển đáng kể cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.
Ở nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của của Đảng và quản lý của Nhà nước
thông qua hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, các địa
phương tiếp thu và tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà chủ động, sáng
tạo đưa ra các giải pháp, bước đi phù hợp. Điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn có vị trí chiến lược quan trọng khu vực
Nam Bộ và là trung tâm kinh tế công nghiệp – dịch vụ lớn nhất, nơi tập trung đông
lực lượng công nhân của nước ta. Hàng năm, đóng góp hơn 20% GDP của cả nước.
Vị thế ấy được xác lập nhờ vào vai trò quan trọng và đóng góp to lớn của đội ngũ
công nhân của Thành phố. Các Nghị quyết, chính sách của Thành uỷ và Uỷ ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh luôn khẳng định công nhân là lực lượng sản xuất
chủ yếu trong tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế; là những chủ nhân đang
cùng cả Thành phố đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế tri thức, đô thị hoá và hội nhập quốc tế…
Công nhân Thành phố Hồ Chí Minh đang hoạt động trong môi trường kinh tế
- xã hội điển hình của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với sự phát
triển mạnh mẽ của các loại máy móc tiên tiến, công nghệ tự động hoá. Đây là cơ hội
để giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh nâng cao trình độ học vấn, tay
nghề, chất lượng cuộc sống. Đồng thời cũng là thách thức lớn, đòi hỏi Đảng bộ,
chính quyền và toàn giai cấp công nhân phải nỗ lực không ngừng mới có thể đáp
ứng yêu cầu đặt ra.
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải xây
dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển công
nghiệp trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Qua nghiên cứu giai
cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi ghi nhận một số thực trạng sau:
đó là thiếu hụt công nhân có trình độ tương ứng phục vụ cho các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Thành phố; tình trạng phân hoá về trình độ học vấn, chuyên
môn – kỹ thuật, chất lượng cuộc sống, chất lượng việc làm giữa các bộ phận của
giai cấp công nhân; đời sống và điều kiện làm việc của bộ phận lớn công nhân còn
nhiều khó khăn; trình độ lý luận, tính tích cực chính trị, ý thức pháp luật còn nhiều
hạn chế; vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa phát huy
hiệu quả; quan hệ lao động còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, tiềm ẩn xung đột chủ
thợ….
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển” để làm luận văn tốt nghiệp.
Công trình nghiên cứu này không chỉ cần thiết cho Thành phố Hồ Chí Minh, mà
còn cung cấp những luận cứ cần thiết có thể giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện
những quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
cả nước trong bối cảnh mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành đến nay, đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ
công nhân Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Mỗi công trình tuỳ theo mục đích
nghiên cứu tập trung vào những góc độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu như:
Thứ nhất, dưới góc độ nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam có các công
trình: “Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay” của tác giả Bùi
Đình Bôn, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997: đây là tác phẩm nghiên cứu hầu như gần hết
các vấn đề lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam; tác phẩm “Giai cấp công nhân
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế” của
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2010: đây tập hợp rất nhiều nghiên cứu của các tác giả thuộc Trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị thuộc đại học quốc gia Hà Nội. Tác phẩm này tập
trung nghiên cứu những vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay và
mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá nước
ta. Tác phẩm “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam” tác giả
Văn Tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997: tác phẩm này tác giả tập trung
phân tích mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong suốt quá
trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta; tác phẩm“Một số vấn đề xây dựng
và phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” của Viện Công nhân và công đoàn. Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004;
đây là những nghiên cứu của tập thể Viện Công nhân và công đoàn về thực trạng
giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện
nay; tác phẩm “Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt nam trong quá
trình đổi mới” của tác giả Phạm Văn Giang, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; trên cơ sở
phân tích các đặc trưng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, tác đưa ra nhận
định về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong quá trình đổi mới….
Thứ hai, dưới góc độ nghiên cứu giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh
có các công trình: “Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng
công nhân Thành phố Hồ Chí Minh”, công trình của PGS,TS.Nguyễn Đăng Thành,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008: đây là công trình nghiên cứu toàn diện thực trạng giai
cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986 – 2008. Từ dó, tác giả đưa
ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay; tác phẩm“Xu hướng biến đổi giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Khánh Vân: trên cơ sở nghiên cứu thực
trạng giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả dự báo xu hướng biến
đổi của giai cấp này trong thời gian tới. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản để phát
triển giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung các công trình nêu trên nghiên cứu rất nhiều vấn đề về giai cấp
công nhân Việt Nam cũng như đội ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ
sở tiếp thu, kế thừa những quan điểm phù hợp kết hợp với chọn lọc, thống kê, phân
tích, tổng hợp các số liệu thực tế về giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh,
bản thân muốn đánh giá tổng thể thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn từ khi đất nước bắt đầu đổi mới (1986) cho đến nay. Từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp, khả thi để có thể phát triển đội ngũ công nhân Thành phố nói
riêng, cả nước nói chung giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, Tác giả muốn làm rõ thực trạng giai cấp công nhân Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay. Từ đó đưa ra các nhóm giải pháp phù hợp để phát triển
giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau
đây:
- Thứ nhất, hệ thống lại lý luận chung về giai cấp công nhân;
- Thứ hai, đánh giá thực trạng đội ngũ công nhân và quá trình xây dựng giai
cấp giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh;
- Thứ ba, trên cơ sở nội dung đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp cơ
bản để phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng luận văn tập trung nghiên cứu là giai cấp công nhân Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu giai cấp công nhân trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp công
nhân; các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân của các học giả trong nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm toàn diện, quan
điểm phát triển kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành
như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… để thực hiện mục đích của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn,
nhằm phát triển giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo còn bao
gồm 3 chương 8 tiết.
Chương 1: Lý luận chung về giai cấp công nhân
Chương 2: Thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản phát triển giai cấp công
nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Về khái niệm giai cấp công nhân, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản, Ph.Ăngghen coi “giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm
sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất
cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ
sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình
chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc
cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những
người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”, là “giai cấp những người hoàn
toàn không có của” [38, tr456].
Như vậy, đặc trưng chủ yếu của giai cấp vô sản, hay giai cấp công nhân thế
kỷ XIX, theo Ph.Ăngghen, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất,
không có của cải, không có tài sản gì khác ngoài tài sản sức lao động của bản thân;
phải bán sức lao động, đi làm thuê trong các lĩnh vực lao động sản xuất vật chất
nặng nhọc để được nhận một khoản giá trị sức lao động gọi là tiền lương nhằm tái
sản xuất sức lao động của mình.
Đến thư Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph.Ăngghen đã
nêu ra một quan điểm mới khi ông hy vọng các sinh viên “hãy cố gắng làm cho
thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ
hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong
một đội ngũ với những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân
tay”, bởi vì, trong “sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những
bác sỹ, kỹ sư, nhà hoá học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm
lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã
hội nữa”[40, tr613]. Điều đó có nghĩa rằng, trong giai cấp công nhân tương lai sẽ có
những công nhân tri thức, sẽ có tầng lớp lao động trí óc.
Điều này cũng phù hợp với quan niệm của C.Mác. Bởi vì, từ nửa sau thế kỷ
XIX, do nhận thấy sự tăng lên không ngừng của đội ngũ những người lao động trí
óc nhằm đáp ứng các nhu cầu của các ngành sản xuất khác nhau của chủ nghĩa tư
bản, C.Mác đã nói đến những khái niệm “người công nhân tổng thể”, “giai cấp vô
sản trí óc”, “giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương
nghiệp”... Quan niệm mới của C.Mác và Ph.Ăngghen về các bộ phận khác nhau họp
thành giai cấp công nhân được xem như cơ sở để chúng ta nghiên cứu về giai cấp
công nhân trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội
nhập ngày càng sâu hơn với quốc tế.
Với V.I.Lênin, trước khi đưa ra quan niệm về giai cấp công nhân, ông đã xây
dựng định nghĩa giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp – xã hội. Từ
đó nhận thức đúng về giai cấp công nhân. V.I.Lênin cũng đã chỉ ra đặc điểm nổi bật
của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công nghiệp, với đặc trưng:
công cụ lao động là máy móc, có năng suất lao động cao, quá trình lao động mang
tính xã hội hoá. V.I.Lênin viết: “… đại công nghiệp cơ khí khác với các hình thức
công nghiệp trước đây, có thể tóm tắt như sau: xã hội hoá lao động … sản xuất ở
trong nước ngày càng được xã hội hoá, và do đấy, làm cho người tham gia sản xuất
cũng càng được xã hội hoá” [30, tr693]. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: công nhân chỉ
bao gồm những ai do điều kiện sinh sống của bản thân mà thực sự có đầy đủ tâm lý
vô sản; song muốn có đầy đủ tâm lý đó thì phải làm việc nhiều năm trong công
xưởng, do những điều kiện chung về sinh hoạt kinh tế và xã hội bắt buộc.
Như vậy, quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đều cho
rằng giai cấp vô sản (giai cấp công nhân) là do nền đại công nghiệp sinh ra, là
những người trực tiếp vận hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tồn tại, phát triển
cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Bên cạnh đó, về mặt lịch sử, giai
cấp công nhân là sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã
hội có “điều kiện tồn tại dựa trên cơ sở chế độ làm thuê”.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân
Là con đẻ của nền đại công nghiệp, được rèn luyện trong môi trường lao
động công nghiệp, nên giai cấp công nhân có những đặc điểm tiến bộ so với các giai
tầng khác trong xã hội, dù ở thế kỷ XIX với nền công nghiệp cơ khí hoá hay nền
công nghiệp tự động hoá, kinh tế tri thức hiện nay. Đó là:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến
Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, có trình độ xã hội hoá
ngày càng cao và sản xuất ra tuyệt đại bộ phận của cải vật chất cho xã hội, nên giai
cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến cao hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền sản xuất công nghiệp phát triển cũng luôn đặt yêu cầu ngày càng cao đối
với công nhân. Đồng thời thu hút mọi giới tinh hoa trong xã hội phục vụ cho guồng
máy công nghiệp, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Trong giai cấp công nhân xuất hiện
những công nhân kỹ thuật, kỹ sư, nhà quản lý, bản thân người công nhân cũng dần
được trí thức hoá. Nền đại công nghiệp hiện đại không chỉ tạo ra giai cấp công
nhân, mà còn tạo ra môi trường để giai cấp công nhân không ngừng rèn luyện, nâng
cao vị trí, vai trò trong nền sản xuất và trong đời sống xã hội. C.Mác và
Ph.Ănghghen từng chỉ rõ: các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự
phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản trái lại là sản phẩm của nền đại
công nghiệp đó.
Từ khi giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị, có Đảng tiên phong lãnh
đạo, được vũ trang bằng lý luận Mác-Lênin thì tính tiên tiến càng được củng cố và
không ngừng được nâng cao. Do giữ vai trò chủ yếu trong nền sản xuất lớn, có lợi
ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động, giai cấp công nhân là giai cấp
duy nhất có thể lãnh đạo nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc
lột, đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền đại công nghiệp là môi trường ươm mầm, nuôi dưỡng những
phẩm chất tiên tiến cho giai cấp công nhân. Trình độ học vấn, tay nghề ngày càng
cao làm cho công nhân tiến tới sự giác ngộ chính trị và ý thức vai trò của mình
trước xã hội ngày càng mạnh mẽ.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để
Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân ở vị thế bị áp
bức, bóc lột. Giai cấp tư sản chiếm giữ quyền lực kinh tế và chính trị, trở thành giai
cấp thống trị. Về kinh tế, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất
cơ bản của xã hội, do đó, chi phối quyền tổ chức, quyền quản lý sản xuất và phân
phối sản phẩm. Về chính trị, giai cấp tư sản nắm quyền lực nhà nước, dùng nó làm
công cụ bảo vệ cho quyền hữu sản của mình. Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản
xuất, nhưng giai cấp công nhân bị gạt ra khỏi quyền lực nhà nước, ở địa vị xã hội bị
lệ thuộc, bị áp bức. Thực tế đó đẩy giai cấp công nhân vào vị thế đối lập với toàn bộ
thế giới tư bản, công nhân không có gì là của mình để bảo vệ cả. Điều đó, quy định
tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản.
Bàn về vấn đề này, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phân tích: trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân không mất
gì, nếu mất chỉ mất xiềng xích và sự áp bức, nếu được, giai cấp công nhân được cả
thế giới. Vì vậy, giai cấp công nhân chỉ có thể được hoàn toàn giải phóng khi xoá
bỏ chủ nghĩa tư bản – chế độ cuối cùng xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân không những giải
phóng cho mình mà giải phóng cho toàn xã hội.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, lao động công nghiệp với kỷ luật
khắc nghiệt, buộc người công nhân phải tuân thủ để, thứ nhất, bảo đảm an toàn
trong quá trình vận hành hệ thống máy móc hiện đại; thứ hai, bảo đảm chất lượng
sản phẩm sản xuất ra theo đúng quy cách và yêu cầu; thứ ba, bảo đảm quá trình sản
xuất diễn ra đồng bộ, có sự liên kết chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ phận, dây
chuyền sản xuất. Kỷ luật lao động là thuộc tính của người công nhân, được nền sản
xuất công nghiệp trang bị cho. Theo Lênin, công nhân trong nền đại công nghiệp có
sự phát triển nhiều hơn hết về ý thức tổ chức kỷ luật và phẩm chất cách mạng.
Như vậy, kỷ luật khắc nghiệt trong lao động công nghiệp đã tôi luyện cho
giai cấp công nhân ý thức tổ chức, kỷ luật cao. Trong thời đại ngày nay, ý thức tổ
chức kỷ luật của giai cấp công nhân tiếp tục được giữ gìn và phát huy đang góp
phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, giai cấp công nhân có sự đoàn kết chặt chẽ
Trong quá trình sản xuất, tính chất xã hội hoá của nền sản xuất công nghiệp
đã làm cho giai cấp công nhân thống nhất về đội ngũ. Những cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân không diễn ra lẻ tẻ, mà là những phong trào chính trị rộng lớn,
lôi cuốn triệu triệu người tham gia. Kết quả của chúng là sự đoàn kết rộng rãi, chặt
chẽ của người lao động hơn là những thành công tức thời mà họ giành được. Bản
thân giai cấp công nhân cũng ý thức được sức mạnh của sự đoàn kết và việc giữ gìn
sự đoàn kết thống nhất đó.
Cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, sự đoàn kết đội ngũ, giai cấp công nhân có
khả năng tự thành lập tổ chức của mình. Khi có tổ chức, sức mạnh của họ được
nâng lên gấp bội, đó là sức mạnh của giai cấp lao động ngày càng có tri thức khoa
học để làm chủ quá trình sản xuất; làm chủ xã hội. Sức mạnh của một giai cấp có kỷ
luật, có tổ chức và đoàn kết đội ngũ rộng lớn, chặt chẽ, mà tổ chức cao nhất là Đảng
Cộng sản.
Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế
Do giai cấp công nhân tất cả các nước đều có địa vị kinh tế - xã hội và lợi ích
giống nhau, nên mục tiêu đấu tranh là thống nhất. Xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, giải
phóng cho giai cấp mình và giải phóng cho toàn thể xã hội khỏi mọi áp bức, bất
công đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Mặt khác, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
giai cấp tư sản các nước liên minh với nhau trên phạm vi thế giới, tăng cường áp
bức bóc lột và chống phá quyết liệt phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, phối hợp đấu tranh trên phạm vi thế giới là tất
yếu trong sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản về thực chất là cuộc đấu tranh quốc tế.
Tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân được thể hiện trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản và được củng cố, phát triển sau khi giai cấp công nhân đã
giành được chính quyền, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Từ những đặc điểm trên cho thấy, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là
chủ thể của nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và mang tính quốc tế hoá.
Vì vậy, giai cấp công nhân vừa là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách
mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong mỗi
nước cũng như trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, giai cấp công nhân gắn liền với phương thức sản xuất công nghiệp
ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hoá cao. Phương thức sản xuất quy định
phương thức tư tưởng. Vì vậy, giai cấp công nhân có được những đặc điểm của một
giai cấp cách mạng như: tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần cách mạng triệt để; tính
đoàn kết quốc tế… những phẩm chất này khách quan xác định giai cấp công nhân là
giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và thông qua đội tiền phong của mình là
Đảng Cộng sản có năng lực lãnh đạo các giai cấp khác trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới.
1.1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp của một giai cấp đại biểu cho
phương thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho tiến bộ xã hội để xác lập một hình thái
kinh tế - xã hội mới thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ cơ bản,
tất yếu mà địa vị kinh tế - xã hội của nó trong chủ nghĩa tư bản đã đòi hỏi, tạo điều
kiện cho nó cần phải và có thể thực hiện nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng
và xác lập xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh này được thể
hiện ở ba nội dung cơ bản:
Thứ nhất, nội dung kinh tế
Giai cấp công nhân dù ở chế độ chính trị nào, cũng là chủ thể của quá trình
sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất công nghiệp mang tính chất xã hội hoá
cao, sản xuất ngày càng nhiều của cải vật chất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng
tăng của con người. Qua đó, họ tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của
xã hội mới.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, từ vị thế của mình, giai cấp công nhân
đang thực hiện nội dung kinh tế này thông qua cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội hoá mạnh mẽ. Ở các nước xã hội chủ
nghĩa, thông qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giai cấp công nhân thực
hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nội dung kinh tế này là yếu tố quan trọng nhất khẳng định sự cần thiết và
quy mô phạm vi toàn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá
trình phát triển văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung này
cũng là điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, nội dung chính trị - xã hội
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa với tư cách
là một chế độ chính trị còn áp bức, bất công, để xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tối thượng là giải phóng con người khỏi mọi
sự áp bức, bóc lột và được tạo điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước pháp quyền
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được xác lập và trở thành công cụ có
hiệu lực để lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế và xã hội trong quá trình cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới, đây là vấn đề cơ bản của tiến trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử này.
Ngoài ra, nội dung này con bao gồm việc giai cấp công nhân giải quyết đúng
đắn các vấn đề chính trị - xã hội đặt ra trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
như liên minh với các giai cấp, tầng lớp, đoàn kết các dân tộc, xây dựng xã hội mới,
con người mới,… thông qua đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát huy tính chủ động, tự giác của nhân dân trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng, nếu không
giải quyết tốt những vấn đề này thì quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử có thể gặp
khó khăn, thậm chí đổ vỡ và phải làm lại từ đâu.
Nội dung to lớn, phong phú của cách mạng chính trị cho thấy đây là một quá
trình lâu dài và phức tạp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ có thể ra đời thông qua
thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị của giai cấp công nhân.
Thứ ba, nội dung văn hoá, tư tưởng
Nhiệm vụ lịch sử trao cho giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng của
mình là xác lập hệ giá trị, tư tưởng của giai cấp công nhân để thay thế cho hệ giá trị,
tư tưởng của giai cấp tư sản và “những hệ tư tưởng cổ truyền” lạc hậu khác. Thực
chất đó là một cuộc cách mạng về văn hoá, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ, xây
dựng cái mới trong sự kế thừa những tinh hoa của thời đại và giá trị truyền thống
của văn hoá dân tộc.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển tự do
và toàn diện trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu hàng đầu
của cuộc cách mạng này.
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về giai cấp công nhân
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ những năm còn bôn ba ở nước
ngoài để tìm đường cứu nước đến khi về nước và cả lúc sắp đi xa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều dành sự quan tâm thường xuyên, sâu sắc đối với giai cấp công nhân Việt
Nam. Quan điểm về giai cấp công nhân Việt Nam được Người nhận thức đúng đắn,
khoa học, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
cuối cùng. Những quan điểm của Người về giai cấp công nhân là cơ sở khoa học
cho những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng ta về xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân trong bối cảnh mới. Có thể nêu ra những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân.
Theo Người, “Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao
động mà sống là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông
nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân. Chủ chốt của
giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, vân
vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng,
những cố nông, vân vân…, cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân
công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân” [46,
tr211].
14
Với quan niệm như vậy, Người đã chỉ ra giai cấp công nhân gồm những ai và
những đặc tính cách mạng của họ. Người viết: “Đặc tính cách mạng của giai cấp
công nhân là: kiên quyết, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến
nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây
dựng một xã hội mới” [46, tr212].
Như vậy, mặc dù chưa đưa ra được một khái niệm hoàn chỉnh về giai cấp
công nhân Việt Nam, nhưng những quan niệm trên của Hồ Chí Minh về cơ bản là
phù hợp với lý luận về giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời
phản ánh thực tiễn giai cấp công nhân nước ta trong thời đại cách mạng vô sản.
Thứ hai, về sứ mệnh lịch của giai cấp công nhân Việt Nam
Nghiên cứu xã hội Việt Nam, Người khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân
là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc
thực dân. Hồ Chí Minh lưu ý, “có người nói: giai cấp công nhân Việt Nam số người
còn ít, không lãnh đạo được cách mạng”. “Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay
là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai
cấp” [46, tr212]. Người khẳng định: “Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất,
kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất” [46, tr213].
Và, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm
thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói chuyện với các đồng chí lãnh
đạo Tổng Công đoàn Việt Nam, Người đặt ra câu hỏi: Ai xây dựng chủ nghĩa xã
hội?, rồi Người tự trả lời: “Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm
công nhân, nông dân, trí thức cách mạng,… nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng chủ
nghĩa xã hội là công nhân” [50, tr565]. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi
tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (18/12/1959), Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với nhà nước dân chủ nhân dân” [48, tr587].
Nhận rõ vai trò của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân theo tinh thần “trí
15
thức hoá công nhân” đặc biệt là công nhân trẻ. Về việc bồi dưỡng lực lượng công
nhân trẻ, Người căn dặn: “Các chú phải nhớ công nhân trẻ tốt lắm. Họ nghe và làm
theo Đảng, Công đoàn và Thanh niên. Nhưng chúng ta phải tôn trọng họ, thông qua
những việc làm cụ thể mà giáo dục, bồi dưỡng cho họ về phẩm chất, đạo đức cách
mạng, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của giai cấp công nhân, bồi dưỡng văn
hoá, khoa học, kỹ thuật và kiến thức quản lý xí nghiệp cho họ, tạo điều kiện cho họ
phát huy vai trò làm chủ xí nghiệp là yếu tố quan trọng để đẩy mạnh cách mạng kỹ
thuật. Làm cho họ vừa “hồng” vừa “chuyên”; đó là nhiệm vụ trước mắt và cả lâu
dài nữa”. [50, tr570]
Với nhận thức xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của quần chúng, trong
đó giai cấp công nhân là lực lượng chủ chốt, Hồ Chí Minh chỉ rõ: giai cấp công
nhân phải tập hợp, tổ chức, hướng dẫn các lực lượng xã hội khác cùng tham gia xây
dựng chế độ xã hội mới. Bởi theo Người: Thực hiện cho được liên minh công nông
vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng và tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân cho đến nay vẫn
giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp
công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Ngày nay, tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định xây dựng
giai cấp công nhân phát triển là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, của mỗi công nhân và của toàn dân tộc.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giai cấp công
nhân thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Thứ nhất, về khái niệm giai cấp công nhân
Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có những thay đổi quan trọng về số
lượng, chất lượng và cơ cấu thành phần. Vì vậy, vấn đề lý luận về giai cấp công
nhân Việt Nam cần tiếp tục làm sáng tỏ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá X “về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá đất nước” ra đời đã góp phần đáp ứng
16
yêu cầu này. Theo Nghị quyết: “giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã
hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [16, tr43].
Trong định nghĩa này, cần chú ý những nội dung sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp những năm nửa cuối thế kỷ XIX từ một nước phong kiến lạc hậu
với nền kinh tế dựa vào sản xuất tiểu nông là chính. Họ là những nông dân Việt
Nam bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công nghiệp bị phá sản. Từ
một số lượng rất nhỏ ban đầu, cùng với quá trình công nghiệp hoá, giai cấp công
nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt
trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế. Trước đổi mới, số lượng công
nhân nước ta là 3,7 triệu, đến năm 2013 đã tăng lên gần 11 triệu, đến nay khoảng 14
triệu. Tuy chỉ chiếm 13,5% dân số và 26,46% lực lượng lao động cả nước, giai
cấp công nhân Việt Nam đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và
có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội. Hằng
năm, giai cấp công nhân và ngành công nghiệp nước ta đóng góp hơn 60% tổng
sản phẩm xã hội và trên 70% ngân sách nhà nước.
Trong thời gian tới, cùng với quá trình đẩy mạnh sự nghiêp công nghiệp
hoá, hoá đại hoá, số lượng công nhân nước ta sẽ còn tiếp tục tăng lên và không
ngừng nâng cao chất lượng.
Giai cấp công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và trí
óc.
Như vậy, bên cạnh bộ phận công nhân phổ thông, lao động chân tay trong
các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất giản đơn, giai cấp công nhân
nước ta còn có bộ phận công nhân trí thức, họ chủ yếu sử dụng trí tuệ và làm việc
trong các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao. Ở họ có sự kết hợp giữa
phẩm chất lao động của người công nhân và người trí thức; vừa có khả năng vận
17
hành hệ thống trang thiết bị hiện đại, vừa nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, chế
tạo… để thực hiện chủ trương phát triển “rút ngắn”, “đi tắt đón đầu” của Đảng. Họ
là bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công nhân, được đào tạo đạt đến trình độ trí
thức, tập trung chủ yếu ở những ngành công nghệ cao. Vì vậy, xây dựng giai cấp
công nhân phải chú trọng các yếu tố khoa học công nghệ, sự sáng tạo, nâng cao chất
lượng sức lao động của người công nhân với tư cách là lực lượng sản xuất quan
trọng nhất của xã hội.
Giai cấp công nhân là những người lao động làm công hưởng lương
Tiền lương là số tiền mà giới chủ phải trả cho người lao động theo giá trị sức
lao động trên cơ sở thoả thuận. Vì vậy, đối với người lao động, tối đa hoá tiền lương
là mục tiêu phấn đấu của họ, giúp họ tái sản xuất sức lao động, duy trì cuộc sống.
Tiêu chí công nhân là những người làm công hưởng lương là để phân biệt công
nhân với giới chủ - những người sử dụng sức lao động của công nhân. Đồng thời,
trong việc xây dựng giai cấp công nhân, thì xây dựng chính sách tiền lương hợp lý
và có cơ chế thực hiện linh hoạt cho từng loại hình sản xuất kinh doanh sẽ là một
trong những giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ này.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng lao động trong các loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất công nghiệp.
Quan điểm này của Đảng đã xác định tiêu chí phương thức lao động của giai
cấp công nhân là lao động công nghiệp. Bao gồm, công nhân trực tiếp vận hành hệ
thống máy móc sản xuất công nghiệp, hoặc gián tiếp làm việc trong các bộ phận
phục vụ sản xuất ở các loại hình doanh nghiệp. Những người làm việc trong các
ngành dịch vụ cho hoạt động sản xuất và đời sống theo phương thức công nghiệp,
với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại. Như vậy, theo quan điểm của
Đảng, giai cấp công nhân bao gồm tất cả những người hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, phân phối, lưu thông hàng hoá và cung ứng nguyên vật liệu.
Thứ hai, về nội dung xây dựng giai cấp công nhân trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Trung ương 6, khoá X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng giai
cấp công nhân như sau:
“Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng
cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí
thức hoá: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng
tiếp cận và làm chủ khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động cao” [16, tr49,50].
Như vậy, theo quan điểm của Đảng, để đẩy mạnh xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay, chúng ta cần thực hiện những nội dung sau:
Thứ nhất, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự
lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện bảo đảm thành công của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây
dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã
hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc – động lực chủ yếu của sự phát triển đất
nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công
nhân trên toàn thế giới.
Thứ ba, chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt
chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội nói chung, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho
công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của họ.
Thư tư, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không
ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Quan tâm xây
dựng thế hệ công nhân trẻ có trình độ tay nghề và bản lĩnh chính trị trở thành bộ
phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
Thứ năm, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi
người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong
đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công đoàn
có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.
1.3. Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí
Minh
Công nhân Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Là lực lượng sản xuất hàng đầu và là cơ sở xã hội – chính trị
nòng cốt của hệ thống chính trị. Bên cạnh một bộ phận công nhân có vai trò làm chủ
tập thể, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện trong các doanh
nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối, đa số công
nhân Thành phố đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Là bộ phận tiêu biểu của giai cấp công nhân Việt Nam nên đội ngũ công
nhân Thành phố Hồ Chí Minh mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản của giai cấp
công nhân Việt Nam. Đồng thời đội ngũ này cũng có những đặc thù riêng của một
thành phố có nền công nghiệp lâu đời.
Thứ nhất, giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh là giai cấp có truyền
thống cách mạng.
Đội ngũ công nhân Sài Gòn – Gia Định, được hình thành trong cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất khoảng từ những năm 1897-1914. So với các đô thị khác
thì ở Sài Gòn – Gia Định, đội ngũ “lao động làm thuê” cho các công xưởng, nhà
máy xuất hiện sớm hơn. Vào năm 1863, ở Sài Gòn đã xuất hiện Nhà máy Ba Son,
trong khi đó vào năm 1888 ở Hải Phòng, công ty than Bắc Kỳ mới được thành lập.