Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận KTCT: Mô hình Kinh tế thị trường Mỹ Nhật Bản; vận dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.89 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Qua hơn 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử phát triển quan trọng của
đất nước ta. Bằng những nỗ lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực
hiện sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế
trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kế thừa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Sự lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta xuất
phát từ nhận thức đúng đắn của Đảng ta: kinh tế thị trường là sản phẩm của văn
minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái xã hội khác nhau;
kinh tế thị trường phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản song không
đồng nhất với chủ nghĩa tư bản và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Dù
không phải là một cơ chế hoàn hảo, song kinh tế thị trường vẫn chứng tỏ là một
cơ chế huy động, phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sáng tạo và phát triển, được coi
là ưu thế nhất hiện nay. Một quốc gia dựa trên nền tảng thị trường để phát triển
kinh tế có thể chưa chắc thành cơng, song một quốc gia khơng có nền kinh tế thị
trường chắc chắn sẽ không thể phát triển trong dài hạn. Tự thân kinh tế thị
trường không đưa đến chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành cơng dứt khốt phải phát triển kinh tế thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu về các mơ hình kinh
tế thị trường, để có thể kế thừa những ưu điểm, vận dụng phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, em tập trung nghiên cứu Tiểu luận
"Những nét tương đồng và điểm khác biệt giữa các mơ hình kinh tế thị
trường Mỹ và Nhật Bản, những ưu điểm cần kế thừa vận dụng vào phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam." làm
Đề tài tiểu luận mơn Mơ hình kinh tế thị trường.


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của nền kinh tế sản xuất hàng


hóa, tức là nền sản xuất, trong đó, người sản xuất và cung ứng không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của bản thân mình, mà chủ yếu là đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ trở nên phổ biến và bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Về mặt lịch sử, kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế trình độ cao của cách
thức tổ chức nền sản xuất xã hội. Trong quá trình phát triển, nhân loại đã trải
qua các mơ hình kinh tế khác nhau như sau:
+ Kinh tế tự nhiên (kinh tế hái lượm): con người lệ thuộc hoàn toàn vào
thiên nhiên với cuộc sống hoang dã.
+ Kinh tế tự cung tự cấp: sản xuất tự thỏa mãn trong các hộ gia đình,
chưa có phân cơng lao động, chun mơn hóa, tự sản, tự tiêu, năng suất, chất
lượng hiệu quả thấp. Cơ cấu kinh tế điển hình là nơng nghiệp, tiểu thủ cơng
nghiệp. Về trình độ, phát triển cao hơn kinh tế tự nhiên nhưng vẫn chưa có quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, hoặc chỉ có ở mức độ sơ khai.
+ Kinh tế hàng hóa: sản phẩm được sản xuất ra khơng phải để đáp ứng
nhu cầu của người sản xuất mà là sản xuất để bán. Tính chất hàng hóa của sản
phẩm được thể hiện rõ nét và ngày càng đầy đủ. Cơ cấu ngành cơ bản của nền
kinh tế là công nghiệp - nơng nghiệp - dịch vụ. Trình độ phát triển của cơng,
nơng nghiệp đã có tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế tự cung, tự cấp. Mặt
khác, sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa đã làm cho các phạm trù liên quan đến
thị trường xuất hiện và ngày càng mở rộng cả quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu.
+ Kinh tế thị trường: là nấc thang phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó sản xuất chủ yếu để trao đổi, gắn liền với phân công lao động và trình
độ chun mơn hóa. Khơng gian thị trường đã được rộng mở cho sự lựa chọn,
tư duy giá trị, hiệu quả trở nên phổ biến. Trong các mơ hình kinh tế, kinh tế thị
trường là mơ hình tiên tiến, văn minh, nền kinh tế có động lực, có sự đua tranh,
sản xuất gắn với nhu cầu. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu các ngành, cơ
cấu khu vực sản xuất, cơ cấu tiêu dùng về cơ bản đã được thay đổi vị trí, ngơi
thứ. Nếu giai đoạn cuối của kinh tế hàng hóa phát triển, cơ cấu ngành cơ bản
phổ biến là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ thì trong mơ hình kinh tế thị

trường, cơ cấu phổ biến là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

2


+ Kinh tế thị trường hiện đại: ngày nay, nền kinh tế thị trường đã phát
triển đến giai đoạn cao, trong đó vừa có các quan hệ thị trường, vừa phải có sự
điều tiết của nhà nước và tổ chức nền sản xuất xã hội ở trình độ cao. Trong nền
kinh tế thị trường hiện đại, vị trí, ngơi thứ của cơ cấu ngành cơ bản cũng thay
đổi. Cơ cấu điển hình của các nền kinh tế thị trường hiện đại là: dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp. Những thay đổi và phát triển ấy đòi hỏi sự thay đổi tương
ứng của hoạt động quản lý nền kinh tế quốc dân.
Từ đây, ta có thể nêu lên khái niệm về kinh tế thị trường một cách khái
quát nhất như sau: kinh tế thị trường là một mơ hình kinh tế vận động, phát
triển dựa trên cơ sở các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hóa tiền tệ trở thành phổ biến và bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
2. Mơ hình kinh tế thị trường
Mơ hình kinh tế thị trường có bản chất thống nhất nhưng áp dụng trên
thực tế có nhiều hình thức khác nhau. Trong nhiều trường hợp có sự khác biệt
lớn, chủ yếu ở mức độ tham gia quản lý, tác động của nhà nước vào nền kinh tế
và mức độ áp dụng các quy luật thị trường vào các phân hệ của hệ thống kinh tế
- xã hội. Do vậy, để nhận thức vấn đề này, cần chú ý đến bốn tiêu chí sau:
Thứ nhất, mức độ đầy đủ và đồng bộ của kinh tế thị trường. Một nền kinh
tế thị trường đầy đủ, đồng bộ được đặc trưng bởi sự hình thành và phát triển
đồng bộ các thị trường bộ phận. Đó là thị trường hàng hóa, thị trường vốn, thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường lao động, thị trường yếu tố tài
nguyên… Các thị trường bộ phận này phải được hình thành và hoạt động theo
quy luật thị trường gắn với hệ thống luật lệ, thể chế, quy phạm tạo nên xương
sống của nền kinh tế. Các quốc gia mới áp dụng kinh tế thị trường, đặc biệt là
các nước chuyển đổi từ mơ hình kế hoạch hóa tập trung đều phải trải qua một
giai đoạn khá dài thiết lập những yếu tố cấu thành của các thị trường. Mức độ

đầy đủ dùng để đánh giá tính hồn thiện, tính đồng bộ của mơ hình kinh tế thị
trường đang xây dựng.
Thứ hai, mức độ phổ quát của kinh tế thị trường. Đây là tiêu chí dùng để
đánh giá phạm vi, mức độ áp dụng các quy luật thị trường trong hệ thống kinh
tế - xã hội. Về nguyên tắc, các quy luật thị trường chỉ phố biến ở phân hệ kinh
tế trong hệ thống kinh tế - xã hội. Còn trong các phân hệ khác như chính trị,
hành chính, văn hóa - xã hội… đều có các quy luật đặc thù riêng tác động. Việc
để cho các quy luật thị trường tác động rộng đến mức trở thành phổ biến ở cả
các phân hệ khác ngoài kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến làm méo mó các quan hệ thị
trường, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế.

3


Thứ ba, mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường theo mơ hình kinh tế hỗn hợp ln có sự quản lý, điều tiết của nhà
nước, do đó tất yếu có sự can thiệp của nhà nước bằng các phương pháp,
phương tiện khác nhau. Về nguyên tắc, do có những khuyết tật của kinh tế thị
trường, nên sự can thiệp nhà nước là cần thiết và xu hướng chung hiện nay trên
thế giới là vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng
tăng. Sự can thiệp của nhà nước thường được phân thành hai nhóm: can thiệp vi
mô (can thiệp vào từng thị trường riêng biệt hoặc đối với từng doanh nghiệp cụ
thể, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước) và can thiệp vĩ mô (thông qua việc
hoạch định các mục tiêu và thi hành các chính sách kinh tế vĩ mơ). Tuy nhiên,
mức độ và hình thức can thiệp của các quốc gia rất khác nhau, tùy thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể, vào chiến lược quản lý và năng lực bộ máy quản lý nhà nước.
Thứ tư, mức độ mở cửa với thị trường thế giới. Đây là tiêu chí để đo
lường, đánh giá mức độ hội nhập với thị trường thế giới của một nền kinh tế.
Mức độ mở cửa thể hiện ở các thông số như tỷ suất thương mại quốc tế, cán cân
lưu chuyển vốn quốc tế và mức độ hợp tác khoa học kỹ thuật…

3. Các mơ hình phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử
Cho đến cuối thế kỷ XX, kinh tế thị trường hầu như chỉ có một phương
án phát triển duy nhất là biến thành kinh tế TBCN. Song thực tế cho thấy kinh
tế thị trường không phát triển theo một mơ hình duy nhất mà được thực hiện
dưới nhiều mơ hình khác nhau (thị trường tự do, thị trường - xã hội, v.v).
Nhằm làm rõ những nét khái quát chung của quá trình phát triển kinh tế
thị trường, có thể trừu tượng hố một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa,
chuyển tiếp và đan xen giữa các mơ hình để quy về ba mơ hình chủ yếu sau:


Mơ hình kinh tế thị trường tự do;



Mơ hình kinh tế thị trường - xã hội;
Mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
(ở Việt Nam) hay kinh tế thị trường XHCN (ở Trung Quốc).


Có thể nói ba mơ hình kinh tế thị trường nói trên đang bao trùm tất cả các
nền kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ như Bắc Triều tiên. Điều này xác
nhận kết luận của Mác: kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển tất yếu; là
hình thức phổ biến của mọi nền kinh tế ở một trình độ xác định.
Trong khuôn khổ CNTB, kinh tế thị trường phát triển trong 2 mơ hình là
kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội.
* Mơ hình kinh tế thị trường tự do
4


Kinh tế thị trường trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mơ

hình thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế TBCN ở Tây Âu
và Bắc Mỹ. Mơ hình này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá
nhân và cạnh tranh tự do. Trong mơ hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp
điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá
trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết
của “bàn tay vơ hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà
nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn
định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành
thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ
thống phúc lợi xã hội nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập cơng
bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng
nhưng không nhiều như ở các mơ hình khác. Trong mơ hình này, trong khi vai
trị động lực phát triển của lợi ích tư nhân, lợi ích cá nhân (lợi nhuận) được đề
cao thì vai trị "bánh lái" của sự điều tiết, định hướng phát triển của nhà nước
(bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ so với các mơ hình khác.
* Mơ hình kinh tế thị trường - xã hội
Mơ hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu,
điển hình là Đức (q hương của mơ hình kinh tế thị trường - xã hội), Thuỵ
Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mơ hình này cịn có mặt
ở một số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ
khác nhau.
Về ngun tắc, mơ hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố
cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với mơ hình kinh tế
thị trường tự do, mơ hình này có hai đặc trưng nổi bật.
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc
lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi
người dân, v.v.) là mục tiêu của chính q trình phát triển kinh tế thị trường;
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục
tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã
hội.

Với những đặc trưng trên, tuy mơ hình kinh tế thị trường - xã hội là một
biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự
phát triển. Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện
cụ thể, tự kinh tế thị trường không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề
phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều

5


đó, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để
định hướng “động cơ” thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt
không chỉ nhiệm vụ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển
xã hội và con người.
Có thể khái qt rằng q trình phát triển kinh tế thị trường, để đạt hiệu
quả, cần hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Cách thức để
đạt mục tiêu đó khơng phải là phủ nhận thị trường, xoá bỏ cơ chế thị trường mà
là đặt nhà nước vào vai trò tham gia điều hành và định hướng sự phát triển của
kinh tế thị trường với tư cách là yếu tố cấu thành của cơ chế kinh tế.
Việc triển khai mơ hình kinh tế thị trường - xã hội trên thực tế đã mang
lại những kết quả phát triển tích cực, khơng chỉ ở một vài nước, tại một vài thời
điểm riêng lẻ mà ở hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên. Điều này
xác nhận tính tất yếu của xu hướng phát triển mơ hình kinh tế thị trường - xã
hội. Tính tất yếu đó cũng được thể hiện ở mơ hình kinh tế thị trường đang được
triển khai ở Trung Quốc và Việt Nam.
* Mơ hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN)
Loại mơ hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai
nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh
tế thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử
nghiệm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mơ hình có sức sống
mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.

Sự ra đời của mơ hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực,
vốn phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước
nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Sự xuất hiện của mơ hình này chứng minh sức
sống mãnh liệt của xu hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách quan của
thời đại; đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường
với tư cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh
tế.
Tuy nhiên, khác với hai mơ hình kinh tế thị trường nói trên, tồn tại trong
khung khổ CNTB, mơ hình này mới được xác lập chưa lâu và vẫn đang trong
quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, chưa có căn cứ
thực tiễn để xác lập một hệ thống lý luận về nó với nội dung hồn chỉnh và
logic chặt chẽ.
4. Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố chủ yếu cơ bản như sau:

6


Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập
dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự
chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho
ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân
dựa trên những tín hiệu thị trường.
Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu.
Trong cấu trúc, sở hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận
sở hữu tư nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở
hữu tư nhân, cịn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và
dạng đồng sở hữu của các chủ thể khác, ví dụ sở hữu CTCP, DN tư bản nhà
nước, v.v.

Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh
tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt
động kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai
trị, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng
Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị
trường, bao gồm các thị trường yếu tố [các thị trường đầu vào như thị trường
đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học
- cơng nghệ] và thị trường hang hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị
trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu.
- Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.
- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường
phải tuân theo một trật tự bước đi xác định. Việc khơng tn thủ trật tự đó (ví dụ
xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài
sản không xác định rõ, thị trường đất đai khơng được thừa nhận chính thức)
thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức
năng và của cả nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập,
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do
các lực lượng thị trường quyết định là chính, thơng qua cạnh tranh tự do, v.v.)

7


trên cơ sở dược sự bảo đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo
luật cơ sở như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền,
luật chống bán phá giá thì nền kinh tế khơng thể hoạt động bình thường.

Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu
quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường
Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và
cầu của từng thị trường đó. Tín hiện giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ
thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong mơi
trường cạnh tranh thị trường.
Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được
quyết định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được
thiết định trên các cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết
(cạnh tranh tự do).
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh
tranh tự do
Khơng có cạnh tranh tự do, khơng thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản
chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó cịn được
gọi là “bàn tay vơ hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi
khi bị trục trặc.
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành,
lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có
lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế
xác nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế
nông dân tự cấp - tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả
nhất.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại
trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói
nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi
thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền

kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách
là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế.
Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
8


- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Bảo vệ môi trường.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù
hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;
- Kiến tạo và bảo đảm mơi trường vĩ mơ ổn định, có tính khuyến khích
kinh doanh;
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải,
cung cấp điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" - dịch vụ thơng tin, bưu chính - viễn
thơng; tài chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hố cơng cộng (chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ mơi trường, v.v.).
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường
bình đẳng.
Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung
của mọi nền kinh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn
nhau. Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều khơng thể có nền kinh tế thị
trường bình thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế thị
trường, tuỳ theo các điều kiện phát triển cụ thể, vai trị, vị trí và chức năng của
từng yếu tố khơng hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mơ
hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.
5. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; tính
hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
5.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mơ hình
hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và thời gian phát triển. Do vậy, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một q trình hồn thiện,
đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã kế thừa, làm rõ và thể hiện bước phát
triển mới trên nhiều luận điểm quan trọng. Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập.

9


Đại hội XII của Đảng xác định: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
5.2. Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây là luận điểm lần đầu tiên
Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhưng rất cần thiết và
phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay, phản ánh tiến trình hội
nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều cấp độ; đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành
một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Nhấn mạnh tính hiện
đại và hội nhập của nền kinh tế là sự khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực
chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trong các lĩnh vực thương

mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động kỹ năng… và quan trọng hơn, là phải
tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế bên trong,
đáp ứng các tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thuộc
tính này của nền kinh tế đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; phát triển nhanh và bền vững;
tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; phát triển kinh tế tri thức,
chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại; thiết
lập các thị trường yếu tố sản xuất, hàng hóa và dịch vụ hiệu quả; phát triển hệ
thống an sinh và phúc lợi xã hội tiên tiến; thúc đẩy và hoàn thiện những chuẩn
mực văn minh trong sản xuất và tiêu dùng…
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Mơ hình Kinh tế thị trường Nhật Bản
1.1. Khái quát
- Nhật Bản có nền kinh tế thị trường phát triển, đã trải qua nhiều giai
đoạn và hiện được coi là mẫu mực cho các nước phát triển muộn.
- Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản (1968) với
những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế, xã hội.
- Về kinh tế - xã hội
10


+ Xoá bỏ là sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối,
thay vào đó là một xã hội hướng vào coi trọng thành tựu, những người có tài và
có năng lực đều có cơ hội thăng tiến bất chấp nguồn gốc xuất thân.
+ Bãi bỏ hệ thống đẳng cấp, quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền
tự do kinh doanh. Thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là giao thông,
đẩy mạnh việc cải cách hệ thống tài chính – tiền tệ đặc biệt là thuế: thuế hiện
vật được thay thế bằng thuế tiền, chế độ tiền tệ Tokagaoa được thay thế bằng
một đồng tiền hợp lý và chuẩn hoá cho cả nước

+ Nhà nước tập trung mạnh cho đầu tư giáo dục, khuyến khích tư nhân
đầu tư phát triển các ngành công nghiêp hiện đại gắn liền với việc thực hiện tư
nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp
thu tư tưởng và kỹ thuật mới nhằm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau thế chiến 2, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng trưởng
thần kỳ. Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn với đặc trưng:
(1) Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tự do
kinh doanh thuận lợi, vừa loại bỏ những yếu tố không hồn thiện của thị trường
(2) Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành cơng nghiệp
khơng có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng hạ tầng,
văn hoá, giáo dục.
(3) Sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được
thực hiện thường xuyên và chặt chẽ
(4) Chính phủ coi trọng cơng cụ kế hoạch hố gián tiếp trong điều tiết,
quản lý nền kinh tế quốc dân.
1.2. Đặc trưng mơ hình kinh tế thị trường Nhật Bản
- Mơ hình phát triển cân bằng giữa tự do kinh tế và sự can thiệp sâu của
Nhà nước vào nền kinh tế mang đặc thù của triết lý phương Đông với cơ chế
nhiều tầng.
- Thực hiện dân chủ hoá kinh tế gắn liền với dân chủ hố chính trị và xã
hội.
Nền kinh tế thị trường có sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước thời kỳ
đầu, Chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp, rộng rãi và khá sâu vào nền kinh
tế, nhưng càng về sau sự can thiệp đó càng giảm dần.
- Coi trọng sự hiệp đồng, phối hợp hài hoà kinh tế và xã hội, đặc biệt là:
quan hệ Nhà nước – doanh nghiệp – người tiêu dùng và quan hệ giữa giới quản

11



lý – người lao động, nhằm tạo nên sự phối hợp chung mang tính cộng đồng từ
thấp đến cao.
- Ngồi việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh,
không ngừng chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mô hình đó, Nhật Bản đã phát triển mạnh các ngành công
nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu. 5 lĩnh vực lớn của cách mạng kỹ thuật ở
Nhật Bản những năm 1960 – 1970:
(1) Lĩnh vực điện tử: Mạch tổ hợp, mạch tổ hợp lớn, mạch tổ hợp siêu lớn
và điện tử phát triển mạnh. Cùng với đó là sự phát triển của kỹ thuật sản xuất
máy móc và kỹ thuật phương tiện thơng tin làm thay đổi bộ mặt tồn xã hội.
(2) Cách mạng trong lĩnh vực vật liệu. Đặc biệt là gốm đã gây được sự
chú ý lớn. Kỹ thuật đã cho phép con người sản xuất được động cơ bằng gốm.
(3) Cách mạng trong lĩnh vực thông tin. Sự tiến bộ của lĩnh vực điện tử
và sự phát triển của thông tin cáp quang gắn liền với nhau làm bùng nổ cách
mạng trong lĩnh vực thông tin.
(4) Cách mạng trong lĩnh vực sinh học.
(5) Lĩnh vực năng lượng mới: sử dụng pin mặt trời, sử dụng các tấm
silicon tạo ra nguồn năng lượng mới đầy triển vọng.
- Từ những năm 1980 lại đây, nhiều nền kinh tế châu Á đã đi theo con
đường của Nhật, phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu, đã trở thành những
đối thủ cạnh tranh mạnh với Nhật Bản trên thị trường thế giới.
- Trong bối cảnh bị cạnh tranh quyết liệt bởi các con rồng châu Á từ đầu
thập niên 1990, nền kinh tế Nhật Bản tỏ ra chậm chạp thậm chí đuối sức. Mơ
hình kinh tế đã tồn tại trong thời kỳ phát triển thần kỳ khơng cịn phù hợp với
thời kỳ tồn cầu hố, khơng tương thích với vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới.
Theo các nhà kinh tế, lẽ ra sau thời kỳ “phát triển thần kỳ: Nhật Bản phải
chuyển đổi thành một nền kinh tế tiêu thụ như Mỹ thì mới phát triển bền vững
hơn.
- Do vẫn duy trì hướng xuất khẩu, nên mặc dù nằm xa trung tâm cuộc

krủng hoảng ở Mỹ, Anh nhưng kinh tế Nhật Bản rơi nhanh nhất và sâu nhất
trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009.
- Trong bối cảnh đó, từ sau khủng hoảng tài chính, chính phủ Nhật Bản
đã chuyển đổi mơ hình kinh tế với việc phát triển thị trường nội địa làm trọng

12


tâm, tìm cách tăng nhu cầu trong nước và bảo vệ đời sống nhân dân theo triết lý
tương thân tương ái.
- Từ tháng 12/2008 – 6/2009, chính phủ Nhật đã chi 3.830 tỷ yên, gần
40,8 tỷ USD để hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng thông
qua các khoản cho vay khẩn cấp và các kế hoạch mua trái phiếu doanh nghiệp.
Các gói kích thích kinh tế của Chính phủ cịn tập trung vào việc tăng chi tiêu
cơng và khuyến khích tiêu dùng cá nhân, đặc biệt là khuyến khích mua ơ tơ tiết
kiệm nhiên liệu và đồ dùng gia đình. Chi tiêu tiêu dùng cá nhân ở Nhật tăng.
- Chính phủ cam kết ưu tiên hỗ trợ người dân, trợ giúp đồ dùng thiết yếu
cho trẻ em, giáo dục, y tế và điều dưỡng trong một xã hội Nhật Bản đang già đi.
Khoảng cách thành thị nơng thơn được thu hẹp.
- Chính sách chuyển “từ bê tông sang con người”, nhiều dự án “bê tông”
cơ sở hạ tầng đang được xem xét lại để “chuyển đổi cấu trúc chính sách tài
chính” “ưu tiên con người”. Đây là lần đầu tiên sau 50 năm, Nhật có sự thay đổi
chính sách từ cơ sở hạ tầng đến hộ dân, trẻ em và an sinh xã hội.
2. Mơ hình kinh tế thị trường ở Mỹ
2.1. Khái quát và đặc trưng mơ hình
- Khái qt: Đến nay, nền kinh tế thị trường ở Mỹ đã trải qua ba mơ hình
Mơ hình kinh tế thị trường cổ điển: giai đoạn trước khi có học thuyết
Keynes.
Mơ hình kinh tế thị trường nhà nước mạnh: giai đoạn cuối những năm
1970 đầu những năm 1980.

Mơ hình kinh tế thị trường tự do mới: từ cuối những 1980 đến nay.
- Lịch sử:
Tiền đề của mô hình: Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1974 với đặc điểm
tăng trưởng thấp, lạm phát cao.
Năm 1979. M. Thatcher ở Anh lên nắm quyền, công khai cam kết áp
dụng chủ nghĩa tự do mới trong hoạt động kinh tế.
Năm 1980, R. Reagan được bầu làm tổng thống Mỹ. Trên tư tưởng tự do
mới, ông tiến hành một cuộc tái cơ cấu kinh tế sâu sắc. Đây là thời điểm bắt đầu
hình thành mơ hình kinh tế tự do mới ở Mỹ.
- Đặc trưng:
Mơ hình dựa trên hai yếu tố cơ bản

13


(1) Để cho nền kinh tế hoạt động tích cực và có hiệu quả, Chính phủ phải
hạ thấp các khoản thuế cho người dân.
(2) Giới hạn tối đa sự can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế.
- Thực chất đây là mơ hình là một hình thái được cập nhật và cực đoan
hơn của lý thuyết “tự do cổ điển” do A.Smith và D. Ricardo phát triển trong thế
kỷ 17-19 với lập luận rằng nền kinh tế TBCN chủ yếu tự điều tiết thông qua
hoạt động của các lực lượng thị trường
- Chủ nghĩa tự do mới ngày nay có quy mơ rộng lớn hơn do sự tiến bộ
của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã làm cho các dân tộc
gần với nhau hơn và do tồn cầu hố cùng với hội nhập quốc tế đang diễn ra
trên một phạm vi rộng hơn với cường độ mạnh mẽ hơn.
Mơ hình tự do mới còn được gọi là “Tư tưởng của chủ nghĩa Reagan” với
nội dung cốt lõi:
- Tái cơ cấu tự do mới tập trung vào giảm thiểu vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế.

- Hạn chế sử dụng chi tiêu của Chính phủ.
- Đánh thuế để điều hồ chu kỳ kinh doanh.
- Nới lỏng hoặc huỷ bỏ điều tiết của Chính phủ đối với hành vi của tư bản
trong các lĩnh vực trong nước và quốc tế.
- Tư hữu hoá các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích cơng.
- Cắt giảm mạnh ngân sách cho các chương trình xã hội.
2.2. Những ưu điểm và nhược điểm của mơ hình
(1) Ưu điểm
- Đề cao vai trị cá nhân, phát huy tính độc lập, sáng tạo của mọi cá nhân.
Muốn vậy phải có một mơi trường xã hội tự do, thơng thống. Sự can
thiệp quá sâu của Nhà nước có thể dẫn đến tình trạng mất tự do và khả năng tự
chủ, sáng tạo của cá nhân. Chính sách kinh tế dựa trên tư tưởng thị trường tự do
với yếu tố chủ đạo là cần hạn chế vai trị của Chính phủ và thay thế bằng các
lực lượng thị trường.
- Mơ hình kinh tế tự do mới giúp tăng cường tính cạnh tranh cao giữa các
doanh nghiệp dẫn đến nền sản xuất hiệu quả hơn, hàng hoá đa dạng và phong
phú hơn.

14


- Giúp nền kinh tế Mỹ nửa sau thập kỷ 90 tăng trưởng vừa phải, tỷ lệ thất
nghiệp thấp, giảm lạm phát, sản lượng và năng suất cao hơn.
Năm 2016, GDP đạt 18.561.930 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng
59.407 USD, trình độ khoa học, cơng nghệ khả năng nghiên cứu và đầu tư vốn
cao.
- Mơ hình kinh tế tự do mới giúp vốn lưu thông dễ dàng hơn. Điều đó
giúp cho các nước đang phát triển thu hút được nhiều vốn đầu tư, từ đó hấp thu,
tiếp cận nhanh hơn với khoa học và công nghệ cao, tạo nhiều việc làm, đồng
thời nâng cao thu nhập, mức sống của người dân.

(2) Nhược điểm
- Mơ hình kinh tế tự do mới làm cho nền kinh tế quốc gia dễ dàng tổn
thương trước việc đồng vốn bỏ đi nơi khác, đồng tiền khơng ổn định và do đó
làm cho cả nền kinh tế cũng trở nên bấp bênh, nếu ko có sự giám sát của Nhà
nước.
- Mơ hình kinh tế tự do mới dẫn đến tài chính mong manh và khủng
hoảng bằng cách tạo nên đầu cơ thay vì một nền kinh tế hướng mạnh vào sản
xuất, làm cho kinh tế đình đốn và bất bình đẳng thêm trầm trọng.
- Chủ nghĩa tự do mới làm tăng vị thế mặc cả của tư bản đối với lao động.
- Việc nhập khẩu mơ hình kinh tế tự do mới vào các nước đang phát triển
làm cho nền kinh tế dễ tổn thương.
- Cải cách tài chính tự do mới ngăn cản các chính sách tiến bộ. Các nước
đang phát triển gặp khó khăn trong việc thi hành những chính sách kinh tế và xã
hội độc lập.
Chẳng hạn: chủ nghĩa tự do mới áp dụng ở các nước châu Mỹ Latinh đã
gây ra những hậu quả tiêu cực rõ rệt như cắt giảm chi phí của Nhà nước cho
phúc lợi xã hội, giảm thu nhập của cơng nhân, tư nhân hố hàng nghìn doanh
nghiệp nhà nước, làm hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ phá sản, tài nguyên
quốc gia lọt vào tay tư bản nước ngoài.
3. Những nét tương đồng và điểm khác biệt giữa kinh tế thị trường
Nhật Bản và Mỹ
3.1. Những nét tương đồng
- Mơ hình nhà nước thể chế phát triển, tuy có những nét riêng biệt, nhưng
sự phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản, Mỹ có những đặc điểm chung cơ bản
giống nhau, đó là:

15


• Thứ nhất, vai trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay thị

trường“ được đề cao trong phát triển kinh tế. Vì vậy Nhà nước tập trung vào
việc thực thi hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh
tế tư nhân phát triển, coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân của kinh tế thị
trường, là trụ cột và động lực của nền kinh tế.
• Thứ hai, xác định và thực thi vai trị của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường. Chính phủ các quốc gia Nhật Bản, Mỹ hạn chế sự tham gia vào hoạt
động kinh doanh. Vì vậy tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước luôn rất nhỏ và
sự tồn tại của khu vực kinh tế Nhà nước không bao giờ dẫn đến lấn át, chèn ép
kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân. Do đó Nhà nước chỉ đầu tư
vào những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính hoặc
kỹ thuật. Vì vậy, Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia, ln đi đầu
trong những lĩnh vực khó khăn phức tạp. Và sau khi đã vượt qua giai đoạn khởi
đầu gian khó, khi doanh nghiệp đã hoạt động tốt, dần dần Chính phủ chuyển
giao lại cho tư nhân thơng qua chương trình tư nhân hóa. Đồng thời Chính phủ
các quốc gia Nhật Bản, Mỹ rất chú trọng việc xây dựng Chính phủ mạnh và
hiệu quả; đội ngũ cơng chức được đào tạo kỹ càng, chuyên nghiệp hóa cao, để
thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt những chính sách thơng minh, sáng
suốt. Do vậy, hoặc kích thích khả năng sáng tạo và chủ động của các công ty tư
nhân; hoặc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tư nhân trong các cuộc xung đột;
hoặc điều hòa tốt lợi ích tư nhân với nhau; hoặc điều hịa được lợi ích tư nhân
với lợi ích Chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi ích tồn cục.
- Cơng nghiệp hóa thành công: Cả Nhật Bản, Mỹ đều thực hiện công
nghiệp hóa thành cơng; là những nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới.
Hoa Kỳ là nước có nền kinh tế quốc gia lớn nhất thế giới hiện nay. Nền
kinh tế Hoa Kỳ đa phần được phân loại là nền kinh tế dịch vụ. Hoa Kỳ là nhà
sản xuất lớn nhất thế giới chiếm 1/5 sản lượng của thế giới. Trong danh sách
500 cơng ty lớn nhất thế giới thì Hoa Kỳ đã có 139 cơng ty được nêu tên, gần
như là gấp đôi so với bất kỳ quốc gia nào khác. Khoảng 60% dự trữ tiền tệ trên
toàn cầu đã được đầu tư vào đồng đô la Mỹ. Thị trường tài chính của Mỹ là thị
trường lớn nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tổng số tiền đầu tư

nước ngoài được thực hiện tại Hoa Kỳ gần 2,4 nghìn tỷ USD và Mỹ đầu tư ở
nước ngồi với số tiền tổng cộng hơn 3,3 nghìn tỷ USD.
Nhật Bản có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới sau Hoa Kỳ và Trung
Quốc. Trong ba thập kỷ từ năm 1960, thế giới được chứng kiến tốc độ tăng
trưởng kinh tế cực nhanh của Nhật, và được mọi người ví như phép lạ kinh tế
Nhật Bản sau chiến tranh. Với tốc độ tăng trưởng bình quân trong những năm
16


1960 là 10%, trong những năm 1970 là 5%, và trong những năm 1980 là 4%,
Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và duy trì vị thế của mình từ năm
1968 đến năm 2010 cho đến khi bị thay thế bởi Trung Quốc.
- Khuyến khích xuất khẩu: Yếu tố then chốt trong phát triển của Nhật Bản
và Mỹ, giúp tìm thu ngoại tệ và mở rộng thị trường.
- Tăng trưởng dựa trên phát triển và cải tiến công nghệ: Việc áp dụng
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất đã làm tăng năng suất cũng như chất
lượng sản phẩm.
3.2. Những điểm khác biệt
Nhật Bản phát triển kinh tế thị trường theo mơ hình phối hợp; phát triển
cân bằng giữa tự do kinh tế và sự can thiệp sâu của Nhà nước vào nền kinh tế
mang đặc thù của triết lý phương Đông với cơ chế nhiều tầng. Coi các mục tiêu
xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và
cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân, v.v.) là mục tiêu
của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường. Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế
thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế
mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Mỹ phát triển theo mơ hình kinh tế thị trường tự do mới: giảm thiểu vai
trò của nhà nước trong nền kinh tế. Nới lỏng hoặc huỷ bỏ điều tiết của Chính
phủ đối với hành vi của tư bản trong các lĩnh vực trong nước và quốc tế. Tư hữu
hoá các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích cơng. Cắt giảm mạnh ngân sách cho

các chương trình xã hội.
4. Kế thừa, vận dụng vào phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kế thừa những ưu điểm của các mơ hình kinh tế thị trường trên thế giới,
Việt Nam đã có những vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn của nước ta,
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Tiếp tục thống
nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục
hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

17


Cụ thể hóa Văn kiện Đại hội XII của Đảng, Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành 03 Nghị quyết quan trọng:
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017
về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó xác định các nhiệm vụ, giải
pháp: 1 - Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. 2 - Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành

phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp Hoàn thiện thể chế về sở hữu. 3 - Hoàn
thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. 4 - Hoàn thiện thể
chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và
công bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến
đổi khí hậu. 5 - Hồn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. 6 - Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực
hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội.
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Trong đó, có các chủ trương,
chính sách, biện pháp mới, có tính đột phá như: Đẩy mạnh chuyển đổi hầu hết
các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ
yếu là doanh nghiệp cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khốn, lấy hiệu
quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Thực hiện công khai, minh bạch, theo
cơ chế thị trường, chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán việc thoái vốn tại
các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước hoặc
không cần tham gia đầu tư để tập trung vốn cho đầu tư phát triển các cơng trình,
dự án quan trọng khác thuộc những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn
quan trọng. Tập trung xử lý dứt điểm các tập đồn, tổng cơng ty, doanh nghiệp,
các dự án, cơng trình đầu tư khơng hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả bằng biện
pháp giải thể, phá sản. Cơ cấu lại, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đáp ứng
các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thật sự hoạt động theo cơ chế
thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp

18


thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm công

khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nghị quyết xác định: Đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về phát
triển kinh tế tư nhân, coi đây là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chăm lo phát triển
kinh tế tư nhân nhanh, lành mạnh và đúng đắn hơn, thực sự trở thành một động
lực quan trọng để giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội; cùng với
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nòng cốt để bảo đảm xây dựng thành công
nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh
tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

19


KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mơ hình
hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và thời gian phát triển. Do vậy, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình kế thừa ưu
điểm của các mơ hình kinh tế thị trường trên thế giới, từng bước hoàn thiện, đổi
mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn.
Đề tài Tiểu luận "Những nét tương đồng và điểm khác biệt giữa các mơ
hình kinh tế thị trường Mỹ và Nhật Bản, những ưu điểm cần kế thừa vận
dụng vào phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam" của môn Mơ hình kinh tế thị trường cũng đã làm rõ cơ sở lý luận về
kinh tế thị trường, mơ hình kinh tế thị trường; các mơ hình phát triển kinh tế thị
trường trong lịch sử; những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường; kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cơ sở thực tiễn về mơ hình
kinh tế Mỹ và Nhật Bản; những nét tương đồng và điểm khác biệt giữa các mơ
hình kinh tế thị trường Mỹ và Nhật Bản; kế thừa, vận dụng vào phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, Đề tài tiểu luận
không tránh khỏi những hạn chế; rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của thầy, cơ
giáo.

NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN

Nguyễn Văn Tuấn

20



×