Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

BÁO cáo tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.6 KB, 36 trang )

BÁO CÁO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ


NHÓM 6:
1, Phạm Hoàng
Anh
2, Nguyễn Thị
Lan Anh
3, Lê Văn
Cương
4, Bùi Thị
Duyên
5, Phạm Thị
Thu Hường
6, Nguyễn
Thanh Lam
7, Thào A Páo
8, Phạm
Phương Thảo
9, Nguyễn Thị
Huyền Trang
10, Ngô Thị
Vân


Mục Lục:
1, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1, Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc


1.2, Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
1.2.1, Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a, Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược đảm bảo thành công của cách
mạng
b, Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng.
1.2.2, Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
a, Đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
b, Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
1.2.3 Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
a, Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
b, Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân
tộc thống nhất

1.3, Ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc

2, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
2.1, Vai trò của đoàn kết quốc tế
a, Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
b, Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng

2.2, Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
a, Các lực lượng cần đoàn kết
b, Hình thức tổ chức

2.3, Nguyên tắc đoàn kết quốc tế

2.4, Ý nghĩa của đoàn kết quốc tế

3, Đánh giá tư tưởng đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết
quốc tế


1, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1, Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc
Đoàn kết dân tộc là tư tưởng tốt đẹp, là truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh-một nhà cách mạng lớn cũng đã có nhiều những nhận
định về đại đoàn kết dân tộc cũng như đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở quan trọng:
Thứ nhất, truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước, đã chiến thắng biết bao kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất. Trải qua
bao thăng trầm của lịch sử, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý
thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc.Tinh thần đó đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người dân Việt và trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
Là một người Việt Nam, xuất thân trong gia đình nho gia, Hồ Chí Minh
đã sớm nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước nhân nghĩa đoàn kết
của dân tộc, Người đã khẳng định: ” Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước”.… Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đoàn kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên và sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, đó chính là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin coi trọng cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin

thì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử. Giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng phải biết đoàn
kết toàn dân tộc, lấy liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn
của cách mạng. Lênin cũng cho rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của
đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó tức giai cấp vô sản thì
cách mạng vô sản cũng không thể thành công được.
Như vậy,chủ nghĩa mác-lênin không những đã chỉ ra được vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ vị trí của khối liên minh công
nông trong cách mạng vô sản. Đây cũng là quan điểm, lý luận hết sức cần thiết


để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học hình thành lên tư tưởng của người về đại
đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, đó chính là tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại
của các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước
ngoài của Hồ Chí Minh.
Về thực tiễn cách mạng Việt Nam, là một người am hiểu sâu sắc lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức
được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại
nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng
“Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử
này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những
bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong
trào yêu nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều
thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp

lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi
khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm
xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
Về thực tiễn cách mạng thế giới, từ 1911 đến 1941, Hồ Chí Minh đã đi
đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã
giúp Người nhận thức một sự thực:“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức
mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân
tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp
công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh
đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười
theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách
mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng
này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự
huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để
giành và giữ chính quyền cách mạng
Trong quá trình tìm ra con đường cứu nước của mình, Hồ Chí Minh đã


luôn nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt
Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước
thuộc địa. Đặc biệt hơn cả là Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài học của
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, nhất là bài học về sự huy động tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ được chính quyền cách
mạng để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, từ đó thì Người đã thấy được tầm
quan trọng của việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng trước hết là công
nông.
Đối với phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa và phụ thuộc Hồ Chí
Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có thể đem lại

cho Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng yêu nước và tiến bộ để
tiến hành cách mạng. Sau này tại bài nói đại hội thống nhất Việt Minh-Liên
Việt:“Với sự đồng tâm nhất trí của ba dân tộc anh em, với sức đại đoàn kết của
ba dân tộc anh em, chúng ta nhất định đánh tan lũ thực dân Pháp và bọn can
thiệp Mỹ.” [27]
Trong cuốn Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc có đề cập đến những
ảnh hưởng của cách mạng các nước đến cách mạng Việt Nam:
+ Ý nghĩa cách mệnh Mỹ với cách mệnh An Nam thế nào?
1. Chính sách Pháp đối với An Nam bây giờ xấu hơn Anh đối với Mỹ trước, vì
Pháp đã vơ vét hết của cải dân ta, đã ngăn cấm dân ta làm việc này việc khác;
nó lại bắt dân ta hút thuốc phiện và uống rượu. Anh chỉ ham tiền Mỹ, Pháp đã
ham tiền lại muốn làm mất nòi, mất giống An Nam đi. Thế mà dân An Nam còn
chưa học Mỹ mà làm cách mệnh!
2. Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu rằng: "Giời sinh ra ai cũng có quyền tự
do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng ... Hễ Chính
phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi,
và gây lên Chính phủ khác ...".
Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai
đụng đến Chính phủ!
3. Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.
Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải
cách mệnh đến nơi .
Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao
cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn
ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.


+ Cách mệnh Pháp đối với cách mệnh An Nam thế nào?
a) Trong 3 lần cách mệnh, 1789, 1848, 1870, đều vì dân can đảm nhiều, nhưng

trí thức ít, cho nên để tư bản nó lợi dụng.
b) Pari Công xã vì tổ chức không khéo và vì không liên lạc với dân cày, đến nỗi
thất bại.
c) Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh
đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà
áp bức dân.
d) Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay
công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi
vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy.
+ Cách mệnh Nga đối với cách mệnh An Nam thế nào?
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công
đến nơi , nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại
ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh
để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới.
Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy
sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin.”[6]
Những kinh nghiệm rút ra từ sự thành công hay là thất bại của cách mạng
các nước trên thế giới là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

1.2, Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
1.2.1, Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a, Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược đảm bảo thành công của cách

mạng
Hồ Chí Minh đã cho rằng các cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta
trước kia bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết
được thành một khối thống nhất. Từ đó thì người đã đưa ra nhận định là muốn
đưa cách mạng thành công thì phải xây dựng được một lực lượng cách mạng đủ


mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công một xã hội mới. Muốn có
lực lượng cách mạng mạng phải thực hiện đoàn kết đại đoàn kết dân tộc quy tụ
mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó thì đại đoàn kết dân
tộc chính là một chiến lược lâu dài của cách mạng là nhân tố đảm bảo cho thắng
lợi của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ chức cách mạng và
tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói
một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai đoạn, giải phóng con người.
Vấn đề chiến lược này đã được Hồ Chí Minh đúc rút, tổng kết thành những
chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thắng lợi”, “Đoàn kết…,là then chốt của thành công”, “Đoàn kết là điểm
mẹ,điểm mẹ này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt…”; “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”,… Từ đây
Người đã khẳng định một trong những nguyên nhân dân đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam là đoàn kết dân tộc. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin
nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” Đây chính là con
đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
Khi đánh giá về khả năng giành thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương, Hồ Chí Minh có kết luận:“Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần
chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị

trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở châu
Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc, theo phương pháp
của những nhà cách mạng trước đây.”[3]
Trong từng thời kỳ từng giai đoạn cách mạng khác nhau thì có thể điều
chỉnh chính sách và phương thức tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối
tượng Cách mạng khác nhau nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người
nhận thức là một vấn đề sống còn của cách mạng.
Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân dân và sức mạnh
toàn dân “Dễ trăm lần không dân cũng chịu khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Theo Hồ Chí Minh thì dân nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi ngành nghề nhiều
tầng lớp giai cấp nhiều dân tộc tôn giáo do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong
mặt trận dân tộc thống nhất. để làm được điều đó người yêu cầu Đảng và Nhà
nước phải có chủ trương chính sách đúng đắn phù hợp với từng giai cấp tầng


lớp trên cơ sở lấy lợi ích chung của tổ quốc và quyền lợi cơ bản của nhân dân
làm mẫu số chung cho sự đoàn kết.
b, Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc chúng ta
không chỉ thấy rõ việc người nhấn mạnh vào vai trò to lớn của nhân dân mà còn
coi đoàn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng lao động Việt Nam vào 3/3/1951, Hồ
Chí Minh đã thay Đảng tuyên bố trước toàn thể nhân dân dân tộc mục đích của
Đảng lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là:” Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ
quốc”. Với tư tưởng trọng tâm lấy dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ
Chí Minh đã coi vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo ra sức mạnh là vấn đề
cơ bản của cách mạng đồng thời thì người cũng cho rằng:” Đại đoàn kết dân
tộc không chỉ là một tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và còn là mục tiêu
nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp

của quần chúng nhân dân và đảng chỉ đóng vai trò là tỉnh tập hợp tinh thần đoàn
kết của mình Chúng ta hết sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân
tộc tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Người đã từng viết trong thư gửi đồng bào cả nước: “Đường lối đấu
tranh của chúng ta hiện nay là: toàn dân từ Nam đến Bắc đoàn
kết rộng rãi và chặt chẽ trong Mặt câtrận Tổ quốc Việt Nam, ra
sức củng cố miền Bắc thành nền tảng vững mạnh cho cuộc đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà” [33]
Đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời là nhiệm vụ
hang đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Cách mạng muốn thành công nếu chỉ có
đường lối không thì vẫn chưa đủ, mà trên cơ sở là đường lối đúng đắn, Đảng
phải có nhiều chính sách, phương pháp phù hợp để lôi kéo, tập hợp quần chúng
tạo nên lức mạng của cách mạng.
Hồ Chí Minh còn khẳng định, đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu của
đảng mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc. Các mạng Việt Nam là sự
nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng và vì quần chúng. Từ phong trào
đấu tranh để giải phóng và tự giải phóng đã hình thành nên nhu cầu đoàn kết.
Đảng phải thực hiện sứ mệnh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết nối nhân dân với
nhau, dẫn dắt nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, tạo nên khối đại đoàn kết
dân tộc tạo nên thắng lợi của đất nước.
1.2.2, Lực lượng đại đoàn kết dân tộc


a, Đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ dân được người sử dụng dùng để chỉ
nhân dân nước Việt Con Rồng Cháu Tiên không phải dùng để phân biệt dân tộc
thiểu số với dân tộc ta số người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng
không phân biệt già trẻ trai gái giàu nghèo. Từ dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vừa được hiểu là con người Việt Nam cụ thể vừa là một tập hợp đông đảo quần
chúng nhân dân với những mối liên hệ cả quá khứ đến hiện tại, dân chính là chủ

thể của khối đại đoàn kết dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh:” Đại đoàn kết: Đại đoàn kết tức là trước
hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của
nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải
đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [32]. Đại đoàn kết dân tộc là
đại đoàn kết toàn dân.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc phải có tấm lòng khoan dung độ
lượng với con người. Người tin rằng: ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước
tiềm ẩn bên trong. Vì vậy, mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn
kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ Quốc, là cuộc sống tự do
và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho mãi mãi mai sau.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết rộng lớn, thì phải xác định rõ đâu là
nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng
đó. Theo Người thì lấy liên minh công- nông- lao động trí óc làm nền tảng cho
khối đại đoàn kết toàn dân. nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào làm suy
yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
“Chúng ta hãy tiến lên! Toàn thể đồng bào tiến lên!
Đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật!
Việt Nam cách mạng thành công muôn năm!” [12]
b, Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc. Đây là
truyền thống được hình thành và củng cố trong suốt quá trình lịch sử dựng nước
và giữ nước, nó là cội nguồn sức mạnh giúp dân tộc ta chiến thắng mọi thiên tai
địch họa.



Có lòng khoan dung độ lượng với con người. Bản thân của mỗi người
luôn có nhưng ưu điểm khuyết điểm khác nha, muốn thực hiện đoàn kết thì cân
phải có lòng bao dung, có sự dung hòa đặt lợi ích của cách mạng, sự nghiệp của
quần chúng lên hàng đầu. Phải biết trân trọng phần thiện, phần ưu điểm dù là
nhỏ nhất ở mỗi con người, chỉ như vậy mới có thể tập hợp được lực lượng
phụng sự cho cách mạng. Hồ chủ tịch đã từng nói: “Năm ngón tay còn có
ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón đều thuộc về bàn tay.
Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta vậy nên phải
khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu
hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc, đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường ta phải dùng tình thân ái mà cảm
hóa họ có như thế mới thành đoàn kết có đại đoàn kết thì tương
lai chắc chắn sẽ vẻ vang.”[9]
Một điều kiện cuối khá quan trọng đó chính là có niềm tin vào nhân dân.
Tiếp nối tư tưởng cơ sở lấy dân làm gốc, “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng
có thể là dân” và quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin coi cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Dân là nền, gốc và chủ thể của mặt trận; là chỗ dựa
vững chắc của Đảng; là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng. Sự tin tưởng đó tạo thành cơ sở của tình cảm đoàn kết dân
tộc ngay cả trong thời bình lẫn thời chiến: “Lao động trí óc phải biết sinh hoạt
của nhân dân, nếu chỉ giở sách đọc thì không đủ. Phải yêu dân, yêu học trò,
gần gũi nhau, gần gũi cha mẹ học trò” [34]
Như vậy muốn thực hiện đoàn kết dân tộc cần phải tin dân, yêu dân, đấu
tranh vì lợi ích của nhân dân.
1.2.3 Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
a, Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để
làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân

tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà
phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng
vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.


Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức
mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại
thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn;
nếu không, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng
chỉ là một số đông không có sức mạnh.
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó,
chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động.
Và sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất
chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp
với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn
giáo. Đó là các già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông
hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật
giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu
tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức
Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo
các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu

nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất
của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
b, Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân
tộc thống nhất
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn,
theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng
khối liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc,
nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Nó là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức


trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức do ĐCS lãnh đạo. “ Sự áp
bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu
rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết. Chính vì vậy mà
phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi
khoá, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng cửa hàng, nhân dân cả nước
đang vùng dậy chống bọn đế quốc.”
Là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam, được xây dựng trên cơ sở lý
luận vững chắc. Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công - nông luôn
được HCM xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt
trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công - nông
- trí thức càng được tăng cường và ngược lại.
Theo HCM, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, chỉ có thể được
củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng
mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát
triển và có hiệu lực trong thực tiễn. “ Tôi sung sướng hơn nữa vì từ nay chẳng
những là toàn dân Việt Nam đại đoàn kết, mà toàn dân hai nước anh em là Cao
Miên và Ai Lao cùng đi đến đại đoàn kết. Tin mừng đại đoàn kết của hai dân

tộc anh em ấy do các vị đại biểu Miên, Lào thân hành mang đến cho chúng ta.”
[27]
Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có
Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện những nhiệm vụ cách
mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát
triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn, như vậy, ĐCSVN vừa là
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Trong sách lược vắn tắt có đề cập:
“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong
kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp
tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú


nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.” [9]
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất yếu, vừa điều kiện
tất yếu. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy
luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp
cách mạnh phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách
mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt trận có
thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với CNXH. Đảng không có lợi ích nào khác

ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Quyền lãnh đạo Mặt trận của
Đảng không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa
nhận.
Khi chưa giành được chính quyền, “ Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận
thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành
được địa vị lãnh đạo”. Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng
của đại đa số nhân dân để lãnh đạo Mặt trận. “ Chính sách Mặt trận là một
chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng
trong toàn bộ công tác cách mạng”.
Thứ hai, mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm
lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân:
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn
dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự
thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích: “Tất cả những tư liệu sản xuất đều là
của chung của nhân dân, của Nhà nước, người ta làm chung hưởng chung.”
[34]
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được HCM xác định cụ
thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực
lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết
Độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là
mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào
trong Mặt trậnTrên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi
cơ bản của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí


này được Đảng và Chủ tịch HCM cụ thể hoá trong từng lĩnh vực chính trị, kinh

tế, văn hoá, xã hội... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ
lịch sử.
Thứ ba, mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả
dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác
nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
phải theo nguyên tắc HIỆP THƯƠNG DÂN CHỦ. Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả
mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng
nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ
hình thức. Tất cả mọi chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách
nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận bàn
bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành
động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch
ra .
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt... Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích
chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân
tộc phải được tôn trọng và ngược lại.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống
nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực
hiện được mục tiêu: “ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” . Đó cũng là
cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào Mặt
trận dân tộc thống nhất
Thứ tư, mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Ngoài những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có

những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những
nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi
đến thống nhất, đoàn kết. “ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết”


“ Về Chính cương, Điều lệ của Mặt trận Liên Việt sẽ do các vị thảo luận
kỹ càng và quyết định sáng suốt trong cuộc Đại hội này. Đây tôi chỉ xin nêu ra
vài điểm để giúp Đại hội nghiên cứu:
1. Mặt trận cần có một kỷ luật tự giác mà mỗi hội viên, đoàn thể và cá
nhân đều tuân theo.
2. Mặt trận phải tiến dần dần đến thật dân chủ, nghĩa là những cơ quan
chỉ đạo sẽ do quần chúng trong Mặt trận cử ra.
3. Sự hoạt động của Mặt trận nên nhằm vào điểm chính để tránh khỏi
việc gì cũng làm, nhưng ít việc làm chu đáo. Điểm chính ấy là đẩy mạnh thi đua
ái quốc.
4. Các đảng phái, đoàn thể và nhân sĩ trong Mặt trận cần phải đoàn kết
chặt chẽ, thân ái giúp đỡ lẫn nhau, thật thà học tập những ưu điểm và phê bình
những khuyết điểm của nhau để cùng nhau tiến bộ.” [27]
Thực hiện tư tưởng HCM, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển
Mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh
hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh
thủ được vào Mặt trận; mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu
hiện của khuynh hướng đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc, đoàn kết mà không
có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.

1.3, Ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc
Khi nói về đại đoàn kết chủ yếu là bàn tới đại đoàn kết dân tộc với một
hàm ý đoàn kết lớn. đoàn kết rộng, đoàn kết sâu sắc, bền vững. Trong phạm vi
quốc tế, thông thường chỉ nói tới đoàn kết ít hoặc không nói đại đoàn kết. Vì

vậy, vấn đề đặt ra ở đây chủ yếu ở phạm vi dân tộc.
Về giá trị lý luận: Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
một chiến lược cách mạng. Từ khi Đảng ta ra đời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, là động
lực chủ yếu làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết góp phần bổ sung quan trọng vào
kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có lý luận về
đoàn kết. Hồ Chí Minh không những “đứng ở đỉnh cao hai cực" dân tộc và giai
cấp mà còn lấp đầy khoảng giữa sinh ra và hoạt động cách mạng trong điều kiện
một nước thuộc địa, ở đó ách áp bức dân tộc bao trùm và chi phối mọi ách áp
bức khác. Hồ Chí Minh nhận thức đầy đủ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà
hạt nhân là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin


tức là Hồ Chí Minh luôn luôn nhận thức và giải quyết mọi vấn đề trên lập
trường của giai cấp công nhân. Nhưng, nhờ hiểu rõ vấn đề thuộc địa nên Hồ Chí
Minh đã bổ sung vào chủ nghĩa Mác - Lênin những vấn đề thuộc địa mà ở thời
mình Mác chưa có điều kiện nắm bắt.
Vì vậy đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết!”, chứa đựng trong đó nội dung đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế. Người không chỉ thấy sự cần thiết giai cấp vô sản tất cả các
nước đoàn kết lại: giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại mà đặc
biệt Người đã xây dựng hệ thống lý luận về Mặt trận dân tộc thống nhất chứa
đựng nhiều quan điểm về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt
trận dân tộc thống nhất bảo đảm tính bền vững, rộng rãi, lâu dài, là ngọn cờ tập
hợp mọi giai tầng xã hội vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
tiếp tục được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo trong bối cảnh mới của
thời đại và dân tộc. Nói cách khác, tư tưởng đoàn kết của Đảng từ khi đất nước

bước vào đổi mới luôn luôn dựa trên nền tảng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Đó là tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm điểm
tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành
phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai. Đại đoàn kết hiện nay là sự nghiệp của cả dân tộc của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều
biện pháp, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Về giá trị thực tiễn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành ngọn
cờ quy tụ tất cả mọi con dân nước Việt từ miền ngược tới miền xuôi, từ nông
thôn tới thành thị, từ rừng núi tới hải đảo vào Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo
nên sức mạnh vô địch đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh tiếp tục truyền sức mạnh
vào sự nghiệp đổi mới. quy tụ giai cấp công nhân giai cấp nông dân, đội ngũ trí
thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ. cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân
tộc, các tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài. Đặc biệt, dưới ánh sáng tư


tưởng Hồ Chí Minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã
đóng được vai trò tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân;
đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội,
tạo động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội xây dựng nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


2, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
2.1, Vai trò của đoàn kết quốc tế
a, Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
Người đã xuất phát từ chính thực tiễn phòng trào giải phóng dân tộc trong
nước: phòng trào yêu nước cuối thế kỉ thứ 19 không thành công là do nhiều
nguyên nhân một trong số đó là do chưa hướng ra bên ngoài, phong trào yêu
nước đầu thế kỷ 20 thất bại là do biết hướng ra bên ngoài nhưng lại mang tư
tưởng cầu viện. Tóm lại phải biết hướng ra bên ngoài nhưng phải hướng đúng.
Thực chất của đoàn kết quốc tế là nhằm tập hợp lực lượng bên ngoài,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp với sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù chung. Vì lợi ích chung đại
đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đại đoàn kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc
tế không phải chỉ vì thắng lợi cách mạng của mỗi nước mà còn vì sự nghiệp
chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và
tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự lực, tự
cường dân tộc, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng,
bất khất cho độc lập, tự do.... Sức mạnh đó đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó
khăn, thử thách trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết
quốc tế là nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng trong giúp cho cách
mạng Việt Nam đi tới thắng lợi: “Khối đại đoàn kết ấy phát triển đến thành đại
đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân nước Pháp và
nhân dân yêu chuộng hoà bình dân chủ toàn thế giới. Lực lượng vô cùng vĩ đại



ấy chẳng những giúp chúng ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, mà
chúng ta lại góp sức vào sự nghiệp bảo vệ hoà bình và dân chủ thế giới” [27]
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó
là đoàn kết đấu tranh trong phòng trào giải phóng dân tộc, phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư
bản chủ nghĩa nói chung, đoàn kết với nước Nga xô viết... và mở rộng ra là các
nước XHCN, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới,
đặc biệt là đoàn kết với nhân dân Lào và Campuchia, hai nước cùng cảnh ngộ
với Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với
đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc
tê.Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên CNXH.
b, Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
Hồ Chí Minh đã nhận định: “nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu
của các dân tộc phương Đông, đó là SỰ BIỆT LẬP. Không giống như các dân
tộc phương Tây, các dân tộc phương Đông không có những quan hệ và tiếp xúc
giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở
các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN
NHAU, SỰ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ VŨ LẪN NHAU”.[5]
Người còn chỉ ra, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đại đoàn kết quốc
tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi cách mạng của mỗi nước
mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc chủ nghĩa đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế vì các mục tiêu
cách mạng của thời đại.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí
Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Nhờ giương cao ngọn cơ cách mạng, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế..


làm cho sức mạng của dân tộc ta được nhân lên gấp bội. Công lao to lớn của
Người là đã đặt phòng trào cách mạng Việt Nam vào hàng ngũ, vào quỹ đạo của
cách mạng thế giới, đưa dân tộc Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin.

2.2, Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
a, Các lực lượng cần đoàn kết.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, đồng thời là
chiến sĩ xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người không
chỉ là biểu tượng sáng ngời của đại đoàn kết dân tộc, mà còn là hiện thân rực rỡ
của tinh thần đoàn kết quốc tế cao đẹp trong thời đại ngày nay.
Trên thế giới, hiếm có một lãnh tụ cách mạng nào lại bàn nhiều, tiến hành
hoạt động nhiều và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp về đoàn kết quốc tế như lãnh
tụ Hồ Chí Minh. Thuở sinh thời, Người đã từng bôn ba khắp năm châu bốn
biển, đến đâu, ở đâu, với tất cả đồng chí và bạn bè gần xa, Người luôn thể hiện
sâu sắc tình đoàn kết quốc tế cao đẹp. Từ sự chứa chan của lòng yêu nước
thương nòi và sự cảm thông vô hạn với những người cùng khổ, Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã sớm nhận thức được muốn giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, thì giai cấp cần lao toàn thế
giới phải đoàn kết đấu tranh, đánh đổ giai cấp bóc lột tàn ác.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,trong Đường cách mệnh ở mục: Ai là
những người cách mệnh? Có viết:
“Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì

lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong
kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho
nên công nông là người chủ cách mệnh.
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,
2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp
khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên
công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn
cách mệnh của công nông thôi”[6]
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
song tập trung vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu


tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới, trước hết là
phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
Thứ nhất, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tiếp nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, đảm bảo cho sự
nghiệp cách mạng của nước nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó là phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh luôn xác định, đoàn kết thống nhất
trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới, đoàn kết gắn bó trong các
nước xã hội chủ nghĩa anh em là cơ sở nền tảng, là nhân tố quan trọng bậc nhất,
nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế
giới. Là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng: sự
đoàn kết giữa hai giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng
lợi của chủ nghĩa cộng sản; Là lực lượng ủng hộ mạnh mẽ cho công cuộc đấu
tranh của các nước thuộc địa.
Với quan điểm chiến lược đúng đắn ấy và trên cơ sở quán triệt sâu sắc khẩu

hiệu lịch sử của C.Mác ''Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại'', Hồ Chí Minh đã
đưa ra một luận điểm nổi tiếng:
“Quan sơn muôn dặm một nhà.
Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu cách mạng vô sản thế giới đòi hỏi giai cấp vô
sản, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, phải gắn
bó thân thiết như anh em một nhà. Sự đoàn kết ấy, chính là sức mạnh, là chiến
thắng. Để xây dựng, củng cố sự nghiệp đoàn kết cao cả ấy, Hồ Chí Minh cho
rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai
lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo
điều, chủ nghĩa xét lại hiện đại...
Thứ hai, là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.Ra đi tìm đường cứu
nước từ một nước nô lệ nên trái tim Người cùng nhịp đập với nổi thống khổ của các
dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình. Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra
âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Người đã kiến nghị với Ban
Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản về những biện pháp nhằm:” Làm cho các dân
tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn


kết lại để đặt cơ sở cho Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này
sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.” Người nói: đứng trước
chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân
các nước thuộc địa là thống nhất. Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao
cho các dân tộc hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau (“làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết
lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khố liên minh này sẽ
là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”) và bằng mọi cách phải làm
cho “đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản
phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”. Đây được xem

là điểm sáng của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, là các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân
chủ, tự do, công lý. Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu
tranh cho hoà bình, độc lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến
việc khơi dậy lương tri của loài người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các
tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên hành tinh đối
với cuộc cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta.Quan điểm ngoại giao này
cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã tìm
thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược. Bởi vậy, mà Người chủ trương
chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ không phải chống người Pháp, người
Mỹ nói chung.
Hồ Chí Minh gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo
vệ hòa bình,tự do, công lý và bình đẳng. Luận điểm sáng tạo của HCM nhằm
khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mễ từ
các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ tri thức và từng con người trên hành tinh.
b, Hình thức tổ chức.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách
mạng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập
các mặt trận. Theo Hồ Chí Minh có viết trong Đường cách mệnh. Cách mệnh
trước hết phải có cái gì ? có viết: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà


không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam.” [6]
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.

Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành 4 tầng mặt trận:
Thứ nhất, mặt trận đại đoàn kết dân tộc. Năm 1924, HCM đã đưa ra
quan điểm về thành lập “mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc
địa”. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố đoàn kết quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai,mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào. Theo Hồ Chí Minh, ba nước
trên bán đảo Đông Dương phải đoàn kết chặt chẽ thì mới tạo được sức mạnh
đánh thắng kẻ thù, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và xây dựng cuộc sống phồn
vinh cho nhân dân mỗi nước. Người chỉ rõ, sự đoàn kết ấy có sức mạnh to lớn,
đó là nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cách mạng mỗi nước cũng như
thắng lợi của cách mạng ở cả Đông Dương. Người khẳng định: ''Sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đoàn kết chặt
chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng''. Theo Người, sự đoàn kết ấy là
ý chí thống nhất của nhân dân ba nước, vì những mục tiêu cao cả của ba dân tộc
anh em.
Trong thư gửi Hội nghị nhân dân Đông Dương, Người khẳng định: ''Ý chí
thống nhất của nhân dân ba nước chúng ta là kiên quyết đấu tranh chống sự xâm
lược của đế quốc Mỹ và ra sức bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc và toàn vẹn
lãnh thổ. Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương HCM dành sự quan tâm
đặc biệt. Cả 3 dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương
đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp.Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, HCM đã chỉ đạo thành
lập mặt trận nhằm phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng
lợi.Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc HCM
đã thành lập mặt trận
Thứ ba, mặt trận nhân dân Á- Phi đoàn kết với Việt Nam. Mở rộng ra các
nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt theo tinh thần:” vừa là đồng chí, vừa là anh em.” Với Trung Quốc;
thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc



lập. Người chỉ rõ: các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hòa bình mới thực hiện.
Vân mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, mặt trân nhân dân thé giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc
xâm lược. Trong khánh chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bằng hoạt
động ngoại giao không mệt mỏi, HCM đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, tranh thủ sự đồng tình của các nước XHCN, bạn bè quốc tế và
nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và đế quốc Mỹ, tạo ra thế dựa cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh có viết trong Những chỉ thị mà tôi nhớ và truyền đạt:
“2.Muốn đạt được mục đích trên phải ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ
rộng rãi.
3.Mặt trận ấy không những chỉ có người Đông Dương mà bao gồm cả những
người Pháp tiến bộ ở Đông Dương, không những chỉ có nhân dân lao động mà
gồm cả giai cấp tư sản dân tộc.
4.Đối với tư sản dân tộc, Đảng phải có thái độ khéo léo, mềm dẻo. Phải hết sức
lôi kéo họ và giữ họ ở trong Mặt trận, thúc đẩy họ hành động nếu có thể, cô lập
họ về chính trị nếu cần. Tránh hết sức để họ ở ngoài Mặt trận, vì như thế là đẩy
họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng thêm lực lượng cho chúng.” [11].
Trong hoàn cảnh lịch sử mới, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam với các
nước có nhiều phát triển mới, song tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với nhân
dân tiến bộ thế giới vẫn là cơ sở lý luận vững chắc, lâu dài cho cách mạng Việt
Nam về kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó cũng là
chính là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chủ trương: ''Đẩy
mạnh công tác văn hoá – thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác,
tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước''.
Những điều luận giải trên đây cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế chính là cơ sở lý luận trọng yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định nhất quán ai đây là đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát

triển; có chính sách đối ngoại rộng mở; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế, nhằm làm cho Việt Nam thực sự là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng
quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế bao gồm nhiều nội dung rộng
lớn, phong phú, cao đẹp, có giá trị bền vững và có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tư
tưởng của Người không chỉ là tài sản tinh thần vô giá của Đảng Cộng sản Việt


Nam, của dân tộc Việt Nam, mà còn là di sản vô giá của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của cả nhân loại trong thời đại ngày nay. Cùng với tinh thần
quốc tế vô sản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng đoàn kết quốc tế cao đẹp Hồ
Chí Minh sẽ mãi mãi soi đường cho giai cấp công nhân, cho cả loài người tiến
tới tương lai tươi sáng, đi tới một chân trời mới, tới bến bờ hạnh phúc tràn đầy.

2.3, Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực
hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra
được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế
giới. Hồ Chí Minh luôn xác định, đoàn kết thống hắng lợi cuối
cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ thuộc về chủ nghĩa xã
hội... Nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh em
đoàn kết chặt chẽ với nhau.
Với tinh thần ấy, Người tiếp tục khẳng định: ''Cuộc đấu
tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh
bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn
thắng trên khắp thế giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy,
sự đoàn kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự
đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả

các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”[12]. Đặc biệt trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đoàn kết gắn bó
trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em là cơ sở nền tảng, là
nhân tố quan trọng bậc nhất, nhân tố có ý nghĩa quyết định
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
a, Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có
lý, có tình.
Đây là vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong công tác tập
hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương
đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung
của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào
lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam
đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.


×