Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC THÀNH TIẾNG CHO HỌC SINH LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.4 KB, 13 trang )

PHỤ LỤC
NỘI DUNG

TRANG

PHẦN 1 MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.

2

II. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

III. Mục đích nghiên cứu

3

IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3

V. Phương pháp nghiên cứu

3

VI. Tính mới của đề tài

3

Phần II. Nội dung



3

I. Cơ sở lý luận

3

II. Cơ sở thực tiễn

4

II.1. Thực trạng

4

II. 2. Nguyên nhân

4

III. Các giải pháp

5

III.1 Biện pháp chung

5

III.2.Biện pháp cụ thể

6


III.2.1 Các biện pháp luyện đọc thành tiếng

6

III.2.2 Luyện đọc hiểu:

10

IV. Thực nghiệm và kết quả đạt được

11

Phần III. Kết luận

12

I. Nội dung và ý nghĩa

12

I.1. Nội dung

12

I.2. Ý nghĩa

12

II. Đề xuất - kiến nghị


12
1


BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC THÀNH TIẾNG CHO HỌC
SINH LỚP 2B
Phần I: Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học
nhằm “Hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về tình cảm, trí tuệ và kỹ năng cơ bản để học tiếp lên trung học và đi sâu vào
cuộc sống lao động”.
Tiếng Việt là môn học công cụ mà trong đó tập đọc đóng vai trò khởi đầu. Đọc
giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của loài người. Nhờ
biết đọc các em mới có điều kiện để học và tiếp thu các môn học khác. Thông qua
môn Tập đọc học sinh mới có công cụ để học tập và giao tiếp; đọc không những giúp
học sinh phát triển tư duy mà còn bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp góp phần phát
triển nhân cách toàn diện - nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đọc
tốt, học sinh mới có thể viết tốt, thực hành tốt các hoạt động của các môn học khác,
góp phần hình thành và phát triển 5 mặt giáo dục. Nói cách khác để đạt được mục
đích giáo dục trong trường tiểu học, yêu cầu quan trọng đầu tiên của học sinh là đọc
tốt.
Thực tế trong dạy học tập đọc hiện nay cho thấy tìm hiểu cách thức để rèn luyện
khả năng đọc là cơ bản và cần thiết. Cụ thể đối với học sinh khối 2, phân môn Tập
đọc cần đạt hai kỹ năng cơ bản đó là :Kỹ năng đọc thành tiếng đúng và kỹ năng đọc
hiểu. Đọc đúng giúp cho học sinh bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, giúp các
em có thể tự học. Nhưng đối với học sinh lớp 2B ở nơi tôi đang dạy để dạy cho các
em đọc một cách trôi chảy, rõ ràng là cả một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp chứ
chưa nói đến đọc diễn cảm. Mặt dù ở lớp 1 các em được tiếp thu với 4 kỹ năng nghe nói - đọc - viết mà chủ yếu là đọc, viết. Song do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và do trong

hè các em chưa chú ý rèn luyện nên dẫn đến hiệu quả khi học môn Tiếng Việt rất
thấp. Học sinh còn đánh vần ê-a, ngắc ngứ trong quá trình đọc. Đây là vấn đề mà tôi
rất băn khoăn, trăn trở. Thầy làm thế nào để trò đọc tốt đây? Xuất phát từ những yêu
cầu, lý do trên, sau khi nghiên cứu và thực hiện tôi thấy có hiệu quả nên tôi xin mạnh
dạn chọn đề tài:“Biện pháp rèn kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh lớp 2B”
II. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của phân môn tập đọc. Không tách rời việc
xác định mục tiêu và nhiệm vụ dạy tiếng việt ở tiểu học. Theo tôi xác định được mục
tiêu của phân môn tập đọc phải là cụ thể đúng hướng, đó là điều kiện quyết định sự
lựa chọn nội dung và phương pháp dạy môn tập đọc.
Phân môn tập đọc giải quyết vấn đề dạy cho trẻ biết chữ để đọc đúng chữ để
học các môn học khác và để sử dụng trong giao tiếp. Tập đọc là môn học có tầm quan
trọng bậc nhất.
2


III. Mục đích nghiên cứu
Hình thành kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh. Kỹ năng đọc thành tiếng có
nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc
sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo
cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần làm giàu vốn kiến thức
ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư
duy có hình ảnh.
IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 2B Trường Tiểu học Đại Ân 1A
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hỏi đáp.
Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
Phương pháp học nhóm.
Phương pháp thi đọc.

Phương pháp luyện tập.
Phương pháp nêu gương.
Phương pháp dò ý.
VI. Tính mới của đề tài
Qua đề tài này sẽ có được nhiều em đọc thành tiếng tốt và bên cạnh đó sẽ giúp
cho chất lượng học môn tập đọc của lớp 2B tiến bộ hơn.
Phần II. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
Môn Tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 2B của trường Tiểu học Đại Ân
1A nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng, trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng
học sinh biết đọc trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc bài văn ngắn. Bước đầu
biết đọc thầm bài văn, bài thơ sau đó đọc thành tiếng các bài văn bài thơ. Hiểu được ý
chính của đoạn, biết dùng mục lục SGK khi đọc, học thuộc lòng một số bài văn vần
trong sách. Qua đó tạo cho các em sự say mê, hứng thú và để lại một vốn văn học
đáng kể hỗ trợ cho trẻ học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và
tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong
cuộc sống. Hình thành lòng ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học,
cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu tiếng việt. Giờ Tập đọc ngoài việc dẫn dắt
học sinh và cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để
phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện tư duy và phong cách
sống. Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương
trình tiếng việt qua các bài văn chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp
vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được
luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn.
3


Học môn tập đọc, việc đọc thành tiếng rất là quan trọng.Đọc thành tiếng
giúp các em hiểu được nội dung bài học bên cạnh đó giúp các em có hứng thú hơn
trong việc học phân môn Tập đọc. Để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ

trong phương pháp giảng dạy.
II. Cơ sở thực tiễn
II.1. Thực trạng
Qua thực tế giảng dạy ở trường nhiều năm, tôi nhận thấy đa số các em ở trường
không thích học phân môn Tập đọc. Vì phần lớn các em là gia đình có hoàn cảnh khó
khăn, cha mẹ làm ăn xa sống với ông bà hoặc cha mẹ không biết chữ cho nên các em
đọc như thế nào thì viết như thế ấy nên phần nào có ảnh hưởng đến quá trình học tập
trong môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập đọc. Trước tình hình đó tôi cũng như các
đồng chí trong tổ rất băn khoăn trăn trở, chúng tôi đã cùng nhau bàn bạc, trao đổi để
tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc học sinh lớp 2B đọc chưa tốt và không thích học tập
đọc. Từ đó tìm ra các biện pháp giúp các em ngày càng đọc thành tiếng tốt hơn, ham
thích học nhất là đối với phân môn Tập đọc.
Sau đợt khảo sát, tôi đã chú ý đến chất lượng của từng em trong mỗi tiết học, tôi
đã ghi lại những học sinh đọc sai ở phương diện nào một cách cụ thể ra giấy rồi tổng
hợp lại; sau đó phân theo nhóm để rèn luyện học sinh được sâu sát hơn.
Sỉ số lớp 2B là 24 và kết quả kiểm tra như sau
- Đọc đúng rõ ràng từng từ, từng câu: 4 em
- Đọc ê - a, đọc lệch chuẩn: 9 em
- Đọc ngắt nghỉ tuỳ tiện:
7 em
- Đọc đánh vần từng tiếng: 4 em
II.2. Nguyên nhân
* Đối với học sinh :
- Phụ huynh học sinh đa số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên chưa quan tâm
đến việc học tập của con em mình.
- Do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, tiếng địa phương nên các em hay đọc sai dấu
thanh rất nhiều.
- Ngoài việc các em đọc sai về phụ âm đầu, âm chính, dấu thanh; các em còn
đọc chưa chính xác về tiết tấu, ngắt nghỉ chưa đúng chấm phẩy và ngữ điệu của câu
như: lên giọng, xuống giọng, chuyển giọng, cường độ, trường độ,…

Vd: Bài “Cây xoài của ông em” có câu học sinh đọc như sau: (Mùa xoài nào/mẹ
em/cũng chọn/những quả chín vàng/và to nhất/bày lên bàn thờ ông.//)
Chính vì học sinh đọc chưa đúng, nên các em không thể hiểu được nội dung
đoạn văn; không đọc diễn cảm bài văn, không rung cảm với các bài văn. Đọc diễn
cảm đối với học sinh lớp 2 mới chỉ là bước đầu song cũng rất cần thiết để khuyến
khích cho các em đọc tốt, dẫn đến cảm thụ tốt làm nền tảng cho các em học các lớp
trên.
4


- Ngoài các nguyên nhân trên còn có nguyên nhân chủ đạo nữa là các em ít học
đọc ở nhà. Nếu có học thì cũng chưa biết cách học đọc, chỉ đọc một cách qua loa
chiếu lệ, chưa có sự chuẩn bị bài chu đáo. Nên đến lớp nhiều em chưa phát huy được
vai trò của mình.
* Đối với giáo viên :
- Còn ít chú ý đến tâm thế đọc của học sinh: Cách ngồi đọc, đứng đọc, cách cầm
sách, cách lấy hơi, sự bình tĩnh tự tin.
- Chưa phát hiện kịp thời số học sinh có thói quen đọc vẹt.
- Chưa chú ý đến việc đọc thầm và chưa thấy hết sự gắn bó chặt chẽ giữa đọc
thành tiếng và đọc thầm.
- Trong giờ tập đọc giáo viên thường sa vào giảng ý của bài nhiều hơn luyện
đọc.
Từ thực trạng trên, dẫn đến học sinh sẽ không hiểu nội dung bài và dần dần các
em học chưa tốt phân môn Tập đọc.
III. Các giải pháp
Sau khi đã xác định được nguyên nhân, tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu
về chuyên môn, tài liệu tham khảo, kết hợp với kinh nghiệm bản thân, tôi đề ra được
một số biện pháp ứng dụng vào thực tế giảng dạy tập đọc cho học sinh lớp tôi như
sau:
III.1. Biện pháp chung:

- Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh hợp lý.
- Xây dựng tốt nề nếp lớp.
- Chuẩn bị cho việc đọc:
+ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc: cần đàng hoàng, bình tĩnh trong qúa
trình đọc; ngồi đúng tư thế; cách cầm sách giáo khoa đúng khoảng cách từ mắt đến
sách là 25cm đến 30 cm .
Tiêu chí cường độ hoá và tư thế khi đọc: Rèn đọc to, đọc dõng dạc, người đọc
cần nhập vai là người tiếp nhận, sản sinh, người trung gian truyền thông tin văn bản
đến người nghe. Chính vì vậy người đọc có thể vừa đọc cho mình vừa đọc cho người
khác. Như vậy đọc và phát biểu trước lớp là hai hình thức giao tiếp đầu tiên của trẻ
nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để bảo đảm sự thành công cho học sinh.
+ Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Vì vậy cần hướng dẫn
các em biết nghe “Bạn đọc không chỉ cho cô nghe mà cho cả lớp nghe, nghe để đọc
tiếp, nghe để nhận xét”. Như thế không có nghĩa là đọc quá to như là gào lên, mà là
đọc đủ lớn.
III.2. Biện pháp cụ thể:
III.2.1 Các biện pháp luyện đọc thành tiếng:
* Đọc mẫu
5


Khi giáo viên đọc mẫu trước lớp học sinh lắng nghe và noi theo. Từ đó dần dần
hình thành kĩ năng đọc thành tiếng cho học sinh. Giọng đọc mẫu của giáo viên có tác
dụng làm mẫu cho học sinh vì vậy người giáo viên đứng lớp phải đọc thành tiếng tốt.
Giáo viên đọc mẫu một cách chuẩn xác, phù hợp với từng văn bản. Biết hướng dẫn
học sinh về cách đọc; sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng đọc đọc thành
tiếng cho học sinh.
Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn được các em
bắt chước cách đọc diễn cảm.

Ví dụ : Bài thơ: ''Cô giáo lớp em ''
Giáo viên đọc mẫu với giọng tình cảm, trìu mến, nhấn giọng ở các từ ngữ gởi tả,
gợi cảm: mỉm cười, tươi, thoảng,…
Ví dụ : Bài : ''Bà cháu''.
- Đọc mẫu giọng to, rõ ràng, thong thả, phân biệt giọng đọc ở các nhân vật, nhấn
giọng ở các từ gợi tả: nảy mầm, vất vả, kết bao nhiêu là trái vàng trái bạc, móm
mém,... ''
+ Người dẫn chuyện: thong thả, chậm rãi.
+ Giọng cô tiên: trầm ấm, dịu dàng: “ Nếu bà sống lại thì ba bà cháu sẽ cực khổ
như xưa, các cháu có chịu không?”. Nhấn giọng ở các từ "Gieo hạt đào, giàu sang,
sung sướng''.
+ Giọng hai anh em: Cảm động, tha thiết, kiên quyết. Nhấn giọng các từ, cụm từ:
''nhớ bà , xin bà sống lại '' .
Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách
đọc sao cho đúng nhịp câu thơ.
Ví dụ : Bài thơ : '' Gọi bạn''
Lang thang / quên đường về/
Chạy khắp nẻo / tìm Bê
Đến bây giờ Dê Trắng/
Vẫn gọi hoài:/ “Bê!//Bê!//
Bài thơ “Gọi bạn” thuộc thể thơ 5 chữ, thể hiện tình bạn cảm động giữa Bê Vàng
và Dê Trắng. Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử
6


chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn. Vì vậy khi học sinh luyện
đọc giáo viên phải tạo được không khí trong lớp học thoải mái để học sinh có tâm
trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em học tập và bắt chước
thầy.
* Luyện đọc đúng:

- Đọc đúng là tái hiện âm thanh bài học cần đọc chính xác, không đọc thừa,
thiếu; sót âm, vần. Đọc đúng phải thể hiện ngữ âm chuẩn để hệ thống ngữ âm tiếng
mẹ đẻ không bị lẫn lộn.
- Đọc đúng còn có nghĩa là đọc đúng ngữ điệu, tiết tấu, ngắt nghỉ hơi đúng, thay
đổi giọng đọc phù hợp với bài đọc.
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh đọc đúng âm vị Tiếng Việt.
* Luyện đọc đúng tiếng, từ, cụm từ:
Phần này gồm đọc mẫu của giáo viên và hướng dẫn học sinh đọc. Vì thế giáo
viên cần đọc mẫu thật chuẩn, thể hiện đúng hệ thống chính âm. Trong quá trình chuẩn
bị bài dạy giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài dạy, chuẩn bị tốt các bước lên lớp, có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa việc làm của giáo viên và học sinh. Đồng thời giáo viên
phải dự tính cụ thể lỗi của bài hôm đó mà học sinh hay mắc để tìm cách khắc phục
cho các em trong giờ học. Đặc biệt với học sinh dân tộc không để hệ thống ngữ âm
tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến phát âm tiếng việt.
Phần luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi luyện đọc cho học sinh sau phần giáo viên
đọc mẫu lần một - học sinh đọc nối tiếp từng câu, sau đó giáo viên rút ra từ khó mà
học sinh dễ sai để luyện đọc.
- Rèn đọc phụ âm đầu:
Vd: “ sung sướng” đọc là “ xung xướng”; “ trí” đọc là “t - rí”.
Khi đọc các lỗi này tôi cho học sinh dừng lại, giáo viên đọc thật chuẩn các tiếng,
từ đó rồi gọi một số em đọc tốt đọc lại, sau đó gọi từng em đọc sai đọc lại từ đó.
Vd: Khi dạy bài “ Bà cháu ” trong bài có câu: “ Khi bà mất, gieo hạt đào này
bên mộ, các cháu sẽ giàu sang, sung sướng”
Học sinh đọc, tôi ghi ngay từ học sinh đọc sai lên bảng.
Vd:
“ giàu sang” học sinh đọc là “ giàu xang”
“ sung sướng ” học sinh đọc là “ xung sướng”
Đầu tiên giáo viên đọc thật chuẩn các từ trên rồi gọi một số em đọc khá đọc lại,
sau đó đến những em đọc sai đọc lại nhiều lần.
GV hướng dẫn cách phát âm “s”; “x” như sau:

+ Âm “sờ”: lưỡi cong lên chạm lợi hơi đi ra phía trên hai bên lưỡi.
+ Âm “xờ”: đầu lưỡi chạm lợi, hơi thoát ra cả miệng lẫn lưỡi.
Vd: Khi dạy bài :“Một trí khôn hơn trăm trí khôn” học sinh đọc “trí”
7


thành “t - rí”; GV hướng dẫn: “tr” gồm hai âm t và r ghép lại.
- Rèn đọc đúng âm chính:
Tôi tiến hành phân tích cho các em về sự khác nhau giữa âm chính mà các em
đọc sai.
Vd: Không đọc “về hiu” mà đọc là “về hưu”; không đọc “biu thiếp” mà đọc là
“bưu thiếp”; giữa “iu”và “ưu” có cấu tạo khác nhau: “iu”  i + u, còn “ưu”  ư + u,
hay đọc “con hươu” đọc là “con hiêu” tôi cũng cho các em đánh vần tiếng “hươu” và
tiếng “hiêu”. Từ đó các em đọc đúng không đọc nhầm nữa.
Đối với học sinh trường tôi như phần thực trạng đã nêu: các em thường đọc sai,
thiếu dấu thanh nhiều. Do vậy trong mỗi giờ học tập đọc tôi đều có yêu cầu riêng là
rèn đọc đúng các dấu thanh chủ yếu là rèn đọc cá nhân. Các em đọc sai thiếu dấu
thanh trong mỗi từ, tiếng dẫn đến các em hiểu sai nghĩa của từ và người nghe cũng
hiểu sai về nội dung.
Vd: Bàn tay diu dáng (sai)
Bàn tay dịu dàng (đúng)
Việc rèn cho học sinh dân tộc đúng dấu thanh là một việc cần sự kiên nhẫn và
thể hiện tình thương yêu đối với các em thì mới có thể thực hiện tốt được. Trong khâu
này tôi gọi một số em đọc đúng, một số em hay đọc sai; mời em khác nhận xét xem ai
là người đọc đúng nhất, sau đó yêu cầu em đọc sai đó đọc lại từ, tiếng đó một cách
chính xác.
Vd: “buôn bá” phải đọc “buồn bã”
Như vậy, để luyện cho các em đọc đúng tiếng, từ, cụm từ thì trước tiên ta phải
luyện âm. Luyện âm một cách chính xác và có hiệu quả.
Việc rèn cho học sinh đọc đúng không chỉ thực hiện ở phân môn tập đọc mà phải

tiến hành rèn đọc lồng vào các môn học khác. Đặc biệt là phân môn chính tả, cần chú
ý vào phần phân biệt âm và dấu thanh. Đối với học sinh lớp tôi, tôi tăng cường Tiếng
Việt nhiều hơn tất cả các môn học khác.
* Luyện đọc câu:
Sau khi luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi chuyển sang luyện đọc câu. Trong quá
trình học sinh đọc, tôi thấy học sinh ngắt, nghỉ hơi một cách tuỳ tiện. Để hướng dẫn
học sinh đọc đúng, tôi thực hiện như sau: Đầu tiên tôi chép câu khó lên bảng, sau đó
tôi đọc cả câu cho học sinh lắng nghe phát hiện xem cô ngắt hơi, nghỉ hơi ở chỗ nào?
Rồi tôi dùng phấn kẻ một nét xiên ( / ) ngắt hơi và 2 nét xiên ( // ) nghỉ hơi, “  ”
lên giọng, “  ” xuống giọng, “…” đọc chậm lại, kéo dài, dấu gạch chân biểu thị sự
nhấn giọng; khoanh tròn vào các tiếng có vần khó cần luyện đọc, tiếp đến tôi cho học
sinh dùng bút chì ghi ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài. Tiếp theo tôi sẽ đọc mẫu lại
và cho 2 học sinh đọc tốt đọc cho cả lớp nghe. Cho học sinh luyện đọc cá nhân.

8


Vd: Khi dạy bài “ Một trí khôn hơn trăm trí khôn” câu: Gà rừng và Chồn là
đôi bạn thân nhưng Chồn vẫn ngầm coi thường bạn. Tôi tiến hành hướng dẫn đọc như
sau:
- Giáo viên đọc cho học sinh phát hiện cô ngắt nghỉ ở chỗ nào? ( Ngắt ở từ
“thân”, nghỉ ở từ “bạn”).
Hỏi: Vì sao cô ngắt ở từ “thân”? (vì đọc đến đó ta thấy nó diễn đạt một ý tương
đối trọn vẹn).
Sau đó tôi dùng phấn gạch một nét xiên ( / ) sau từ “thân” để trong quá trình đọc
học sinh đọc đúng.
Hỏi: Vì sao cô nghỉ hơi ở từ “bạn”- học sinh nêu cách nhận biết: (vì đã có dấu
kết thúc câu). Tôi gạch 2 nét xiên ( // ) sau từ “ bạn”.
Cho vài học sinh khá đọc và luyện đọc cho học sinh. Lưu ý cho học sinh khi đọc
câu văn dài các em cần ngắt hơi ở một số cụm từ dài và cụm từ đó phải diễn đạt một

ý tương đối trọn vẹn.
- Giáo viên cần hướng dẫn thêm cách ngắt nhịp trong câu thơ.
Vd: Khi dạy bài “Cây dừa?”
Tôi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ bằng cách giáo viên đọc, học sinh lắng
nghe sau đó học sinh nói rõ trong câu đó ngắt nhịp mấy cho hợp lý rồi tiến hành
luyện đọc.
Ai mang nước ngọt, / nước lành, /
Hoặc: Tiếng dừa / làm dịu nắng trưa /
Thực tế học hay đọc ngắt nhịp 3/3 ở hai câu trên.
* Luyện đọc tốc độ:
Hướng dẫn học sinh đọc giữ tốc độ không đọc ê-a, không đọc quá nhanh hoặc
qúa nhỏ, giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc. Ngoài ra việc đọc nhẩm
còn có sự kiểm tra của thầy và bạn. Để điều chỉnh tốc độ bằng cách trước khi dạy,
giáo viên đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi dự kiến bao nhiêu phút.
* Đọc diễn cảm:
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc một tác phẩm có tính chất văn
chương. Đó là thể hiện kỹ năng làm chủ ngữ điệu để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm mà
tác giả gửi gắm trong bài. Đọc diễn cảm trên cơ sở đọc đúng tốc độ. Đọc diễn cảm ở
lớp 2 cũng chưa phải là yêu cầu nhất thiết với tất cả học sinh mà riêng đối với một số
học sinh có trình độ khá, giáo viên nên khuyến khích, giúp học sinh bước đầu có ý
thức đọc diễn cảm.
Thực tế trong quá trình luyện đọc tôi thấy học sinh đọc đúng, to, lưu loát nhưng
để đọc diễn cảm thì chưa được, học sinh chưa biết làm chủ được ngữ điệu, đọc chưa
đúng tốc độ và chưa biết nhấn giọng ở một số từ : “chìa khóa”. Theo tôi, đối với học
sinh lớp 2 đọc diễn cảm với yêu cầu cụ thể là:
-Thể hiện giọng điệu của từng nhân vật.
9


- Thể hiện tình cảm của người viết. Đọc diễn cảm là biết làm chủ ngữ điệu, đọc

đúng tốc độ và nhấn giọng ở một từ “ chìa khóa ”.
Để học sinh đọc diễn cảm tôi thường thực hiện như sau:
Ví dụ: Dạy bài “Mùa xuân đến”
+ Đầu tiên tôi viết đoạn văn cần luyện đọc lên bảng.
“Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng ngày càng
rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi nảy lộc.”
+ Hỏi học sinh: Câu văn nào cho thấy sự thay đổi khi mùa xuân về?
(Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi nảy
lộc.)
Hỏi: Từ nào cho biết điều đó? (Ngày thêm xanh, ngày càng rực rỡ, đâm chồi nảy
lộc).
Hỏi: Để đọc hay, diễn cảm trong đoạn văn này ta cần nhấn giọng ở những từ ngữ
nào? (ngày thêm xanh, ngày càng rực rỡ, đâm chồi nảy lộc). Vậy khi nào ta cần nhấn
giọng các từ trên?
Giáo viên đọc mẫu một lần, luyện đọc cá nhân cho học sinh. Giáo viên chú ý sửa
chữa kịp thời cho học sinh.
III.2.2 Luyện đọc hiểu:
Trong thực tế giảng dạy tôi cũng như nhiều giáo viên chưa chú ý đúng mức
luyện đọc thầm cho học sinh. Đọc thầm thực sự có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng.
Dạy đọc thầm chính là dạy cho học sinh đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả của việc
đọc thầm là giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, cả bài
nghĩa là toàn bộ những gì các em được đọc.
Vd: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em”, các em đọc bài, các em hiểu được
thực tế có rất nhiều loài xoài ngon như: Xoài thanh ca, xoài tượng nhưng xoài cát là
xoài em thích nhất vì nó có mùi thơm dịu dàng, vị ngọt đậm đà, màu sắc đẹp, quả lại
to. Thông qua đọc các em hiểu được “tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất
bày lên bàn thờ ông” các em sẽ nói lên được cảm xúc của bản thân khi đọc đoạn văn,
câu văn đó chính là để tưởng nhớ ông, biết ơn ông đã trồng cây xoài cho con cháu có
quả.
Từ đây trong khi dạy Tập đọc tôi đã hướng cho các em tìm hiểu nội

dung của bài theo các cách:
* Phân tích cho học sinh từ tổng hợp đến chi tiết:
Vd: Sau khi giáo viên đọc mẫu, cho học sinh đọc xong bài “ Ngôi trường mới”
tôi dùng hệ thống câu hỏi, hỏi các em:
Hỏi: Bài này nói về cái gì? (tả về ngôi trường mới)
Hỏi: Bài văn nhằm mục đích gì? (giáo dục tình cảm yêu mến, tự hào của các em
học sinh đối với ngôi trường mới, với cô giáo, với bạn bè)
10


Hỏi: Em hãy tìm đoạn văn ứng với nội dung sau (bằng cách cho các nhóm thảo
luận rồi tìm được)
+ Tả ngôi trường từ xa: (đoạn 1: từ đầu cho đến cánh hoa lấp ló trong cây).
+ Tả lớp học: (đoạn 2: từ em bước vào lớp đến thơm tho trong nắng mùa thu).
+ Tả cảm xúc của bạn học sinh dưới mái trường mới: (đoạn 3: Tiếng trống rung
động kéo dài, tiếng cô giáo trang nghiêm mà ấm áp đến chiếc bút chì sao cũng đáng
yêu đến thế !)
* Chia câu hỏi thành các ý nhỏ để các em trả lời, tìm ý sau đó giáo viên tổng
hợp lại:
Vd: Khi dạy bài “Đàn gà mới nở” có câu hỏi:
? Tìm những hình ảnh đẹp và đáng yêu của đàn gà con? Thấy học sinh khó trả
lời tôi chia ra các ý nhỏ:
- Màu lông thế nào?
- Đôi mắt ra sao?
- Dáng chạy như thế nào?
Kể lại những thay đổi bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến? (câu hỏi 2 trong bài
“Mùa xuân đến” ) tôi cũng chia ra thành các ý nhỏ như sau:
- Bầu trời thay đổi như thế nào?
- Mọi vật thay đổi như thế nào?
Như vậy học sinh vừa dễ trả lời vừa nhớ bài được lâu, sau đó tôi tóm tắt các ý

nhỏ trên thành một ý lớn trọn vẹn.
IV. Thực nghiệm và kết quả đạt được
Tôi đã thực hiện các biện pháp luyện đọc nêu trên trong quá trình thực hiện bản
thân tôi tự nhận xét và rút kinh nghiệm về cách tiến hành cho đến nay tôi thấy học
sinh có phần tiến bộ hơn, sự tiến bộ của các em như sau:

Thời điểm.
Mức độ đúng

Đầu năm học

Cuối học kỳ một

Đọc đúng, rõ ràng

4/24 em -

16,67%

16 em -

Đọc ê - a, đọc lệch chuẩn

9/24 em -

37.5%

3 em -

11


66.67 %
12.5%


Đọc ngắt nghỉ hơi tùy tiện
Đọc đánh vần từng tiếng

7/24 em 4/24 em -

29.16%

3 em -

12.5 %

16,67%

2 em -

8.33%

Phần III. Kết luận
I. Nội dung và ý nghĩa
I.1. Nội dung
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp đặc biệt, trong đó ngôn ngữ được thể hiện ở
dạng nói và viết. Để mỗi tiết học mang lại hiệu quả cao người giáo viên phải đầu tư
thời gian một cách hợp lý nhằm lựa chọn các nội dung và phương pháp dạy học cho
phù hợp, đồng thời người giáo viên phải thực sự năng động, sáng tạo, luôn trăn trở
tìm tòi suy nghĩ, hình thức tổ chức dạy học sao cho mọi học sinh đều có niềm say mê

hứng thú trong học tập. trong quá trình dạy học phải nắm vững tâm lý học sinh, học
sinh khối 2 các em thích được động viên, khuyến khích, khen, để thực hiện mỗi tiết
dạy giáo viên cần hiểu thật rừ, nắm vững nội dung, yêu cầu cuả từng tiết (toàn bài
phải đọc giọng như thế nào? tốc độ cường độ, chỗ nào phải nhấn giọng, hạ giọng,
…..) Nắm chắc đặc trưng của phân môn tập đọc khối 2 trong giờ học tôi phân bố thời
gian theo trình tự giáo án chú trọng các yếu tố, đọc mẫu của giáo viên, nếu giáo viên
đọc mẫu tốt cũng là dạy cho học sinh được rất nhiều, đọc câu, đoạn nhằm minh họa,
hướng dẫn gợi ý giúp học sinh tự tìm cách đọc. Trong chương trình tiếng việt phân
môn tập đọc có nhiệm vụ rõ ràng đó là rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe, nói, viết.
Đọc là quá trình tiếp nhận thông tin do đó các kỹ năng đọc, nghe, nói, viết có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự tạo thành các kỹ năng này giúp học sinh đạt kết
quả cao trong giao tiếp. Qua quá trình tìm hiểu công việc tập đọc của học sinh và
công tác giảng dạy của giáo viên đối với phân môn tập đọc trong trường tiểu học Đại
Ân 1A đồng thời thông qua chất lượng kiểm tra cuối học kỳ ,tôi thấy lớp 2B có nhiều
tiến bộ song kết quả chưa hẳn là cao.Với sự tìm tòi sáng tạo trong chuyên môn, tôi
cảm thấy thầy và trò còn phải cố gắng nhiều .
I.2. Ý nghĩa
Nếu các em đọc thành tiếng tốt thì sẽ hiểu được nội dung bài ở các môn học
nói riêng và môn tập đọc nói chung từ đó giúp các em học tốt hơn và hứng thú hơn
trong học tập.
II. Đề xuất - kiến nghị
Để rèn kĩ năng đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa ra
một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau:
Để thực hiện tốt và có hiệu quả trong vệc giảng dạy trước yêu cầu đổi mới
của đất nước người giáo viên trong khi nói, đọc và viết phải thực hiện sự chuẩn mực,
đảm bảo tính chính xác, tính nêu gương cho học sinh. Muốn vậy đòi hỏi người giáo
viên trong từng tiết dạy phải linh hoạt, mềm dẻo, vận dụng các biện pháp, hình thức
sao cho tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên.
12



Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, nhất là môn tập đọc.
Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên.
Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho
giáo viên, cho học sinh trong khối, trong trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm về phương pháp dạy Tập đọc cho học sinh
lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy môn Tập đọc của tôi đó được đúc rút qua
nghiên cứu và thực tế giảng dạy. Trong quá trình viết chuyên đề này hẳn không tránh
khỏi những sai sót. Tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp và
các đồng nghiệp để ý kiến tôi đưa ra được hoàn thiện hơn nữa.
Người viết sáng kiến
Nhận xét, đánh giá của nhà trường
Nguyễn Thị Kim Thoa

Nhận xét, đánh giá của Hội đồng Xét duyệt
sáng kiến cải tiến kỹ thuật ngành giáo dục

13



×