Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH THỂ THAO GIẢI TRÍ CHO CỘNG ĐỒNG GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.11 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU HÀ

PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH THỂ THAO GIẢI TRÍ
CHO CỘNG ĐỒNG GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

1


HÀ NỘI – 2017

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU HÀ

PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH THỂ THAO GIẢI TRÍ
CHO CỘNG ĐỒNG GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO HIỀN CHI

3


HÀ NỘI – 2017

4


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các
công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về đề tài của mình./.
Người cam đoan

TRẦN THỊ THU HÀ

5


LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn các thầy, cô trong khoa Tâm lý, chuyên ngành Giáo dục
và phát triển cộng đồng, các thầy cô giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài em luôn nhận được sự
động viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, Ngày

tháng

năm 2017

Tác giả khóa luận

TRẦN THỊ THU HÀ

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU
DÙNG TRONG LUẬN VĂN
CLB
GDTC
GDTC – GDQP
GV
TTGT
TDTT

7

Câu lạc bộ
Giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất – giáo dục quốc phòng
Giảng viên
Thế thao giải trí

Thể dục thể thao


MỤC LỤC

8


DANH MỤC CÁC BẢNG

9


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thể dục thể thao (TDTT) là một mặt cấu thành của xã hội, nhằm tác
động có chủ đích và hợp lý đến quá trình phát triển của con người, là một bộ
phận không thể thiếu được trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Tập luyện thể
thao giúp con người ngày càng tăng cường sức khoẻ, phát triển cân đối về thể
lực, trí lực, đạo đức, thẩm mỹ, tăng năng suất lao động và nâng cao chất
lượng sống. Rèn luyện TDTT là một biện pháp quan trọng đem lại sức khỏe
và thể chất cường tráng cho thế hệ trẻ hiện nay.
Một xã hội công bằng chỉ được xây dựng trên nền tảng của những tư
tưởng tiến bộ. Một chế độ tốt đẹp chỉ có thể ở con người phát triển toàn diện.
Trong lời kêu gọi tập thể dục của Hồ Chủ tịch, Người viết: “Giữ gìn dân chủ,
xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới
thành công”. Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một
phần, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe.
Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân
yêu nước. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì

khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ... Bác còn dạy: “Muốn lao động sản
xuất tốt, học tập công tác tốt, thì cần có sức khỏe. Muốn giữ gìn sức khỏe phải
thường xuyên tập thể dục thể thao” và bản thân người đã nêu gương: “Tự tôi
ngày nào cũng tập”.
Làm theo lời kêu gọi của Bác, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo nước ta
đi lên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng chỉ đạo yếu tố
con người luôn chiếm vị trí hàng đầu, con người ngoài việc phải có trình độ
chuyên môn, năng lực làm việc còn cần có sức khỏe mới đáp ứng được yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Một trong những mục đích cơ bản, lâu dài nhất
của công tác TDTT là hình thành nền thể thao phát triển và tiến bộ, góp phần
nâng cao sức khỏe, thể lực đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân.

10


Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội nước ta phát triển
mạnh mẽ theo xu thế hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới cũng như
trong khu vực. Cùng với sự phát triển về kinh tế, hoạt động TDTT cũng được
đầu tư phát triển và gặt hái được thành tựu mang tầm thế giới: Huy chương
vàng Olympic thế giới với môn thể thao bắn súng.. .đã nâng tầm vị thế thể
thao Việt Nam trên đấu trường Quốc tế. Để thực hiện được điều đó văn kiện
Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh hoạt động TDTT, nâng cao thể trạng
và tầm vóc người Việt Nam. Phát triển TDTT quần chúng và mạng lưới
TDTT rộng khắp”.
Ở nước ta hiện nay, phong trào thể thao và văn hóa luôn đươc chú trọng
việc tập luyện thể thao giải trí ngày càng được quan tâm đặc biệt là đối với
đội ngũ những người hoạt động trí óc như giáo viên, giảng viên, công viên
chức làm việc trong môi trường sư phạm. Nhưng phần lớn họ chỉ tập luyện
theo phong trào, theo hứng thú và sở thích riêng họ không đưa việc tập luyện
vào như một thói quen. Điều này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau: do tính

chất công việc của cơ quan, công việc gia đình, các mối quan hệ xã hội… nên
việc tập luyện nhiều khi bị gián đoạn.
Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường là một trường mới được
thành lâp năm 2010. Ban Giám hiệu nhà trường cùng với công đoàn trường
rất quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của anh chị em.
Công đoàn trường thường xuyên tổ chức những buổi giao lưu văn nghệ, thể
thao nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước để nâng cao tình đoàn
kết trong cán bộ công nhân viên chức nhà trường và tăng cường sức khỏe
cho cán bộ công nhân viên. Nhưng việc tham gia vào các hoạt động thể
thao ở trường chỉ mang tính giao lưu chứ không thể mang lại sức khỏe cho
cán bộ công nhân viên.

11


Thể thao giải trí là loại hình thể thao được yêu thích của nhiều tầng
lớp nhân dân, việc tổ chức tập luyện môn này không đòi hỏi điều kiện tập
luyện phức tạp, phù hợp với sở thích và sức khỏe của từng người lại đem lại
hiệu quả cao về sức khỏe và nâng cao năng lực làm việc cho mọi người.
Song việc lựa chọn môn thể thao phù hợp với điều kiện sức khỏe và nâng
cao khả năng làm việc của mình thì không phải ai cũng làm được. Vì vậy
việc nghiên cứu phát triển các mô hình, câu lạc bộ thể thao giải trí đối với
cộng đồng Giảng viên của nhà trường để nâng cao sức khỏe và khả năng làm
việc là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Phát triển các mô hình thể thao giải trí cho cộng đồng Giảng viên
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn loại hình thể thao
giải trí của giảng viên của Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà

Nội, từ đó đề xuất một số biện pháp phát triển các mô hình thể thao giải trí
cho giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội, góp phần
nâng cao sức khỏe, cải thiện thể chất nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả
làm việc cho cộng đồng giảng viên của Trường Đại học Tài Nguyên và Môi
Trường Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu: Cộng đồng giảng viên trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội.
3.2 Đối tượng nghiên cứu: Các mô hình thể thao giải trí cho cộng
đồng giảng viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

12


4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay việc tập luyện và tham gia các hoạt động thể thao giải trí của
giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội là chưa nhiều,
chất lượng tham gia còn thấp các loại hình TTGT của trường chưa phong phú.
Thực trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau cả về nguyên nhân chủ quan
lẫn khách quan ( các yếu tố chủ quan như: nhu cầu của GV với TTGT, vấn đề
về hứng thú tham gia và điều kiện về sức khỏe.... các yếu tố khách quan như:
phát triển cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ cho TTGT…). Nếu nghiên cứu và
đề xuất các biện pháp phát triển các mô hình thể thao giải trí phù hợp, khả thi
thì sẽ thu hút được nhiều GV tham gia, sẽ nâng cao hiệu quả làm việc trí óc
của giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1: Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển các mô hình thể thao giải trí
cho cộng đồng giảng viên các trường Đại học.
5. 2: Khảo sát thực trạng phát triển các mô hình thể thao giải trí cho
cộng đồng giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội.

5.3:Đề xuất một số biện pháp phát triển các mô hình thể thao giải trí
cho giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1 Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Nội dung của luận văn chỉ
nghiên cứu các mô hình TTGT hoạt động tại trường Đại học Tài Nguyên và
Môi Trường Hà Nội.( Câu lạc bộ TTGT )
6.2

Giới hạn về khách thể nghiên cứu : Các khoa, bộ môn, các phòng ban và

cộng đồng giảng viên tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà nội.
6.3
Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu tại
trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

13


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp này cho phép thu thập các thông tin có liên quan đến đề
tài, là phương pháp sử dụng rộng rãi hầu hết trong các công trình nghiên cứu
về lý luận cũng như về sư phạm. Nó giúp cho người nghiên cứu tổng hợp các
tri thức cần thiết có liên quan đến đề tài của những tác giả trong và ngoài
nước. Từ những phương pháp ấy, người nghiên cứu hình thành những luận
cứ, xây dựng giả định khoa học, xác định các nhiệm vụ nghiên cứu và kiểm
chứng kết quả quá trình thực hiện các đề tài, đồng thời hệ thống hoá các kiến
thức có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận về cách
thức kiểm tra đánh giá một cách toàn diện, đề xướng các giả thuyết khoa học,
xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng phương pháp

nghiên cứu này để xây dựng khái niệm công cụ, xây dựng cơ sở lí luận cho
luận văn.
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (phương pháp ăng két) là một
phương pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng một lúc với nhiều người
theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách
đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước nào đó.
7.3.Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này được đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm
mục đích tìm hiểu thực trạng việc tập luyện thể thao của giảng viên Trường
Đại học Tài guyên và Môi trường Hà Nội, quan điểm của họ về việc luyện tập
thể thao giải trí, môn thể thao ưa thích của họ...
Đối tượng mà đề tài phỏng vấn là cán bộ chuyên trách công tác TDTT
của trường, các cán bộ công nhân viên của trường, tập thể giảng viên.

14


- Hình thức phỏng vấn trực tiếp: Đề tài trao đổi trực tiếp với các giảng
viên, cán bộ công nhân viên của trường, cán bộ quản lý thể thao để biết được
tình hình sức khỏe, điều kiện công việc và suy nghĩ của họ về việc tập luyện
thể thao.
- Hình thức phỏng vấn gián tiếp: Phương pháp phỏng vấn gián tiếp
bằng phiếu hỏi nhằm thu thập số liệu về môn thể thao ưa thích của cán bộ
công nhân viên chức.
7.4. Phương pháp quan sát
Trong đề tài này sử dụng chủ yếu phương pháp quan sát dạng test sư
phạm, quan sát hình thức nội dung, phương pháp tổ chức các hoạt động vận
động, quan sát trạng thái sức khỏe... của đối tượng nghiên cứu. Qua đó đề tài
điều chỉnh được lượng vận động để nâng cao hiệu quả làm việc của đối tượng.

7.5 . Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Đề tài sử dụng phương pháp toán thống kê nhằm mục đích xử lý số liệu
đảm bảo khách quan và tính chính xác khi đánh giá các chỉ số trong quá trình
nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần
Phụ lục, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về phát triển các mô hình thể thao giải trí cho
cộng đồng giảng viên Đại học.
Chương 2. Thực trạng phát triển các mô hình thể thao giải trí cho cộng
đồng giảng viên Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội.
Chương 3. Đề xuất biện pháp phát triển mô hình thể thao giải trí cho
cộng đồng giảng viên Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

15


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH THỂ THAO
GIẢI TRÍ CHO CỘNG ĐỒNG GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC
1.1.Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
1.1.1.Ở nước ngoài
Thể thao giải trí là một dạng thể thao nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí vui
chơi của bản thân, tập thể hoặc cộng đồng. Hơn nữa, thể thao giải trí không đòi
hỏi sự đầu tư quá lớn về trang thiết bị, hoặc yêu cầu trình độ chuyên môn tới
mức phải chuyên nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo tính cạnh tranh đặc trưng của thi
đấu thể thao và quan trọng là rèn luyện sức khỏe, tăng thể lực.
Xuất phát từ đặc thù này, thể thao giải trí nhanh chóng có bước phát
triển mạnh mẽ và trên thực tế, không chỉ dừng ở mức "giải trí" đơn thuần
mang tính tự phát, loại hình thể thao này đã trở thành bộ phận quan trọng

trong đời sống thể thao hiện đại tồn tại song song với các môn thể thao
chuyên nghiệp. Giờ đây, cái khái niệm "non-olympic sports" (Các môn thể
thao không thuộc hệ thống thi đấu Olympic - PV) đã trở nên quen thuộc với
người hâm mộ trên toàn cầu cùng hệ thống Ủy ban, Liên đoàn, hiệp hội... và
các giải đấu cấp quốc tế như: World Games; X-Games... Cũng với sự phát
triển này, nhiều môn thể thao trước đây chỉ được xem là mang nặng tính giải
trí đã xuất hiện trong các đại hội thể thao quốc tế chính thức như: khiêu vũ thể
thao; thể thao điện tử (E-sports); bowling; thể thao biển, leo núi...
1.1.2 Ở trong nước
Trở lại với thể thao Việt Nam, nhằm phục vụ nhu cầu vui chơi và nâng
cao sức khỏe, thể thao giải trí tự thân nó đã hình thành và phát triển, đặc biệt
là tại các đô thị lớn, nơi có mặt bằng kinh tế - xã hội cao hơn. Dù còn manh
nha dưới dạng tiềm năng và gắn nhiều với hoạt động kinh doanh hơn là thuộc
phạm trù thể thao, nhưng nhiều môn như: đua chó (tại Vũng Tàu); đua ngựa
(tại TP. Hồ Chí Minh) cùng hệ thống các câu lạc bộ thể dục thể thao (khiêu vũ
16


thể thao, billiards, thể thao điện tử, thể hình, thể thao dưới nước, golf, quần
vợt...) đã hình thành, phát triển khá rầm rộ.
Trong những năm gần đây, thể thao giải trí đã thực sự được quan tâm,
chú trọng đầu tư cũng như nâng cao công tác quản lý từ các cơ quan chức
năng nhà nước. Năm 2009, Hội thể thao điện tử giải trí Việt Nam chính thức
được thành lập và hiện trong cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thể dục thể thao
cũng đã có bộ phận Thể thao giải trí (thuộc Vụ Thể dục thể thao quần chúng).
Bên cạnh việc xây dựng các quy định, quy chế về chính sách, môi trường, thủ
tục hành chính, an ninh, y tế, bảo hiểm, các điều kiện ưu đãi… tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho thể thao giải trí phát triển, đáng chú ý hơn là từ phong trào,
nhiều đội tuyển thể thao giải trí cấp quốc gia đã được hình thành, tham dự các
giải đấu quốc tế và giành thành tích đáng khích lệ. Điển hình là tại SEA

Games 26 diễn ra tại Indonesia năm 2011, trong thành phần của đoàn Thể
thao Việt Nam có nhiều đội tuyển thể thao dưới dạng giải trí như: dù lượn, leo
tường, patin, bowling... tham dự bằng kinh phí xã hội hóa và giành được 1
tấm huy chương bạc được xem “quý như Vàng” của tuyển thủ Phan Thanh
Nhiên ở nội dung leo tường tốc độ nam. Hay những thành tích đáng ghi nhận
ở các kỳ đại hội thể thao trong nhà, đại hội thể thao bãi biển châu Á, các giải
đấu quốc tế... với những môn thể thao giải trí khác.
Tuy nhiên, nghiên cứu về TDTT giải trí thì đang còn quá hiếm hoi, có
chăng là những bài viết có tính chất tổng quan, phản ánh ý tưởng. Vấn đề này,
chúng ta không thể không kể đến Dương Nghiệp Chí, Lương Kim Chung và
Lê Tấn Đạt như là những người đi tiên phong trong thể thao giải trí ở nước ta
[5]. Lương Kim Chung cũng có bài viết, trong đó xem TDTT giải trí là có
chức năng kinh tế - kinh tế dịch vụ, tạo ra giá trị sản phẩm phi vật chất để
thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ của con người [9].

17


Trương Hồng Đàm [12] lại quan tâm tới lý luận TDTT giải trí, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh đến giải trí và thể thao giải trí.
Còn Chu Hồng Bình, Tô Gia Phúc [2] lại nêu vấn đề có tính thực tiễn
hơn bằng cách tiến hành giải trí hóa giờ học điền kinh để tạo nên sự hứng thú
cần thiết trong việc dạy học ở môn này nhằm khắc phục sự thờ ơ của đông
đảo sinh viên chuyên sâu điền kinh.
Diệp Gia Bảo và Tô Liên Dũng [1] trong “khái luận TDTT” đã quan
tâm nhấn mạnh chức năng giải trí của TDTT, một trong năm chức năng chủ
yếu của TDTT: chức năng kiện thân, chức năng giải trí, chức năng giáo dục,
chức năng chính trị và chức năng kinh tế. Về chức năng giải trí của TDTT, hai
tác giả đã chỉ ra 4 biểu hiện chủ yếu. Trước hết là TDTT làm tăng cường sức
sống, có sự khoái cảm về năng lượng phát ra; hai là điều tiết cảm xúc làm con

người nhận được cảm giác tự do, giải phóng; ba là, TDTT làm con người thể
hiện được năng lực của mình, cảm nhận được sự khoái lạc về việc tự thực
hiện năng lực của mình và bốn là, TDTT giúp con người hưởng thụ những
cái đẹp, đưa đến niềm vui về mặt tinh thần.
Nghiên cứu về GDTC và thể thao cho đến nay ở nước ta thật không
thiếu. Có thể kể ra một số nghiên cứu như: Vũ Thị Ngọc Thư [35] về “ảnh
hưởng của tập luyện thể dục thẩm mỹ tới sức khỏe của phụ nữ lứa tuổi1835”; Nguyễn Văn Hùng [18] về “động cơ và hiệu quả tham gia tập luyện
TDTT quần chúng của phụ nữ từ 21-55 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh”; Vũ
Đức Văn [41] về “một số biện pháp nâng cao thể lực cho học sinh trung học
cơ sở thành phố Hải Phòng”; Vũ Đức Thu và cộng sự [34] về “định hướng
và giải pháp đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên TDTT trường
học”.... Nhà nghiên cứu Lê Hoài Nam(2009),“Nghiên cứu vai trò của thể
thao giải trí đối với người lao động trí óc trong thời kỳ Công nghiệp hoá và
Hiện đại hoá đất nước”, đề tài thạc sĩ [23].
18


Tóm lại, trong sự phát triển của mình, thể thao giải trí không chỉ đóng
góp cho sự phát triển chung của Thể thao Việt Nam mà còn giúp nâng cao sức
khỏe cho quần chúng nhân dân, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, thị trường
kinh tế thể thao... góp phần quảng bá về đất nước, con người Việt Nam thông
qua các hoạt động du lịch - thể thao - giải trí. Đây cũng chính là bước đi mang
tính tất yếu nữa của thể thao nước nhà trong bối cảnh phát triển chung của
toàn ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Ngày nay, các trường Đại học, cao đẳng trên cả nước cũng đang rất chú
trọng phát triển các mô hình thể thao giải trí cho giảng viên trong trường, chủ
yếu là các mô hình như trung tâm thể thao giải trí hay câu lạc bộ TDTT. Hiểu
được tầm quan trọng của các hoạt động thể thao giải trí, một số mô hình CLB
TDTT của trường được thành lập và hoạt động, tuy nhiên vẫn còn rất hạn chế
về nhiều mặt. Chính vì vậy mà đề tài tiến hành nghiên cứu về các biện pháp

để có thể phát triển các mô hình đó, thúc đẩy GV tham gia các mô hình
TTGT, nâng cao hiệu quả trong công việc.
1.2.Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Thể thao giải trí
1.2.1.1. Khái niệm về thể thao
Xét về mặt lịch sử, khái niệm thể thao ra đời muộn hơn khái niệm giáo dục
thể chất - thể dục. Trong thời kỳ cổ sơ, thể dục được coi là một biện pháp rất hiệu
quả để rèn luyện thân thể, phát triển toàn diện con người nói chung và cho quân
đội nói riêng. Nhưng qua thực tế, người ta thấy cần phải kiểm tra, đánh giá kết quả
của việc rèn luyện thể lực, các phẩm chất đạo đức, ý chí lòng dũng cảm...Vì thế,
các hình thức "đọ sức", "đua tài", "thi đấu" ra đời - đó là thể thao.
Thể thao là một bộ phận của văn hoá thể chất, là một hoạt động chuyên
biệt hướng tới sự thành đạt trong một dạng, loại bài tập thể chất nào đó ở mức
độ cao, được thể hiện trong qúa trình thi đấu và hoạt động vui chơi, giải trí.
19


Thể thao là một hoạt động phục vụ cho lợi ích xã hội, thực hiện chức
năng giáo dục, huấn luyện và giao tiếp.
Chỉ số cơ bản của những thành tựu về thể thao là mức độ sức khoẻ,
mức độ phát triển toàn diện các năng lực thể chất, mức độ nghệ thuật thể thao
và mức độ thâm nhập của những biện pháp giáo dục thể chất vào đòi sống
hàng ngày của con người.
Thể thao là bộ phận cấu thành của văn hoá thể chất, một mặt quan
trọng của quá trình sư phạm, đồng thời là một bộ phận của giáo dục thể chất ở
giai đoạn huấn luyện cơ sở.
Huấn luyện thể thao là một khuynh hướng đặc biệt của văn hoá thể chất
nhằm đạt thành tích cao trong môn thể thao tự chọn. Tiêu chuẩn đánh giátrình độ huấn luyện thể thao của con người là thành tích thể thao tiêu chuẩn
định hướng trong giáo dục thể chất: phát hiện năng khiếu, tìm ra các nhân tố
để bồi dưỡng nhân tài thể thao.

1.2.1.2. Khái niệm thể thao giải trí
Luật thể dục, thể thao được công bố vào năm 2006 đã coi thể thao giải
trí (cũng là TDTT giải trí) như là một bộ phận cấu thành của TDTT quần
chúng (chương II) và đã xác định ở điều 18 là:
Nhà nước tạo điều kiện phát triển các môn thể thao giải trí nhằm đáp
ứng nhu cầu giải trí của xã hội.
Cơ quan quản lý nhà nước về thể dục, thể thao có trách nhiệm hướng
dẫn hoạt động thể thao giải trí.
Đồng thời ở điều 11 của Luật cũng đã xác định: “Nhà nước có chính
sách đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân phát triển thể dục, thể thao quần
chúng, tạo cơ hội cho mọi người không phân biệt lứa tuổi, giới tính, sức khỏe,
tình trạng khuyết tật được thực hiện quyền hoạt động thể dục, thể thao để
nâng cao sức khỏe, vui chơi, giải trí” [27].
20


Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn [38] khi phân tích
về cấu trúc TDTT nước ta cũng đã cho rằng TDTT giải trí và hồi phục sức
khỏe như là một nội dung cấu thành của TDTT nước nhà.
Nói về vai trò của TDTT giải trí, nhà nghiên cứu Dương Nghiệp Chí và
cộng sự coi TDTT giải trí “là ngành hàng kinh tế dịch vụ đáp ứng nhu cầu
nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần của xã hội [5].
Nói về vị trí của TDTT giải trí, chúng ta không thể không trích dẫn bài
viết của HanDan nói về cấu trúc của TDTT hiện đại trên thế giới. Theo
HanDan, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc gần đây
đã phân chia thể dục, thể thao thành 3 lĩnh vực: GDTC, thể thao thành tích
cao, TDTT giải trí [10]. Trong đó, GDTC là một bộ phận không thể tách rời
trong giáo dục trường học; thể thao thành tích cao là nói về hoạt động huấn
luyện và thi đấu nâng cao thành tích, phục vụ nhu cầu thưởng thức của xã hội,
thuộc phạm trù hoạt động văn hóa; TDTT giải trí là ngành kinh tế dịch vụ đáp

ứng nhu cầu nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần cho mọi người.
Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc, ngoại
trừ GDTC ở nhà trường, đào tạo - huấn luyện VĐV, thì mọi hoạt động TDTT
của đại bộ phận tầng lớp nhân dân trong xã hội đều mang tính giải trí.
Vậy, TDTT giải trí là gì?
Không ít tác giả cho rằng TDTT không chỉ để phát triển thể chất, nâng
cao sức khỏe thể chất mà còn để phát triển sức khỏe tinh thần, thỏa mãn đời
sống tinh thần của con người. Tuy nhiên, quan niệm về thể thao giải trí thì còn
rất hạn chế, dù rằng ở nước ta, trường Đại học TDTT Hà Nội đang dự kiến
thành lập khoa TDTT giải trí và trường Đại học TDTT Bắc Ninh cũng đã đưa
vào chương trình các môn học TDTT giải trí vào giảng dạy cho sinh viên.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Xuân Mỹ và Phạm Minh Thảo [29] thì : thể
thao thường là một bộ phận giải trí của con người ở thế kỷ XX. Đối với một
21


số người, đó là một cách phát triển cá nhân hay thư giãn, đối với một số người
khác lại là một phương tiện thành đạt. Và phong trào tham gia trực tiếp hoạt
động thể thao cũng phát triển với tình hình gia tăng thì giờ rảnh rỗi. Theo hai
tác giả này, người ta đến với thể thao rất đa dạng tùy theo sự say mê ham
thích của từng người.
Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Lâm (2000)[22], thì công hội triển
khai hoạt động văn thể dễ nghe, dễ nhìn, có tính quần chúng, làm cho công
chức trong hoạt động có tinh thần phấn khởi, điều tiết sinh hoạt, thân tâm
mạnh khỏe, tinh thần thăng hoa, thể lực được nghỉ ngơi.
Theo nhà nghiên cứu Dương Nghiệp Chí và cộng sự [5], TDTT giải trí
là loại hình hoạt động TDTT có ý thức, có lợi cho sức khỏe thể chất và sức
khỏe tinh thần của con người, được tiến hành trong thời gian tự do, ngoài giờ
làm việc. TDTT giải trí còn là hoạt động TDTT tự giác, vừa sức, trong vùng
năng lượng ưa khí (đủ ôxy, không bị nợ ôxy). TDTT giải trí không chỉ bao

hàm các phương tiện hoạt động thể lực mà còn bao hàm các phương tiện hoạt
động trí tuệ, thư giãn, thưởng thức thi đấu biểu diễn, cổ vũ thi đấu biểu diễn,
trong đó có sử dụng các phương tiện công nghệ cao.
Trong một quan niệm khác, dưới góc độ kinh tế, Dương Nghiệp Chí và
cộng sự lại cho rằng: TDTT giải trí là ngành hàng kinh tế dịch vụ đáp ứng nhu
cầu nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần của xã hội.
Trong bài viết của nhà nghiên cứu Lương Kim Chung [9] có giới thiệu
nhận định của nhà xã hội học J.R Jelly về TDTT giải trí như sau: “người tham
gia thể thao giải trí có thể tự do lựa chọn môn thể thao mình thích và cảm thấy
thoải mái khi chơi môn thể thao đó”. Và ông cũng giới thiệu quan niệm về
những môn thể thao giải trí của hiệp hội chấn hưng thể thao giải trí Nhật Bản
cho rằng: “thể thao giải trí là những môn thể thao mang tính giải trí cao. Ví
dụ: golf, đua xe, lướt sóng...Lúc chơi nó mang lại sự vui vẻ, thoải mái, sự cởi
22


mở cho tâm hồn, tiêu tan đi mệt mỏi. Theo ông “bất luận môn thể thao nào
rèn luyện sức khỏe thường nhật hàng ngày và lý tưởng nhất đều có ý nghĩa về
mặt giải trí”.
Riêng nhà nghiên cứu HanDan dẫn sự phân loại các lĩnh vực TDTT thì
cho rằng TDTT giải trí là ở lĩnh vực nằm ngoài TDTT học đường (GDTC) và
thể thao nâng cao thành tích.
Tuy có những quan niệm khác nhau về TDTT giải trí nhưng nói đến TDTT
giải trí là nói đến việc vận dụng đa dạng tự nguyện các phương tiện TDTT trong
thời gian nhàn rỗi để vừa nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh thần.
Trong đề tài này, khái niệm TDTT giải trí được hiểu là một lĩnh vực
nằm ngoài lĩnh vực GDTC và nâng cao thành tích thể thao, trong đó con
người tự do lựa chọn phương tiện TDTT (môn tập) mà mình ưa thích để hoạt
động trong thời gian nhàn rỗi để củng cố và nâng cao sức khỏe về thể chất và
tinh thần.

1.2.1.3.Đặc điểm của TDTT giải trí
Nói đến TDTT giải trí, chúng ta không thể không đề cập đến những đặc
điểm của nó. Theo Dương Nghiệp Chí và cộng sự, những đặc điểm đó là:
Đa số các phương tiện TDTT giải trí tương đối đơn giản, dễ sử dụng,
rất thuận tiện cho người tập. Nội dung và hình thức bài tập TDTT giải trí đơn
giản, cấu trúc buổi tập và kỹ thuật của bài tập thể lực không quá chặt chẽ.
Các phương pháp GDTC ứng dụng trong TDTT giải trí linh hoạt và
không cần định mức chặt chẽ lượng vận động, phương pháp thi đấu linh hoạt,
chủ yếu theo sự thỏa thuận của những người chơi.
Các nguyên tắc về phương pháp GDTC cũng được áp dụng đơn giản và
linh hoạt. Có lẽ nguyên tắc chủ yếu của TDTT giải trí là sự tham gia hoàn
toàn tự nguyện, người tập luyện TDTTgiải trí cần hoạt động đều đặn.

23


Dạy học động tác trong TDTT giải trí cũng rất đơn giản, quá trình dạy
học không phức tạp. Người tập có thể bắt chước động tác, tự tập và hoàn thiện
dần động tác.
Giáo dục các tố chất thể lực chỉ là một phần mục đích cuả thể thao giải
trí. TDTT giải trí không chỉ nhằm mục đích nâng cao sức khỏe thể chất mà
còn nhằm mục đích giải trí và nâng cao sức khỏe tinh thần.
Đa số các môn TDTT giải trí không yêu cầu cao về sân bãi, dụng cụ (trừ
một số ít môn thể thao mạo hiểm, golf, bowling). Chính vì vậy, TDTT giải trí dễ
đến với con người và xã hội, rất thuận tiện cho việc xã hội hóa [5].
1.2.2. Mô hình thể thao giải trí
1.2.2.1.Khái niệm mô hình
Mô hình là sơ đồ giúp ta thể hiện một sự vật, hiện tượng, quá trình… nào
đó, phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu, sản xuất và các sinh hoạt tinh
thần của con người.

Đặc điểm chung của tất cả các loại mô hình là không nhất thiết giống
100% cái nó cần thể hiện, miễn là nó thỏa mãn được yêu cầu cơ bản nhất của
người sáng tạo nó đặt ra, đôi khi mang tính lãng mạn chủ quan. Với mô hình ô tô
đồ chơi bằng đất xét hay bằng nhựa của trẻ con đâu có cần nó phải to như thật,
có nội ngoại thất như thật, thậm chí cũng chẳng cần nó phải tự chạy được, miễn
là mang hình hài cơ bản nhất của chiếc ô tô! Các phát hiện khoa học về hiện
tượng quá trình nào đó trong tự nhiên cũng như trong xã hội viết dưới dạng công
thức đôi khi cũng không nhất thiết “vế trái” trùng khớp với “vế phải”. Đó là vì
công thức lập ra bởi kinh nghiệm hay thực nghiệm trong đó những tham số
không có vai trò cơ bản vô tình hay cố ý bị bỏ qua, miễn là người nghiên cứu
định lượng được mối quan hệ của các tham số cơ bản nhất đặc trưng cho quá
trình hiện tượng được nghiên cứu. Trong thể thao cũng vậy, nó thể hiện ở các
dạng mô hình khác nhau: mô hình câu lạc bộ, mô hình trung tâm thể thao....
24


1.2.2.2. Mô hình thể thao giải trí
Là một hệ thống mô hình các môn thể thao nằm trong khuôn khổ của một tổ
chức nào đó nhằm phục vụ lợi ích cho các hoạt động học tập, nghiên cứu và sinh
hoạt của con người với mục đích cải thiện các kĩ năng và năng lực thể chất, đem lại
niềm vui, hứng khởi cho những người tham gia và sự giải trí cho người xem
1.2.2.3 Phân loại các loại hình thể thao giải trí
Theo giáo trình do Dương Nghiệp Chí và cộng sự biên soạn cho học sinh
cao đẳng và đại học TDTT [5], TDTT có thể phân làm các nhóm môn TDTT giải
trí cơ bản sau đây:
 Nhóm các môn giải trí cao cấp
- Môn Golf
- Môn Bowling
- Môn Bi-a
 Nhóm các môn giải trí mang tính nghệ thuật

- Môn Khiêu vũ thể thao
- Môn Thể dục thẩm mỹ-Aerobic


Nhóm các môn thể thao giải trí mang tính trí tuệ
- Nhóm các môn Cờ
- Thể thao điện tử (E-Sport)
- Môn Câu cá



Nhóm các môn thể thao giải trí mạo hiểm
- Môn Leo núi (vách núi nhân tạo)
- Môn Trượt patanh trên ván
- Môn Đua ca nô, lướt ván trên nước



Nhóm các môn thể thao giải trí mang tính dân tộc, thể dục dưỡng sinh, gần với
thiên nhiên
- Môn Đá cầu
25


×