Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ Ở HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.77 KB, 118 trang )

LỜI CÁM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các
thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi hệ thống tri thức rất
quý báu về chuyên ngành giáo dục và phát triển cộng đồng, những phương
pháp, kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Khoa tâm lý giáo dục, khoa sau Đại học Sư phạm – Hà Nội, Ban giám hiệu
các trường học THCS, THPT trên địa bàn huyện như: THCS xã Trí Qủa,
THCS xã Thanh Khương, THCS Nguyễn Thị Định, THPT Thuận Thành số 1,
THPT Thuận Thành số 2, Trường Đại học Kỹ Thuật Hậu Cần Công an nhân
dân, các điểm thư viện tại huyện Thuận Thành, và các bạn học sinh, sinh viên,
đông đảo người dân trên địa bàn huyện,cùng các đồng nghiệp, bạn bè, gia
đình… đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian
học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn
Thành Vinh – Học viện QLGDHN đã trực tiếp tận tình, dạy bảo, hướng dẫn
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù, đã có nhiều cố gắng, nhưng luân văn khó tránh khỏi những
thiếu sót, khuyết điểm.Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy giáo, cô
giáo cùng các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Ngô Thị Ngọc luân

1


MỤC LỤC


2


BẢNG

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các yếu tố tạo nên trí tuệ, nhân cách và phong thái của con
người, đọc sách là một yếu tố giữ vai trò quan trọng. Trong suốt quá trình xây
dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước, Văn hóa Đọc đã góp phần đắc lực
trong việc hình thành nên nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong đời sống của mỗi con người, sách chính là phương tiện để học
hữu hiệu, đạt kết quả tốt nhất, là nguồn kiến thức vô tận của nhân loại, là
ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người. Sách giúp cho chúng ta mở rộng
tầm nhìn về cuộc sống, là người thầy, người bạn gần gũi thân thiết, là nguồn
động lực chắp cánh cho những ước mơ trong cuộc đời, sự nghiệp. Sách không
chỉ là hành trang của con người trong trường học, mà còn là hành trang của
con người trong đời thường, cuộc sống, xã hội.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh
tế, văn hoá xã hội, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng…Đời sống người
dân đã được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Những năm gần đây, với sự
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, của các phương tiện thông
tin, truyền thông, đặc biệt là sự bùng nổ của internet cùng với sự phong phú
của các hình thức giải trí như: xem ca nhạc, xem phim, chơi game…Văn hoá
Đọc không còn giữ vị trí độc tôn như trước mà đã bị văn hoá nghe nhìn lấn át.
Người ta cho rằng các phương tiện nghe nhìn có thể đáp ứng tối ưu mọi nhu

cầu hưởng thụ nghệ thuật, bồi dưỡng tinh thần và tình cảm thẩm mỹ của con
người. Nhưng, thực tiễn cuộc sống cho thấy rằng, Văn hóa đọc không hề mất
đi, sự phát triển của khoa học công nghệ chỉ góp phần tích cực để văn hoá đọc
được duy trì và phát triển phù hợp theo sự phát triển của xã hội. Bởi lẽ, cùng
một thông tin tiếp cận, nhưng Văn hoá đọc và Văn hoá nghe nhìn thuộc hai
phạm trù khác nhau. Mắt đọc buộc trí tưởng tượng và khả năng tập trung cao
4


hơn, còn với mắt nhìn thì chỉ lướt qua nên những ấn tượng được lưu lại không
nhiều. Suy ngẫm trong quá trình đọc sách sẽ bồi dưỡng trí nhớ và tư duy, mở
mang kiến thức và hình thành thế giới quan cho người đọc.Việc đọc sách có
tác dụng biến đổi và hoàn thiện tư duy con người, cũng như ảnh hưởng rất lớn
đến hành vi, đến thế giới nội tâm, đến trình độ văn hóa, đến hoạt động xã hội
của người đọc.Tuy nhiên, cho dù là Đọc hay Nghe nhìn đều phải biết chọn lọc
để tiếp thu, cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Nhất là trong thời kỳ nước ta mở rộng giao lưu quốc tế, yêu cầu hàng đầu đối
với tất cả chúng ta là tinh thần độc lập dân tộc, lòng tự hào sâu sắc về những
giá trị văn hoá của con người Việt Nam. Trong giao lưu và tiếp thu văn hoá
phải chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại, những quan niệm
cực đoan về tự do cá nhân, chủ nghĩa thực dụng lấy đồng tiền làm mục đích
sống, chống lại lối sống hưởng thụ, xa hoa, ích kỷ.
Hiện nay, sự phát triển phong phú của các hình thức xuất bản, sự xuất
hiện với số lượng vô cùng lớn của sách, báo là một sự thuận lợi cho việc đáp
ứng nhu cầu đọc phong phú và ngày càng cao của cộng đồng. Nhưng đó cũng
là một trở ngại trong việc lựa chọn được những sách hay, có giá trị cao trong
vô vàn những tên sách. Chưa kể trong số đó có những cuốn được xuất bản có
ít nhiều yếu tố thị trường. Bên cạnh những cuốn sách tốt lại có những cuốn
sách chứa nội dung không lành mạnh đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển văn hóa đọc ở các cộng đồng dân cư. Cùng với xây dựng thói quen đọc

sách, định hướng đọc (đọc gì?) và kỹ năng đọc (đọc thế nào?)… tạo thành cái
cốt lõi của Văn hoá Đọc. Đó cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của các Thư
viện – nơi lưu giữ và quảng bá tri thức nhân loại, vẫn luôn khẳng định là một
cơ quan văn hoá giáo dục ngoài nhà trường, một sự lựa chọn tốt của mọi
người dân để xây dựng một môi trường học tập suốt đời và góp phần thúc đẩy
Văn hoá Đọc phát triển.
Có một học giả từng nói: “Quá trình phát triển tinh thần của một người
là quá trình đọc sách của người đó, còn ranh giới tinh thần của một dân tộc ở
5


một mức độ nào đó được quyết định ở mức độ đọc sách của cả dân tộc đó.
Một xã hội rốt cuộc là phát triển hay thụt lùi thì phải xem nguồn rễ của việc
đọc sách có sâu hay không, những người đang đọc sách, đọc những quyển
sách gì quyết định tương lai của một quốc gia. Đọc sách không chỉ ảnh hướng
đến cá nhân, mà còn tác động đến cả dân tộc, cả xã hội.Phải biết rằng: Một
dân tộc không thích đọc sách là một dân tộc đáng sợ; một dân tộc không thích
đọc sách là một dân tộc không có hy vọng”.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của đọc sách và Văn hoá Đọc, Đảng, Nhà
nước đã hết sức quan tâm đến việc phát triển văn hóa đọc trong nhân dân. Chỉ
thị số 42- CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa
IX) đã chỉ rõ: “Chăm lo phát triển nhu cầu văn hoá đọc của các tầng lớp nhân
dân… Tập trung củng cố và phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc,
trước hết ở cơ sở”. Tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm
2020 cũng đã chỉ rõ: “Lấy nhiệm vụ phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước làm mục tiêu lựa chọn sách, xây dựng vốn tài liệu thư
viện để cung cấp kịp thời cho bạn đọc. Xây dựng phong trào đọc sách trong
xã hội, góp phần xây dựng có hiệu quả thế hệ đọc tương lai” là một minh
chứng. Vàtỉnh Bắc Ninh với“Quy hoạch phát triển sự nghiệp Văn hoá tỉnh

Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã thể hiện sự quan tâm
sâu sắc của cấp uỷ Đảng, chính quyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và nhân dân về vai trò của văn hoá, coi trọng phát triển sự nghiệp
văn hoá, để văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội; Xác định đầu tư
cho văn hoá là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, góp
phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong đó
việc đầu tư phát triển phong trào đọc và làm theo sách báo của mỗi người dân

6


trong các cộng đồng dân cư, sẽ góp phần xây dựng nền văn hoá Việt nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên quê hương Bắc Ninh – Kinh Bắc.
Thuận Thành là một huyện có nền kinh tế phát triển với nhiều làng
nghề truyền thống lại thêm quá trình đô thị hóa nhanh, có điều kiện, cơ hội
phát triển.Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu
cực tới sự phát triển Văn hóa Đọc của người dân. Thư viện huyện, thư viện
trường, tủ sách và điểm Bưu điện văn hóa các xã, thôn làng… còn rất nghèo
nàn về cơ sở vật chất, trang thiết bị và vốn tài liệu, chưa đáp ứng được nhu
cầu đọc trong cộng đồng dân cư, hoạt động chưa phong phú và phong trào
đọc còn chưa rộng khắp, chưa có chiều sâu.Thực tế trên đòi hỏi phải có những
biện pháp hữu hiệu, phù hợp, tạo nên phong trào đọc sâu rộng trong nhân dân,
để Văn hóa Đọc được lan toả, phát triển một cách thiết thực, hiệu quả trong xã
hội nhằm nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, góp phần nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng dân cư,
xây dựng huyện Thuận Thành nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung ngày càng
giàu mạnh, văn minh.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Biện pháp phát triển
Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân cư ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh”.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa đọc, đề xuất các
biện pháp phát triển Văn hóa Đọc cho nhân dân tại cộng đồng dân cư huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động phát triển tri thức cho cộng đồng
dân cư huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh.

7


3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp phát triển Văn hóa Đọc cho
cộng đồng dân cư ở huyện Thuận Thành trong giai đoạn hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, phát triển văn hóa đọc cho cộng đồng dân cư huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh đã được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và đã đạt
được những kết quả nhất định, song cũng còn nhiều hạn chế, tồn tại . Vì vậy,
nếu đề xuất được các biện pháp phát triển đồng bộ, phù hợp và sát với đối
tượng sẽ khắc phục được các tồn tại để phát triển, góp phần nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng dân cư huyện.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Khái quát và làm rõ cơ sở lý luận về công tác phát triển Văn hóa
Đọc cho cộng đồng dân cư.
5.2. Phân tích thực trạng phát triển Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân cư
ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 - 2016
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển Văn hóa Đọc cho cộng
đồng dân cư trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển Văn hóa Đọc cho
cộng đồng dân cư huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 – 2016,
trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả phát triển

Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân cư ở huyện Thuận Thành nói riêng và trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi xin được sử dụng
các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận.

8


- Phương pháp phân tích, tổng hợp khái quát hóa, hệ thống hóa các tài
liệu lí luận về Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân cư.
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu lịch sử của vấn đề nghiên cứu, phát
hiện, khai thác những khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đấy đề
cập tới vấn đề phát triển Văn hóa Đọc, làm cơ sở cho việc tiến hành các hoạt
động nghiên cứu tiếp theo.
- Nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, các website trên trang mạng
internet, các tài liệu lí luận có liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó xác định giả
thiết khoa học, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi để thu thập thông tin.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tọa đàm.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê kế toán học.
Dùng phương pháp thống kê kế toán học để xử lý tổng hợp số liệu thu
thập được trên cơ sở đó rút ra kết luận khoa học và góp phần làm cho kết quả
nghiên cứu đảm bảo độ tin cậy, chính xác cao.

8. Đóng góp mới của luận văn
Nêu bật được vai trò, tầm quan trọng của sách báo trong đời sống xã
hội nhằm góp phần xây dựng một cộng đồng học tập, một môi trường học tập
suốt đời của mỗi người dân, đặc biệt góp phần xây dựng thế hệ đọc tương lai.
Đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển văn hóa đọc cho cộng đồng dân cư
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân cư
Chương 2: Thực trạng vấn đề phát triển Văn hóa Đọc cho cộng đồng
dân cư ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
9


Chương 3: Các biện pháp phát triển Văn hóa Đọc cho cộng đồng dân
cư ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC
CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ HUYỆN
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Những năm gần đây, người ta nhắc nhiều tới khái niệm văn hóa đọc,
tìm hiểu và phân tích nó đồng thời tìm cách phát triển nó. Đó không phải là
điều ngẫu nhiên.
Văn hóa đọc không phải là kinh tế hay một cái gì khác mà văn hóa đọc một bộ phận của Văn hóa – là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành
nên con người mới, những công dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng
với sự phát triển của xã hội hiện đại – xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri
thức. Thông qua Văn hóa đọc sẽ định hướng đọc cho người dân, tuỳ thuộc vào
trình độ dân trí, nghề nghiệp và điều kiện sống, có thể tiếp cận được với thông
tin, tri thức phù hợp, hữu ích nhất cho cuộc sống của mình.
Văn hóa Đọc có thể giúp cho mỗi cá nhân có một cuộc sống trí tuệ hơn,

đẹp đẽ, ý nghĩa, hạnh phúc và hài hòa hơn. Chính vì vậy, phát triển Văn hóa
Đọc luôn là một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược của mọi quốc gia trong việc
nâng cao dân trí, góp phần phát triển bền vững nguồn nhân lực – nhân tố
quyết định mọi thành công.
Văn hoá đọc đã có những bước phát triển vượt bậc, trước hết phải
khẳng định rằng, kể từ khi đất nước ta chuyển từ thời kỳ bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước,
công tác xuất bản, phát hành sách và Thư viện đã có nhiều hoạt động khởi
sắc, đạt được những thành tích to lớn. Được sự quan tâm và đầu tư của Đảng
và Chính phủ, những người làm công tác xuất bản, phát hành sách và Thư

10


viện cả nước đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng vươn lên, bám sát nhiệm vụ
được giao, thích ứng và đứng vững trong cơ chế thị trường để cho ra đời, phát
hành và phục vụ tận tay nhân dân hàng chục triệu cuốn sách với hàng trăm tỷ
trang in. Trước năm 1975, cả hai miền Bắc và Nam xuất bản hàng năm được
khoảng chưa đầy 4.000 tên sách, ngày nay hàng năm xuất bản khoảng xấp xỉ
25.000 tên sách/năm. Cả nước hiện nay đang xuất bản khoảng gần 400 tên
báo, tạp chí, nhiều báo có số lượng xuất bản mỗi số lên tới 500.000 bản.
Từ năm 1995, UNESCO đã lấy ngày 23/4 hàng năm là ngày Sách và
Bản quyền thế giới nhằm nâng cao nhận thức về sách và văn hóa đọc. Qua đó,
tôn vinh giá trị của sách, khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của sách
trong đời sống xã hội; tôn vinh người đọc và những người tham gia sưu tầm,
sáng tác, xuất bản, in, phát hành, lưu giữ, quảng bá sách… Hưởng ứng Ngày
Sách và Bản quyền thế giới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có kế hoạch
tổ chức các hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng,
góp phần đáng kể trong việc nâng cao dân trí, phục vụ tốt hơn công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ năm 2006, Ngày hội Sách và Văn hóa

đọc do Thư viện Quốc gia Việt Nam khởi xướng đã lan tỏa khắp các tỉnh
thành trong cả nước nhằm khuyến khích, đưa phong trào đọc sách, báo trở
thành thành nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam trong thời kỳ đất nước
giao lưu, hội nhập quốc tế.
Thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị, Chính phủ đã giao cho Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng “Đề án về phát triển Văn hóa đọc
trong cộng đồng”. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới việc phát huy hơn nữa vai
trò của các thư viện và trung tâm thông tin trong việc đáp ứng nhu cầu đọc,
góp phần phát triển văn hóa đọc cho người dân. Những kế hoạch và chính
sách ấy đã mang lại nhiều kết quả đáng trân trọng và vạch ra hướng phát triển
mới cho văn hóa đọc trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay.
11


Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sách và văn hóa đọc, ngày
28/2/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 284/2014/QĐ-TTg
lấy ngày 21/4 hàng năm là ngày Sách Việt Nam. Sự kiện này mang ý nghĩa to
lớn và khẳng định tầm quan trọng của việc đọc sách đối với việc phát triển
kiến thức, kỹ năng, tư duy, nhân cách con người; khuyến khích, phát triển
phong trào đọc sách trong cộng đồng, hướng tới xây dựng một xã hội học tập,
một môi trường học tập suốt đời của người dân.
Để góp phần phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng dân cư có rất
nhiều đề tài nghiên cứu như: “Giáo dục văn hóa đọc cho lứa tuổi thiếu nhi”
của PGS. TS. Trần Thị Minh Nguyệt; “Nghiên cứu phát triển văn hóa đọc cho
học sinh phổ thông tỉnh Cà Mau” của tác giả Lê Mộng Đài Trang… Dành sự
quan tâm đặc biệt tới các em thiếu nhi Hà Nội, tác giả Nguyễn Như Ngọc đã
thực hiện đề tài luận văn với tên gọi “Nghiên cứu văn hóa đọc của học sinh
tiểu học trên địa bàn Hà Nội”, Tác giả Hoàng Thị Hóa đã thực hiện đề tài:
“Thực trạng văn hóa đọc của bạn đọc tại thư viện huyện Phú Yên”, Tác giả
Phạm Minh Huệ đã thực hiện đề tài: “Thư viện quận- huyện với việc phục vụ

nhu cầu đọc của người dân trên địa bàn Hà Nội”… Các đề tài đã nghiên cứu
cụ thể và đóng góp nhiều giải pháp nhằm giáo dục việc đọc sách và góp phần
phát triển văn hóa đọc trong nhân dân.
Nhìn chung có rất nhiều công trình nghiên cứu đi sâu vào việc xác định
nội dung phát triển văn hóa đọc… cho nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu về
biện pháp phát triển văn hóa đọc cho một cộng đồng dân cư cụ thể nào đó
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay còn ít và chưa hệ thống.

12


1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1.Văn hóa
Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội - là một hệ
thống các giá trị chân lý, các chuẩn mực, các mục tiêu, các cơ cấu, các kỹ
thuật, thể chế các tư tưởng ... mà con người cùng thống nhất với nhau trong
quá trình tương tác và trong quá trình hoạt động sáng tạo, được bảo tồn và
truyền lại cho các thế hệ sau. Hệ thống văn hóa có chức năng như là một
khuôn mẫu chuẩn mực các hành vi xã hội .
Có nhiều khái niệm về Văn hóa. Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng
của tác giả Nguyễn Như Ý( Chủ biên): Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người tạo ra trong lịch sử, là đời sống tinh thần của con người, là
tri thức khoa học, trình độ học vấn, lối sống và cách ứng xử có trình độ cao,
biểu hiện văn minh.
Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Tôn Nhan - Phú Văn Hẳn
(chủ biên): Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra; những hoạt động nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần;
tri thức, kiến thức; trình độ hiểu biết cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của
văn minh; Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ

sở những di vật tìm thấy.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Hoàng Phê: Văn hóa là
tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong quá trình lịch sử; những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu đời sống tinh thần; tri thức, kiến thức khoa học; trình độ cao trong sinh
hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; tổng thể nói chung những giá trị vật chất
và tinh thần của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng
thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau.
“Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân
tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong

13


tục tập quán, lối sống và lao động” (Federico. Mayor -Nguyên Tổng giám
đốc UNESCO)
Văn hóa là một khái niệm phức hợp có nội hàm rộng nhưng nó lại được thể
hiện hàng ngày, rất gần gũi với mọi người chúng ta như: văn hóa dân tộc, văn hóa
lễ hội, văn hóa đô thị, văn hóa lối sống, văn hóa giáo dục, văn hóa đọc…
Tóm lại: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo vật chất và
tinh thần của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các
thế hệ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền
thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
1.2.2. Văn hóa đọc.
Thuật ngữ văn hóa đọc đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định
nghĩa hay khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào trong các bộ từ
điển. Trong xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học - kỹ thuật, sách- báo, tài liệu và các vật mang tin tăng theo cấp số
mũ, ngày càng phong phú, đa dạng về hình thức, do đó việc đọc ngày nay
không chỉ bó hẹp ở phương thức đọc truyền thống (sách in), mà còn chuyển

sang phương thức đọc hiện đại (đọc trên các phương tiện nghe nhìn, thiết bị
điện tử máy tính, sách điện tử).
Văn hóa đọc từ lâu đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong sự phát
triển vượt bậc của các nước phát triển. Nhà báo Hà Sơn Tùng cho rằng “Đọc
sách là biểu tượng của con người có văn hóa và văn minh.Một xã hội chưa
trọng thị sách là một xã hội chưa văn minh; một con người chưa có thú đọc
sách thì con người đó đã khiếm khuyết đi một mảng lớn về văn hóa”. Tuy
nhiên, ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và
truyền thông mà đặc biệt là sự lấn át của các phương tiện nghe nhìn, văn hóa
đọc đang đứng trước cả cơ hội và thách thức. Cơ hội bởi mỗi người đều được
tiếp cận với một khối lượng thông tin khổng lồ qua các phương tiện truyền
14


thông khác nhau nhưng nó lại tiềm ẩn một nguy cơ làm mai một thói quen
đọc sách.
Hiện nay, vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có nhiều
học giả, nhà khoa học nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các khái niệm về
thuật ngữ văn hóa đọc. Theo Thạc sĩ Bùi Văn Vượng, thuật ngữ “văn hóa
đọc” là đọc sách có văn hóa, hay xây dựng một xã hội đọc sách. Tại Hội thảo
“Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp” tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh
( năm 2010), khái niệm “Văn hóa đọc” được lý giải theo cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa đọc là cách ứng xử, giá trị và chuẩn mực
đọc của các nhà quản lý và các cơ quan quản lý nhà nước; ứng xử, giá trị và
chuẩn mực đọc của cộng đồng và ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi
cá nhân trong xã hội. Xét từ góc độ cá nhân, văn hóa đọc cần hội tụ đủ 3 yếu
tố là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Theo nghĩa hẹp, văn hóa đọc
là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân hình thành nên: Thói
quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc, các yếu tố này có mối quan hệ biện
chứng cùng bổ sung, bồi đắp cho nhau. Khi cá nhân có những ứng xử, giá trị

và chuẩn mực đúng đắn, lành mạnh sẽ hình thành thói quen đọc, sở thích đọc
và kỹ năng đọc lành mạnh. Giáo sư Chu Hảo trong Hội thảo “Sách và chấn
hưng giáo dục” đã đề cập đến 3 yếu tố cấu thành nên văn hóa đọc, đó là thói
quen đọc, phương pháp chọn sách và kỹ năng đọc, các yếu tố trên có mối
quan hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, văn hóa đọc đã vượt lên khái
niệm đọc đơn thuần, nó hướng đến giá trị nghệ thuật đích thực, hướng đến các
ứng xử, giá trị và chuẩn mực thẩm mỹ của cộng đồng xã hội. Văn hoá đọc có
vai trò và ưu thế riêng, Văn hoá đọc đòi hỏi tính tự giác rất cao, mỗi người
đều phải rèn luyện bản lĩnh, không bị cám dỗ bởi các thú vui giải trí khác thì
mới làm giầu kiến thức chung và kiến thức chuyên môn của mình.

15


Từ xưa đến nay, mỗi con người muốn đi đến thành công thì đều cần
phải có tri thức. Một trong những cách tiếp cận tri thức phổ biến và truyền
thống nhất đó chính là việc đọc sách. Tuy nhiên, để việc đọc sách thật sự hiệu
quả thì mỗi cá nhân cần phải luyện cho mình văn hóa đọc.
Văn hóa đọc là một bộ phận cấu thành của văn hóa - là một trong
những động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân
có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng được với sự phát triển của xã hội
hiện đại. Văn hóa đọc là phương tiện giúp con người tiếp cận được với thông
tin tri thức phù hợp hữu ích nhất cho cuộc sống của mình.
Theo tác giả Trần Minh Nguyệt, xét trên bình diện văn minh nhân loại
văn hóa đọc gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của chữ viết; xét trên bình
diện cá nhân văn hóa đọc biểu hiện trình độ phát triển tinh thần của con
người. Tác giả cho rằng “văn hóa đọc xem xét ở góc độ cá nhân bao hàm khía
cạnh định hướng của chủ thể tới đối tượng đọc (nhu cầu đọc), khả năng, trình
độ lĩnh hội thông tin (kỹ năng đọc), cả ở phản ứng với đối tượng đọc (ứng xử
văn hóa)”

Trong bài “Văn hóa đọc và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam”,
Nguyễn Hữu Viêm cho rằng: “Văn hoá đọc là một khái niệm có hai nghĩa,
một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp”. Văn hoá đọc, theo nghĩa rộng, đó là nền
văn hoá đọc của mỗi quốc gia thể hiện qua chủ trương, đường lối, chính sách
của Nhà nước, của cộng đồng và ý thức của mỗi thành viên trong xã hội về
xây dựng phát triển cơ sở vật chất (thư viện, phòng đọc; xuất bản phát hành
sách, tài liệu...) nhằm phát triển văn hóa đọc. Văn hoá đọc, theo nghĩa hẹp là
đọc có văn hoá, đó là ứng xử đối với việc đọc, thể hiện qua thói quen đọc, sở
thích đọc và kỹ năng đọc của mỗi người đọc.
Theo Ths Bùi Văn Vượng, thuật ngữ Văn hóa đọc là đọc sách có văn
hóa, hay xây dựng một xã hội đọc sách.
16


Theo TS Lê Văn Viết quan niệm, đọc đến một mức độ, trình độ nhất
định nào đó thì mới được coi là văn hóa đọc.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Nguyễn Như Ý (Chủ biên):
Văn hóa: là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong
lịch sử, là đời sống tinh thần của con người, là tri thức khoa học, trình độ học
vấn, lối sống và cách ứng xử có trình độ cao, biểu hiện văn minh
Đọc: phát ra thành tiếng, thành lời theo bản viết có sẵn; Nhìn vào bản
viết, bản vẽ để tiếp thu nội dung; Thấu hiểu bằng mắt nhìn điều không lộ ra
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Hoàng Phê
Văn hóa: Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; những hoạt động của con người
nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần; tri thức, kiến thức khoa học; trình
độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác
định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm
giống nhau

Đọc: phát thành lời những điều đã được viết ra theo đúng trình tự; tiếp
nhận nội dung của một tập hợp ký hiệu bằng cách nhìn vào các ký hiệu; thu
lấy thông tin từ một thiết bị lưu trữ của máy tính; hiểu rõ điều gì bằng cách
nhìn vào những biểu hiện bên ngoài
Thuật ngữ văn hóa đọc được sử dụng rộng rãi nhưng cách hiểu về văn
hóa đọc rất khác nhau, dẫn tới có những định nghĩa chưa chính xác.
Như vậy, văn hóa đọc là khái niệm đề cao tính nghệ thuật, tính thưởng
thức văn hóa đích thực trong việc đọc sách, vượt lên trên khái niệm đọc đơn
thuần. Văn hóa đọc là việc đọc sách có văn hóa; đọc hiểu những giá trị vật
chất, đời sống tình thần, những tri thức, kiến thức khoa học do con người sáng
tạo ra trong lịch sử.
17


1.2.3. Thư viện
Theo từ điển Tiếng việt thông dụng của tác giả Nguyễn Như Ý (Chủ
biên): Thư viện nơi lưu giữ nhiều sách báo, tài liệu để cho mọi người đến
mượn đọc. Đọc sách ở thư viện. mượn sách ở thư viện phải trả đúng hạn.
Theo tài liệu hướng dẫn công tác quản lý tài liệu cấp huyện và cơ sở
của thư viện tỉnh Bắc Giang, xuất bản tháng 11 năm 2008: Thư viện là một
đơn vị sự nghiệp, có thể là đơn vị độc lập (có con dấu và tài khoản riêng)
hoặc được ghép trong đơn vị sự nghiệp lớn hơn, như Trung tâm văn hóa, Nhà
văn hóa…
Định nghĩa mới nhất của UNESCO: “Thư viện, không phụ thuộc vào
tên gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách, báo, tài liệu các loại, ấn phẩm
định kì... Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài
liệu để nghiên cứu thông tin, giáo dục & giải trí”.
Theo ý nghĩa truyền thống, một thư viện là kho sưu tập sách, báo, tạp
chí. Tuy nó có thể chỉ đến kho sưu tập cá nhân của người riêng, nhưng nó
thường chỉ đến nhà lớn sưu tập sách báo xuất bản được bảo quản bởi thành

phố hay học viện hay nhận tiền góp của họ. Những nhà sưu tập này thường
được sử dụng bởi những người không muốn (hay không có thể) mua nhiều
sách cho mình. Tuy nhiên, tại vì giấy không còn là phương tiện duy nhất để
lưu giữ thông tin, nhiều thư viện cũng sưu tập và cung cấp bản đồ, bản thiết
kế hay công trình nghệ thuật khác, micrôphim (tiếng Anh: microfilm), vi
phim (microfiche), băng cassette, CD, LP, băng video, và DVD, và họ để
người khác truy cập các cơ sở dữ liệu CD-ROM và Internet.
1.2.4. Cộng đồng dân cư
- Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Nguyễn Như Ý( Chủ biên):
Cộng đồng: toàn thể những người, cùng sống, gắn bó với nhau tạo
thành một khối
18


Dân cư: người dân thường trú ở một khu vực nào đó.
Cộng đồng dân cư là tập thể người dân cùng sống, gắn bó với nhau
trong một khu vực nào đó
- Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Tôn Nhan- Phú Văn Hẳn
( chủ biên)
Cộng đồng: tập thành những người sống thành một xã hội, có những
đặc điểm giống nhau.Cùng chung với nhau giữa một số người
Dân cư: dân ở trong một vùng
Cộng đồng dân cư là tập hợp dân cư trong một vùng có những đặc điểm
giống nhau, sống thành một xã hội.
- Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Hoàng Phê
Cộng đồng: toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống
nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội
Dân cư: dân trong một vùng
Cộng đồng dân cư là tập thể những người dân cùng sống trong vùng, có
những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội

Như vậy, cộng đồng dân cư là tập thể người dân cùng sống chung với
nhau trong một khoảng không gian, có những đặc điểm giống nhau, gắn bó
thành một khối trong sinh hoạt xã hội.
1.3. Những vấn đề cơ bản về phát triển Văn hóa đọc cho cộng đồng
dân cư
1.3.1. Vai trò của văn hóa.
Ngay tại đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã nhận
định: “Văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan
tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại - nhà văn hóa lớn của dân tộc,
cũng từng nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đến Hội nghị
Trung ương 5, Khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
19


xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội”. Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX tiếp tục phát triển: “Đảm bảo sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn đảng là
then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội;
tạo nên sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định
để bảo đảm cho sự phát triển toàn diện bền vững của đất nước”. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển”.
Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn
hóa trong sự nghiệp cách mạng có thể khẳng định rằng:
a) Văn hóa là cơ sở xã hội hóa các cá nhân
Trong thực tế cuộc sống của mỗi cá nhân, văn hóa được thể hiện là

những nhận thức xã hội của mỗi người để đảm bảo sự hòa đồng của các cá
nhân vào xã hội chung và năng lực lao động của các cá nhân để đảm bảo đời
sống của chính họ. Con người không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên cũng
như con người không thực sự là người nếu tách rời môi trường văn hóa. R.E.
Park: “ Con người không sinh ra là người ngay mà trở thành người trong quá
trình giáo dục”.
Tất cả những điều đó các cá nhân học hỏi và lĩnh hội được thông qua
quá trình xã hội hóa các cá nhân. Do đó văn hóa là cơ sở của nền văn hóa đã
trở thành con người của xã hội hòa đồng vào xã hội
b) Văn là cơ sở phát triển kinh tế

20


Toàn bộ các yếu tố văn hóa được biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là các
cơ sở vật chất dùng cho sản xuất kinh doanh và năng lực lao động của con
người. Các nhà kinh tế thường gọi các yếu tố là tài sản hữu hình và tài sản vô
hình, đây là cơ sở cho quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nền văn hóa phát
triển cao đồng nghĩa với hệ thống cơ sở vật chất phát triển cao, đây là tiền đề
cho phát triển kinh tế. Tương tự như vậy nền văn hóa phát triển cao đồng
nghĩa với người lao động có năng lực lao động có trình độ khoa học kỹ thuật
cao, đây là tiền đề thứ 2 cho phát triển kinh tế. Do vậy xây dựng, phát triển
nên văn hóa là nhiệm vụ hết sức quan trọng của mỗi quốc gia.
c) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
xã hội. Các giá trị văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc của xã hội đó là nền
tảng tinh thần. Cái nền tảng đó tạo nên giá trị làm người, tạo nên sức mạnh to
lớn của dân tộc, giúp dân tộc vượt qua thách thức, bạo tàn của thiên nhiên và
giặc ngoại sâm. Cho thấy tinh thần đoàn kết mạnh mẽ trong chiến tranh và
xây dựng đất nước.

d) Văn hóa với việc hoàn thiện con người và xã hội
Văn hóa là cơ sở hình thành nhân cách cá nhân. Các cá nhân tiếp nhận
nền văn hóa và trở thành con người xã hội. Con người ngày càng hiểu biết
được đầy đủ quy luật vận động của tư nhiên, xã hội và bản thân. Các cá nhân
tiếp nhận trình độ văn hóa càng cao thì nhân cách của họ càng lớn và có bản
lĩnh càng cao, chủ động điều tiết mình trong mọi tình huống phù hợp với yêu
cầu của xã hội…Từ đó họ luôn làm chủ mình trong mọi tình huống.
e) Văn hóa với vấn đề hội nhập quốc tế
Thông qua giao lưu hội nhập về văn hóa xã hội với các nền văn hóa
trên thế giới, chắt lọc được những tinh tú văn hóa của nhau và ứng dụng vào
nền văn hóa của mình để đạt được trình độ văn hóa ngày càng cao. Hội nhập
21


quốc tế là cơ hội tốt cho các nền văn hóa giao lưu và học hỏi lẫn nhau để đưa
thế giới lên nền văn minh ngày càng cao. Do vậy hội nhập quốc tế là vấn đề
quan trọng đối với các quốc gia, dân tộc nhằm giúp họ thể hiện mình với quốc
tế và học hỏi được từ các nước những điều cần thiết cho quốc gia.
1.3.2. Các địa điểm, phương tiện để xây dựng văn hóa đọc
1.3.2.1. Các địa điểm
Thư viện do Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập.
Thư viện của viện, trung tâm nghiên cứu khoa học trên địa bàn huyện;
Thư viện của các nhà trường và các cơ sở giáo dục khác; Thư viện của đơn vị
vũ trang; Thư viện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp.
Ngoài ra, còn có các địa điểm xây dựng thư viện như “Điểm bưu điện –
Văn hóa xã”, tủ sách tư nhân, tủ sách dòng họ....
1.3.2.2. Phương tiện
Nhìn chung, phương tiện trong hoạt động của hệ thống thư viện đã
được chính quyền địa phương quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn cầm chừng.

Vốn sách, tài liệu trong các hệ thống thư viện, tủ sách đã được đầu tư nhưng
chưa đa dạng, phong phú… chỉ phần nào đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
1.3.3. Những nội dung của phát triển văn hóa đọc
cho cộng đồng dân cư
1.3.3.1. Lập kế hoạch
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động, công việc được sắp xếp theo
trình tự nhất định để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Một cộng đồng dân cư trong đó mọi người liên kết với nhau hoạt động
thực hiện nhiệm vụ, nhiệm vụ cốt yếu của người làm công tác thư viện là làm
thế nào để mọi người biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu của tổ chức. Đấy là chức năng kế hoạch hóa của người làm công tác
22


thư viện. Kế hoạch hóa bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành
động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong
một thời gian nhất định của cả hệ thống đội ngũ cán bộ người làm công tác
thư viện và cộng đồng dân cư trong đó việc lập kế hoạch vô cùng quan trọng.
Lập kế hoạch theo một khía cạnh nào đó có thể coi nó như là một dự báo.
Tính chất dự báo càng thể hiện rõ trong việc lập kế hoạch chiến lược. Cán bộ
thư viện phải đặt trọng tâm vào tư duy và hành động mang tính chiến lược.
Việc lập kế hoạch phải chú trọng vào tương lai. Kế hoạch phải định hướng
toàn bộ hoạt động vào kết quả đạt được, phải thể hiện tập trung sự quan tâm
và nguồn lực vào các vấn đề bức xúc nhất mà cộng đồng đang quan tâm.
Trong kế hoạch phải quan tâm đến quan hệ hợp tác.
Giáo sư, tiến sĩ Davis J.Schwartz, một chuyên gia hàng đầu về môn
"Đắc nhân tâm" từng viết rằng: "Nếu chúng ta xây dựng kế hoạch cho tương
lai tức là cuộc sống của chúng ta là có mục đích. Cuộc đời bạn sẽ là cuộc đời
của kẻ hành khất, nếu trong tay bạn chẳng có một kế hoạch gì”. Như vậy, nhờ
có kế hoạch phù hợp, mỗi cá nhân chúng ta sẽ dễ dàng xác định được mục

tiêu cần phải đạt tới là gì? Với năng lực của bản thân thì cần phải làm gì và
làm như thế nào để đạt được mục tiêu đó? Từ đó ta sẽ hiểu rõ điều mong
muốn thật sự của bản thân, tận dụng hết thời gian sẵn có, ứng phó được những
sự biến động đến từ môi trường xung quanh, đạt được những mục tiêu đã đề
ra với kết quả cao nhất.
*Các bước của việc lập kế hoạch:
Bước 1: Nhận thức đầy đủ về yêu cầu nhiệm vụ thông qua những chỉ
thị, nghị quyết, quyết định…
Bước 2: Phân tích trạng thái xuất phát
23


Bước 3: Xác định nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch
Bước 4: Xây dựng sơ đồ khung của việc lập kế hoạch
1.3.3.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch
Tổ chức thực hiện là quá trình hoạt động và thi hành các công việc theo
kế hoạch để đạt được mục tiêu. Tuỳ theo kế hoạch dài - trung - ngắn hạn và
qui mô của kế hoạch, nguồn lực huy động, mức khẩn thiết của kế hoạch .v.v...
mà tổ chức thực hiện cho phù hợp.
Để giúp mọi người cùng làm việc với nhau nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu, cần phải xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về vai trò nhiệm
vụ và vị trí công tác. Vai trò của một bộ phận hay một cá nhân bao hàm bộ
phận hay một cá nhân đó hiểu rõ công việc mình làm nằm trong một phạm vi
nào đó, nhằm mục đích hay mục tiêu nào, công việc của họ ăn khớp như thế
nào với các cá nhân hoặc các bộ phận khác và những thông tin cần thiết để
hoàn thành công việc. Điều này đòi hỏi người điều hành hoạt động phải thiết
kế cơ cấu các bộ phận sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức. Ngoài ra
phải chú ý tới phương thức hoạt động, tới quyền hạn của từng bộ phận, tạo
điều kiện cho sự liên kết ngang, dọc và đặc biệt chú ý đến việc bố trí cán bộ,
cơ cấu tổ chức.

1.3.3.3. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch
Đây là chức năng thể hiện năng lực của người điều hành hoạt động.Sau
khi hoạch định kế hoạch và sắp xếp tổ chức người điều hành hoạt động phải
điều khiển cho hệ thống hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Đây là
quá trình sử dụng quyền lực điều hành hoạt động để tác động đến đối tượng
một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt
mục tiêu chung của hệ thống. Người điều khiển hệ thống phải là người có tri
thức toàn điện về lĩnh vực nghiên cưú, kỹ năng ra quyết định và tổ chức thực
hiện quyết định.
24


Ra quyết định là quá trình xác định vấn đề và lựa chọn một phương án
hành động trong số những phương án khác nhau. Việc ra quyết định quán
xuyết trong suốt quá trình hoạt động, từ việc hoạch định kế hoạch, việc xây
dựng tổ chức cho đến việc kiểm tra đánh giá.Để cho quyết định trở thành hiện
thực, yếu tố quyết định là việc tổ chức thực hiện. Đây là giai đoạn khó khăn
đòi hỏi nỗ lực rất lớn của người điều hành hoạt động. Qúa trình tổ chức thực
hiện quyết định gồm:
+ Truyền đạt quyết định
+ Lập kế hoạch thực hiện quyết định.
+ Thực hiện quyết định.
+ Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyết định.
+ Điều chỉnh quyết định (nếu cần)
+ Tổng kết việc thực hiện quyết định.
1.3.3.4. Kiểm tra thực hiện kế hoạch
Để biết bản thân đã làm được đến đâu và được bao nhiêu phần của mục
tiêu, liệu có hoàn thành được mục tiêu của mình đúng hạn hay không, cần
phải liên tục xem xét, đối chiếu giữa mục tiêu và thành quả của mình. Kiểm
tra việc thực hiện các kế hoạch ngoài việc khích lệ bản thân hoàn thành mục

tiêu đề ra một cách tốt hơn thì nó còn giúp phát hiện ra những điều bất hợp lý
trong bản kế hoạch, từ đó tiến hành các hoạt động điều chỉnh cần thiết. Đây là
chức năng quan trọng, kiểm tra nhằm thẩm định, xác định hành vi của cá nhân
hay một tổ chức trong quá trình thực hiện quyết đinh. Ngoài ra có thể hiểu
kiểm tra là hoạt động quan sát và kiểm nghiệm mức độ phù hợp của quá trình
hoạt động với các quyết định đã lựa chọn. Sự kiểm tra có tính chất bao quát
thực sự và có trình độ chuyên môn cao sẽ hỗ trợ cho việc củng cố kỉ cương,

25


×