Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Đề cương thảo luận trung cấp chính trị môn nhà nước pháp luật 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.13 KB, 22 trang )

Câu 1. Trình bày vị trí, chức năng của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước
ta hiện nay
Hệ thống chính trị là tổng hợp các lực lượng chính trị bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm bảo đảm quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân.
a/ Đảng Cộng sản Việt Nam
Vị trí: Đảng lãnh đạo, đề ra đường lối, chủ trương định hướng hoạt động của hệ thống
chính trị.
Chức năng: ĐCSVN là điều kiện cần thiết bảo đảm hệ thống chính trị giữ vững bản chất
của giai cấp công nhân; đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
Phương thức hoạt động:
• Đảng đề ra đường lối, chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội; nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước và những quan hệ chủ yếu trong đời sống xã hội.
• Đảng giới thiệu các đảng viên có phẩm chất chính trị, năng lực, đạo đức để nhân dân
lựa chọn, bầu vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
• Đảng kiểm tra các cơ quan Nhà nước, thể chế hóa đường lối, chủ trương thành các
chính sách Pháp luật và Nghị quyết của các tổ chức chính trị - xã hội. Thông qua đó,
kiểm nhiệm, khắc phục, hoàn thiện hơn nữa chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp
với quy luật của xã hội và lợi ích của nhân dân.
b/ Nhà nước:
Nhà nước giữ vị trí trung tâm, trụ cột, xương sống của hệ thống chính trị. Nhà nước là
quan trọng nhất bởi vì nhờ có nhà nước mà Đảng có thể lãnh đạo nhân dân thực hiện được quyền
làm chủ. Nhà nước là tổ chức duy nhất có những điều sau:
Thứ nhất, nhà nước đại diện cho mọi dân tộc, mọi người dân. Vì đứng ở vị trí trung tâm
của hệ thống chính trị, là đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội nên Nhà
nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện tốt những quyết
định, chính sách của mình. Nhà nước cũng là chủ thể của quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị
thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân; có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, ban hành và sử
dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội. Nhờ có pháp luật, mọi chủ trương, chính sách của
Nhà nước được triển khai một cách rộng rãi và thống nhất trên quy mô toàn xã hội.
Thứ hai, nhà nước cũng có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai trò


của mình. Nhà nước còn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của
xã hội (đất đai, tài nguyên…). Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó, Nhà nước thực hiện
việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân.
Thứ ba, nhà nước là tổ chức duy nhất nắm giữ quyền lực nhà nước, nắm giữ chủ quyền
quốc gia và đặt ra pháp luật. Nhà nước nắm giữ nguồn tài chính và cơ sở vật chất to lớn, bảo đảm
cho hoạt động của bộ máy nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội khác. Nhà nước có quyền
tối cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Những quan hệ
quốc tế trong lĩnh vực chính trị và kinh tế càng làm cho Nhà nước có vai trò nổi bật hơn trong
1


các quan hệ đối nội, giúp Nhà nước củng cố và phát triển các quan hệ đó trong một thể thống
nhất.
Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật, bằng hệ thống các
cơ quan quản lý nhà nước từ các bộ đến các cơ sở, trong đó không loại trừ các biện pháp cưỡng
chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước thực hiện quản lý trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô.
Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng chính sách và các công cụ đòn bẩy khác... Mục tiêu của quản
lý nhà nước là phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đảm bảo cho nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không câm, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất của
đất nước.
Chủ thể quyền lực nhà nước là của nhân dân. Nhân dân làm chủ, trước hết được xác định
ở địa vị chủ thể quyền lực nhà nước. Chỉ nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước.
Nhưng nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu đó trong quá trình thực
thi quyền lực nhà nước. Nhân dân còn làm chủ bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp (thông
qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đoàn thể của nhân dân). Ngày nay, quyền làm chủ
của nhân dân ở nước ta không chi được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống
truyền thông, các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thông qua vai trò của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
c/ Các tổ chức chính trị - xã hội:
Vị trí: Thay mặt cho các thành viên tham gia quyền lực chính trị.
Chức năng: Tập hợp ý chí, nguyện vọng của các thành viên, phản biện, đóng góp các dự
thảo, chính sách Pháp luật và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cán bộ, đảng viên,
công chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Phương thức hoạt động:
• Tham gia vào quá trình hình thành tổ chức Nhà nước, MTTQ, các tổ chức thành viên;
tiến hành hội nghị hiệp thương; xem xét, lựa chọn, xác định ngườira ứng cử đại biểu
Quốc hội, HĐND; đề nghị HĐND bầu Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng; bổ
nhiệm lại kiểm sát viên, thẩm phán, tòa án nhân dân.
• Tham gia vào quá trình phản biện chính sách Pháp luật hoặc đề nghị Nhà nước điều
chỉnh, sửa đồi các văn bản Pháp luật hiện hành và được mời tham gia kì họp Quốc hội
và HĐND, phiên họp Chính phủ, UBND; phát biểu ý kiến để cơ quan Nhà nước thảo
luận quyết định.
• Tham gia vào quá trình giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân; tham gia
Hội đồng khen thưởng, nâng bậc lương, kỉ luật đối với cán bộ, công chức.

2


Câu 2. Phân tích các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và những
phương hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đề xuất
giải pháp góp phần bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; nhà nước tổ chức, hoạt động theo pháp luật, quản lý xã
hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.
1. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm,
nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Từ nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa có thể khái quát Nhà quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng sau:
a. Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đảm bảo tất cả các quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân là nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, trong đó, giai cấp công nhân đại diện
quan hệ sản xuất tiến bộ vì vậy, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân
dân, của dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Do đó, nhân dân là chủ thể tối cao quyền lực NN hoặc quyền lực NN thuộc vê nhân dân.
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh để có một Nhà nước vì dân thì trước hết Nhà nước đó
phải của dân và do dân:
Nhà nước của dân
Nhà nước của dân, là Nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân là người có địa vị
cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hồ Chí Minh luôn luôn
khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn là của dân; mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Trong nhà nước ta, dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, do đó người
cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước chỉ là người được dân ủy quyền có điều kiện và có thời
hạn để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước, do đó theo Hồ Chí Minh cán
bộ công chức nhà nước là công bộc, đầy tớ của dân. Và vì vậy bất cứ việc gì đều phải bàn bạc
với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và
trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các
bản hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo: Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Chẳng
hạn Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo: những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh

3


tế, văn hóa-xã hội, bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao
của nhân dân.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm
soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những
vấn đề quốc kế dân sinh. Đây là thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực
tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân
có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại
biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước phải xác định
được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử
tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và khi
không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn
tư cách đại biểu.
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa
là "dân là chủ". Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh còn cho rằng: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa
là nước do nhân dân làm chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ". "Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ".
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ nghĩa là xác định quyền,
nghĩa vụ của dân. Trong Nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội.
Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những
người lãnh đạo, những người đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình,
không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân: "cậy thế" với dân, "quên rằng dân bầu
mình ra để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường
phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày
2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt

Nam bởi vì Nhà nước đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của
đất nước.
Nhà nước do nhân dân làm chủ
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đây cũng là một kết luận mà Người rút ra khi khảo
sát các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nga. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết
dân tộc trong đó công, nông là gốc và trí thức ngày càng có vị trí quan trọng đặc biệt khi đất nước
bước vào thời kỳ xây dựng. Tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, giàu nghèo,
nòi giống, dân tộc, tôn giáo... đều là người chủ của Nhà nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới. Trong
nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ
4


chức ra, nhân viên nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân,
trở thành công bộc của nhân dân. Nhân dân là người tổ chức nên cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, kín để lựa chọn những người đủ
tiêu chuẩn bầu vào cơ quan nhà nước. Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ
quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, nhà nước không
còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến, tư bản.
Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua tổng tuyển
cử phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà nhân
dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân
chủ của nhân dân. Thông qua việc bầu Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện quyền lực của
mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc
bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt
động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được

phẩm chất, năng lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân”.
Với vai trò làm chủ nhà nước, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, các đại biểu được bầu
ra phải có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân với tinh thần
trách nhiệm bàn và giải quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế dân sinh. Để thể hiện nhân
dân lao động làm chủ Nhà nước thì đại biểu do dân bầu ra phải có mối liên hệ thường xuyên với
nhân dân; thoát ly mối liên hệ này, Nhà nước rất dễ rơi vào quan liêu, trì trệ, đứng trên đầu nhân
dân, trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có của Nhà nước kiểu mới.
Nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn bao hàm một nội dung quan trọng khác đó là
nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ
đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước “đẩy
thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Nhà nước do dân còn thể hiện ở vai trò tham gia
quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, các
đại biểu dân cử. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục
đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm
soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân
dân”.
Là người làm chủ Nhà nước, nhân dân có quyền, thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền
lực, nhưng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nước, làm cho Nhà nước
ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân
của một nước độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân gắn bó chặt chẽ với nhau.
Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân
Từ kiểu tổ chức nhà nước của dân và do dân, nhà nước ta mặc nhiên là nhà nước vì dân,
nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ
trên thực tế và trong hành động. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh
5


đã nêu bật sự khác nhau căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại

hình nhà nước trước đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Nhà nước được tổ chức và
hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân,
với phương châm “việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết
sức tránh”.
Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở hàng đầu đánh giá hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước vì dân là
Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là chăm lo các nhu cầu thiết yếu
nhất. Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành,
làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho
dân, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, nhà nước phải biết kết hợp điều chỉnh các loại lợi ích
khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân ủng
hộ, xây dựng, làm cho ai ai cũng thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích chính đáng của họ.
Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân
thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường.
Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Chức năng đối nội cơ bản của
Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo
Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc
lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân
có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi
ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước.
Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho được
định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho bộ máy thật sự trong sạch. Nếu hoạt động của
nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị
thoái hóa, biến chất thì nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân chủ nhân dân, trở thành một thế
lực đối lập với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền, một
số cán bộ, công chức “đã vác mặt làm quan cách mạng”, kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá

nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã
nảy sinh những “lỗi lầm rất nặng” làm biến dạng nhà nước. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những
căn bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người chỉ ra
thực chất, hình thức biểu hiện phong phú của các căn bệnh này, gọi đó là “giặc nội xâm” hết sức
nguy hiểm và gây hậu họa nghiêm trọng, làm thất thoát tiền của nhà nước, chậm tốc độ phát triển,
nhất là làm xói mòn niềm tin của dân, làm cho dân xa nhà nước.
Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu
cầu và việc làm thường xuyên, đảm bảo cho nhà nước thật sự là công bộc của dân. Nếu thấu hiểu
và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, công chức có thể phòng tránh, ngăn ngừa, không phạm
6


phải những lỗi lầm kể trên. Còn nếu “Ai đã phạm những lầm lỗi trên này thì phải hết sức sửa
chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Nhận thức và cảnh báo của Hồ Chí Minh về các nguy cơ, căn bệnh phát sinh trong quá
trình hoạt động của bộ máy nhà nước và cách phòng tránh, khắc phục chúng ngày nay vẫn còn
nguyên giá trị và có tính thời sự, soi đường chỉ lối cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt kết
quả cao, đảm bảo cho Nhà nước ta thật sự phục vụ quyền lợi của nhân dân, trở thành công bộc,
đầy tớ của dân.
Tư tưởng nhà nước của dân, do dân, vì dân của Đảng ta và Hồ Chí Minh là tư tưởng cốt
lõi, có tính quy luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Một nhà nước vì dân
khi và chỉ khi nhà nước đó là của dân, do dân tổ chức ra, giao quyền và giám sát hoạt động của
nhà nước. Để thực hiện nhà nước vì dân, Hồ Chí Minh rất quan tâm nhấn mạnh phải xây dựng
nhà nước thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi. Phải
kiên quyết loại bỏ các ông quan cách mạng ra khỏi bộ máy nhà nước.
b. Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực NN là thống nhất, nhưng có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013)
Quyền lực NNPQXHCN VN phải thống nhất để tránh tình trạng tranh giành quyền lực
giữa các nhóm lợi ích XH khác nhau. Quyền lực NN thuộc về nhân dân, và nhân dân thực thi

quyền lực của mình thông qua ủy quyền cho Quốc hội dưới hình thức bầu cử theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng trực tiếp bằng bỏ phiếu kín. Do đó, Quốc hội là cơ quan quyền lực NN cao nhất
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại, quyết định bố trí nhân sự
quan trọng trong bộ máy NN thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ
máy NN.
Phân công phối hợp kiểm soát quyền lực NN là nhằm phòng chống, độc đoán, chuyên
quyền, lộng quyền đứng trên pháp luật mà làm trái pháp luật của các cơ quan trong quá trình thực
thi quyền lực Nhà nước, nhằm mục đích bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý NN phục vụ nhân
dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà nước thống nhất là
ở Nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực nhà nước là ở Nhân dân thể hiện ở nguyên tắc “Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Trước đây, Hiến pháp cũng quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”
nhưng được thực hiện bằng nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước (tập quyền). Do đó, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân nhưng lại tập trung vào Quốc hội. Với nhận thức rằng,
Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhưng vì không thực hiện được quyền lực nhà nước
một cách trực tiếp nên đã trao toàn bộ quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội. Quốc hội
được Hiến pháp năm 1980 xác định là cơ quan có toàn quyền. Ngoài 15 nhiệm vụ và quyền hạn
quy định ở Điều 83, Hiến pháp 1980 còn quy định “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm
vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 83) đến Hiến pháp năm 1992, Điều 84 quy
định Quốc hội chỉ có 14 nhiệm vụ quyền hạn (không còn là một Quốc hội toàn quyền như Hiến
7


pháp năm 1980), nhưng Điều 6 Hiến pháp lại quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyên vọng
của Nhân dân…”. Như vậy, Quốc hội vẫn là Quốc hội toàn quyền trong Hiến pháp năm 1992 bởi
Nhân dân không thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp mà chỉ bằng
hình thức dân chủ đại diện. Nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước của Nhân dân vào Quốc

hội phù hợp với điều kiện kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, với ưu điểm bảo
đảm cho quyền lực nhà nước tập trung, quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng,
thống nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong điều kiện mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là thiếu
sự phân định phạm vi quyền lực nhà nước được Nhân dân giao quyền nên không đề cao được
trách nhiệm của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, hạ thấp vai trò dân chủ trực tiếp của
Nhân dân, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước. Hơn nữa, nguyên
tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các quyền nên đã hạn chế tính năng động, hiệu quả
và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân dân và xã hội không có sơ sở để đánh giá chất lượng hoạt
động của quyền lực nhà nước. Do vậy, trong điều kiện dân chủ và pháp quyền XHCN, tập quyền
không phù hợp với việc phát huy đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tiềm
ẩn nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước của Nhân dân từ phía các cơ quan nhà nước.
Nhận rõ hạn chế của nguyên tắc tập quyền trong điều kiện mới, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước,
Nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính
phủ và cho cơ quan tư pháp như các Hiến pháp trước đây. Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013,
Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập
hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và nhiệm vụ về quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và
các cơ quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền
biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (điều
29 và điều 120) … Có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mới
đúng, mới bảo đảm thực hiện đầy đủ, không hình thức. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước
được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân dân
chứ không phải tập trung ở Quốc hội. Quan niệm đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.
Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp
đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân dân, đều do Nhân dân ủy quyền, giao quyền.

Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội
dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là
xây dựng một nhà nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như Điều 3
Hiến pháp mới đã quy định.
8


Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên của Hiến pháp năm 2013 là cách
thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm của nhà nước trước Nhân dân, hạn chế sự
dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà Nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng
là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ
giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện
để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các
quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là Nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở Nhân dân, chủ thể tối cao và
duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà nước
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Mọi biểu hiện
xa rời quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân theo Hiến pháp năm 2013 đều dẫn đến
tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
“Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN thì quyền lực nhà nước không phải là quyền
lực tự có của nhà nước mà quyền lực được Nhân dân ủy quyền, Nhân dân giao quyền. Vì thế, tất
yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi
ủy quyền cho nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định
mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của Nhân dân là số đông chuyển thành số
ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền
lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của Nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy

cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng
của các loại tình cảm và dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý
tính đôi khi bị chìm khuất”. Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được
ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà Nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm soát
quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với người được ủy
quyền. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm
được một cách rạch ròi, vì nó là một thể thống nhất như nói ở trên. Điều đó lại càng đòi hỏi phải
kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước được
Nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được lượng hóa
bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền hạn của các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt
Nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để Nhân dân giao quyền
mà không bị lạm quyền, Nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các
quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề
cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực
nhà nước được giao cho mình. Theo đó, trong Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới
trong việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến (không còn là duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp năm 1992),
9


quyền lập pháp (Điều 69). Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là Chính phủ cũng có
quyền tham gia vào quy trình lập hiến, lập pháp (khoản 2 Điều 96). Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp (Điều 94), Tòa án Nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các
cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một thay đổi quan
trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi quyền.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền
nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rành mạch ba quyền đó ngày
càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi vì, xã hội càng phát triển, phân công

lao động càng phải chuyên môn hóa cao để phát huy hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng việc phân định mạch lạc ba quyền là cách thức tốt
nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là
sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không
chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung của quyền lực nhà nước. Do vậy,
mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn
toàn tách biệt nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt
động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhân dân giao
cho mỗi quyền được Hiến pháp – Đạo luật gốc của nhà nước và xã hội quy định. Mục đích của
việc phân công quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho tính
pháp quyền của nhà nước và phát huy dân chủ XHCN, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia
rẽ quyền lực nhà nước giữa các quyền. Ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân
định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để nhà nước hoạt động có
hiệu lực và hiệu quả, quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của Nhân dân, tính pháp
quyền của nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của Nhân dân, tính pháp quyền của nhà nước
ngày càng được đề cao.
Về kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài việc phân công mạch lạc nhiệm vụ quyền hạn của
các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp năm 2013 còn tạo lập cơ sở Hiến
định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao
cho: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân, Viện
kiểm sát Nhân dân, các cơ quan khác của nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm dẻo thì
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chủ yếu là kiểm
soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền
hành pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Uỷ ban thường vụ Quốc hội được bổ sung thêm
nhiệm vụ: Quyết định, thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính
dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8, Điều 74). Quốc hội được bổ sung thêm
nhiệm vụ quyền hạn: Phê chuẩn, đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức thẩm phán Tòa án

Nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Cùng với điều đó, Hiến pháp năm 2013 đã thiết lập thêm
hai thiết chế độc lập: Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội,
chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp (Điều 117) và Kiểm toán nhà nước
10


có nhiệm vụ giúp Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118).
Sự ra đời các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường các công cụ để Nhân dân
kiểm soát quyền lực nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính ngân sách nhà nước và tài
sản công một cách hiệu quả hơn.
c.
NN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối
cao của hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, bảo đảm tính hợp hiến
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến
pháp và các đạo luật phải giữ vị trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ,
công chức nhà nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà
nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có
thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật
dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp nói riêng và luật pháp nói chung.
Các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức và tổ chức, hoạt động của Nhà nước phải tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân (Điều 8 Hiến pháp năm 2013). Và mọi chủ thể trong xã hội (Nhà nước,
các tổ chức chính trị và xã hội, tập thể và cá nhân) đều phải tuân thủ nền pháp trị hay quản trị của
luật (luật pháp) mà Hiến pháp là bộ luật gốc và quy định khuôn khổ cho nền luật pháp.

d.
NN tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con
người; bảo đảm trách nhiệm giữa NN và công dân, thực hành dân chủ gắn với tăng cường
kỷ cương, kỷ luật.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước và các thể nhân, cá nhân đều
bình đẳng trước pháp luật. Tức là Nhà nước pháp quyền phải xác lập được thể chế bảo đảm cho
mọi thể chế nhà nước và xã hội, tập thể và cá nhân, không (và không thể) đòi hỏi cái ở ngoài hoặc
ở trên những điều được quy định trong Hiến pháp và luật pháp nói chung. Các thể chế, nhất là
thể chế hành pháp, tồn tại, hoạt động không rời rạc, mà là một thể thống nhất, chế ước lẫn nhau.
Bởi vì, tính hiệu lực, hiệu quả của mỗi thể chế chỉ có được khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực
hiện và thúc đẩy tính hiệu lực, hiệu quả của thể chế liền sát bên trên và liền sát bên dưới, cũng
như tất cả các thể chế khác. Trong điều kiện, môi trường thể chế như vậy, chỉ tòa án mới có quyền
phán xử việc tuân thủ luật pháp. Việc thực hiện pháp luật được bảo đảm bằng một hệ thống tòa
án độc lập. Hệ thống tòa án độc lập bảo đảm cho công dân có đủ khả năng và điều kiện chống lại
sự tùy tiện hay sự lạm quyền của Nhà nước; và từ đó hình thành, phát triển một cơ chế chặt chẽ
để kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của luật pháp và các hoạt động, kể cả hành vi, của bộ máy
lập pháp và hành pháp, ở ba khía cạnh: tổ chức; văn bản pháp luật (Hiến pháp, luật, văn bản quản
lý hành chính các cấp); đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
11


Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân,
được pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt Nhà nước, thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
e.
NN do ĐCS VN lãnh đạo, đồng thời, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Đảng đề ra những đường lối, chính sách phát triển xã hội phù hợp với quy luật và có đầy đủ
khả năng để tổ chức thực hiện thành công đường lối, chính sách đó. Đảng cộng sản VN là đảng

duy nhất lãnh dạo toàn diện và tuyệt đối hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở các
hình thức sau: định ra chiến lược, mục tiêu cơ bản, đường lối chính sách phát triển XH làm cơ sở
cho các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng tiến hành kiểm tra các hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đưòng lối chính sách của Đảng.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân
dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình. Các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật; tức là trong khuôn khổ luật pháp.
Giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong công tác tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ và các tổ chức đoàn thể. Xác định được tầm quan trọng
của công tác này, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đề ra giải
pháp để phát huy vai trò giám sát của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân, báo chí
và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW và số
218QĐ/TW về giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
f.
NN thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp
tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc
và điều ước quốc tế mà CHXHCN VN là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần cho sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
Thực hiện đường lối đối ngoại của đất nước ta trong thời kỳ mới được coi là một nhiệm
vụ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam hiện nay và được thể hiện trong Hiến pháp
2013 ở các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, mục tiêu của đường lối đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Thứ hai, nhiệm vụ của đường lối đối ngoại trong thời kỳ mới là giữ vững môi trường hòa
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thứ ba, phương châm của đường lối đối ngoại là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
12


và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế.
2. Phương hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước, cần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo
đảm.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật:
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước
ở trung ương, địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước gọn về tổ chức, hiệu quả trong
hoạt động, đáp ứng ngày càng tích cực hơn các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực của
chế độ pháp quyền.
Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo
hướng chuyên nghiệp, hiệu quả trong các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước. Hoạt động lập pháp của Quốc hội phải chuyển trọng tâm từ quy định
quyền của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan này, từ quyền
cho phép của công quyền sang quyền của công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Phát huy
dân chủ hơn nữa phương thức hoạt động của Quốc hội, tăng cường tranh luận, phản biện, giám

sát, đưa ra các quyết định dưới hình thức luật. Phát huy vai trò quan trọng của Hội đồng dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội trong việc xem xét để Quốc hội thông qua các dự án luật và quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước.
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân
Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong
bộ máy nhà nước
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
3. Đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về Nhân
dân
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất thật sự là công bộc
của dân: Cán bộ là gốc của công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu
13


then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng
chủ trương cần đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đạo đức cách mạng, phẩm chất,
năng lực và phong cách công tác gần dân, hiểu dân, học dân; là người am hiểu chính sách, pháp
luật, có liên hệ mật thiết với nhân dân; là người có tinh thần trách nhiệm, bao dung, thật sự là
công bộc của dân, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện
đúng ý chí, lợi ích, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công
dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ý
chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động hợp với quy luật, với sự vận động

và phát triển của thực tiễn khách quan chứ không phải là ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền
lực chủ quan của từng cá nhân cộng lại. Có hệ thống pháp luật và pháp chế hoàn chỉnh, là điều
kiện quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực và đội ngũ công bộc của mình, để tạo điều kiện
thuận lợi cho những công bộc thực sự của dân phát huy được vai trò, trách nhiệm trong phục vụ
nhân dân và để đào thải những công bộc đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, bảo đảm trật tự kỷ
cương xã hội, cuộc sống yên bình, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Ba là, nâng cao vai trò giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước: Quyền lực Nhà
nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền và nhân dân phải có quyền giám sát nhà
nước. Sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước là vấn đề đặc biệt quan trọng, là tất
yếu trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế
độ chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa, là phương thức mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm
chủ nhân dân ở nước ta hiện nay.
Bốn là, giải quyết tốt vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân: Quyền của công dân không tách
rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp
và luật quy định. Chỉ khi nào người dân tự ý thức được quyền cũng như nghĩa vụ công dân của
mình thì lúc đó dân chủ hóa mới được thực thi trong xã hội và xã hội mới thực sự trở thành xã
hội dân sự.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Nhà nước: Trong
hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Đảng có vai trò lãnh đạo Nhà nước và
nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ cách mạng. Kiểm
tra, giám sát là nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi cho công tác lãnh đạo nó thuộc về
chức năng lãnh đạo của Đảng, là thành tố quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
Sáu là, nâng cao dân trí. Muốn thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thì phải nâng cao
dân trí để giúp cho nhân dân hiểu biết đúng đắn về chính sách, pháp luật để thực hiện quyền làm
chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình, đồng thời hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ
và tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện của cán bộ, đảng viên; dân trí được nâng lên thì
nhân dân mới có khả năng, sáng kiến tham gia xây dựng nhà nước, sáng suốt chọn lựa đại biểu,
bổ sung chính sách, luật pháp.

14


Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì thế, thực hiện
có hệ thống các giải pháp này sẽ góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân
dân là chủ thể của quyền lực. Là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn
có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Quyền làm chủ của người dân ngày câng được phát huy, sẽ tạo động lực trong
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng, củng cố hệ thống chính trị.
Câu 3. Vẽ sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy mhà nước ta theo Hiến pháp hiện hành, (dùng 
chỉ mối quan hệ hình thành, dùng ---> chỉ mối quan hệ lãnh đạo, kiểm tra, giám sát).

(1): QH bầu ra TTCP, CTN, chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC
(2): Giám sát (đây là chức năng QH)
(4-5-6-7-10): giám sát và lãnh đạo (ngành dọc). Khác với (2), đây chỉ giám sát về chuyên
môn, nghiệp vụ.
(9): HĐND giám sát các cơ quan UBND cùng cấp vì đây là chức năng của HĐND
(3): CTN bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (miễn nhiệm là thôi không giữ chức vụ nữa
– mang ý nghĩa tích cực) Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ,
Phó chánh án TANDTC, Thẩm phán TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Kiểm soát
viên của VKSNDTC
Chính phủ: TTCP + Phó TTCP + Bộ trưởng + Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. TTCP do
QH bầu theo đề nghị của CTN. Các vị trí còn lại do CTN bổ nhiệm theo đề nghị của TTCP
và được QH phê chuẩn.
15


CTN: đề nghị TTCP, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC để QH bầu
(8): HĐND bầu UBND cùng cấp (bầu Chủ tịch, PCT, Ủy viên). Chủ tịch HĐND giới thiệu
người làm Chủ tịch UBND cùng cấp  HĐND bầu. Chủ tịch UBND giới thiệu PCT

UBND  HĐND bầu. Cơ cấu HĐND: Đại biểu HĐND + Thường trực HĐND + Các ban
HĐND + Tổ đại biểu HĐND (Đại biểu HĐND tự bầu ra Chủ tịch HĐND).
(11) CTN bổ nhiệm Thẩm phán TAND các cấp. Chánh án TANDTC bổ nhiệm Chánh
án và Phó chánh án TAND cấp cao/tỉnh/huyện.
(12) Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm VT, PVT, Kiểm sát viên của VKSND cấp
cao/tỉnh/huyện.
Bầu: Tập thể quyết định  Bầu – miễn nhiệm – bãi nhiệm
Bổ nhiệm: Cá nhân quyết định  Bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Câu 4. So sánh (giống và khác nhau) về vị trí pháp lý và chức năng giữa Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, giữa Chính phủ và Uỷ ban nhân dân. 1. So sánh giữa Quốc hội và Hội đồng
nhân dân
a Giống nhau:
Do nhân dân bầu ra trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu;
Có cơ quan thường trực;
Cơ quan quyền lực của Nhà nước;
Cơ quan đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân; Làm việc theo chế độ tập thể, biểu quyết theo đa số; Có
chức năng quyết định và giám sát.
b. Khác nhau
Quốc hội

Hội đồng nhân dân

Vị trí pháp lý:
• Là cơ quan đại biểu cao nhất
• Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình và của nhân dân cả nước




Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn:

• Ban hành nghị quyết




Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương
Đại diện cho ý chí và nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân.
Do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan cấp trên

• Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
• Thực hiện quyền giám sát ở địa phương
pháp
• Quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước về đối nội, đối ngoại
• Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước
16


2. So sánh giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân:
a. Giống nhau
Cơ quan hành chính Nhà nước;
Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp;

Cơ quan quản lí hành chính Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
Có chế độ làm việc tập thể và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu;
Người đứng đầu đều do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
b. Khác nhau:
Chính phủ

Ủy ban nhân dân

Vị trí pháp lý:

• Là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước •

CHXHCNVN
• Thực hiện quyền hành pháp
• Là cơ quan chấp hành của pháp luật

• Chính phủ bảo đảm việc chấp hành hiến pháp và pháp
luật

• Là cơ quan cao nhất đứng đầu hệ thống các cơ quan
hành chính thống nhất quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước

• Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm
• Chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội và báo
cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc
hội, Chủ tịch nước


Do HĐND cùng cấp bầu
Là cơ quan chấp hành của HĐND
Là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương
Chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ
quan hành chính cấp trên
UBND chịu trách nhiệm chấp hành
hiến pháp, pháp luật, các văn bản của
cơ quan hành chính NN cấp trên và
nghị quyết của HĐND cùng cấp
Thực hiện quản lý hành chính NN ở địa
phương nhằm bảo đảm thực hiện chủ
trương, biện pháp phát triển kinh tế, xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh và
thực hiện các chính sách khác trên địa
bàn



Thực hiện quản lý NN ở địa phương
góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý
thống nhất trong bộ máy hành chính
NN từ TW đến cơ sở.
Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước HĐND cùng cấp và UBND cấp
trên trực tiếp

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn:
• Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên mọi
lĩnh vực trong phạm vu toàn bộ lãnh thổ VN

• Chính phủ ban hành nghị quyết, nghị định.



• Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
• UBND ban hành quyết định, chỉ thị.

17


Câu 5. Phân tích bản chất, chức năng và vai trò các mối quan hệ của pháp luật XHCN Việt
Nam
Pháp luật là một hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Pháp luật XHCN là hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước XHCN ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của
Nhà nước, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước nhằm xây dựng chế độ
XHCN.
Bản chất (trang 140): Từ khái niệm trên ta thấy, bản chất pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng
được thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội như các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại. Nhưng, sự
biểu hiện của các bản chất đó có những điểm khác với bản chất pháp luật nói chung, thể hiện
dưới hai góc độ:
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị: Pháp luật Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân
Việt Nam: (i) Chỉ có mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam thì khi đó Nhà nước Việt
Nam mới có được hai điều: đi đúng hướng và đạt mục đích. Nhà nước ta đang đi lên CNXH để
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; (ii) Giai cấp công nhân Việt Nam được
trang bị hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên đã giúp Nhà nước

Việt Nam đi đúng hướng, đúng hướng mới có thể đạt được mục đích.
Thứ hai, dưới góc độ xã hội: Pháp luật Việt Nam là pháp luật của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam hoàn toàn
phù hợp với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Trong lịch sử xã hội, tương ứng với bốn kiểu nhà nước thì có bốn kiểu pháp luật: (i) Kiểu
pháp luật chủ nô là ý chí của giai cấp chủ nô công khai qui định quyền lực vô hạn của chủ nô còn
giai cấp nô lệ thì không có quyền gì; (ii) Kiểu pháp luật phong kiến là công cụ của nhà nước
phong kiến thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ, phong kiến; (iii) Kiểu pháp luật tư sản: Pháp luật
tư sản là một phương tiện của Nhà nước tư sản để thực hiện nên chuyên chính tư sản, bảo vệ chế
độ tư hữu tư bản và địa vị, quyền lợi của giai cấp tư sản; (iv) Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện
ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
Như vậy, pháp luật XHCN có bản chất tốt đẹp hơn các loại Pháp luật khác.
Chức năng của Pháp luật XHCN Việt Nam: Pháp luật XHCN Việt Nam có 3 chức năng:
Thứ nhất, chức năng điều chỉnh: Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội và định hướng
cho chúng vận động, phát triển theo ý chí của Nhà nước. Pháp luật Việt Nam không điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội nào mà Nhà nước cho là cần thiết.
Thứ hai, chức năng bảo vệ: Pháp luật bảo vệ các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh,
tránh cho chúng bị xâm hại. Ví dụ Luật Giao thông đường bộ cấm vượt đèn đỏ. Nếu vi phạm thì
sẽ bị phạt.
18


Thứ ba, chức năng giáo dục: Pháp luật tác động đến ý thức con người giúp họ tôn trọng,
thực hiện đúng pháp luật. Pháp luật giáo dục người vi phạm pháp luật và giáo dục người khác.
Vai trò của pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, vai trò của pháp luật đối với kinh tế: Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện
hàng đầu xác định địa vị pháp lí bình đẳng đối với các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập
các “khung pháp lí” để các chủ thể quản lí nhà nước dựa vào các chuẩn mực pháp lí để điều khiển

hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi, tin
cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện có hiệu quả.
Thứ hai, đối với hệ thống chính trị: Đối với sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật là phương
tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực
thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Đồng thời, pháp luật là phương tiện để Đảng
kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn. Mặt khác, pháp luật còn là phương tiện phân định
rõ phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lí, điều hành của Nhà nước.
Đối với Nhà nước, pháp luật là cơ sở pháp lí tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự
ghi nhận về mặt pháp lí trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân, công dân, là phương
tiện quản lí có hiệu lực đối với mọi mặt đời sống xã hội.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lí bảo đảm cho nhân dân
tham gia vào quản lí Nhà nước, quản lí xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình.
Pháp luật thể chế và phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm cho tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật để phản ứng, đấu tranh với các hành vi lạm quyền,
cưỡng chế ngoài quy định của pháp luật.
Thứ ba, đối với đạo đức và tư tưởng: Đối với đạo đức, các nguyên tắc căn bản của đạo đức
được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật, hay nói cách khác, giữa đạo đức và pháp luật có
sự đan xen về mặt nội dung. Do vậy, pháp luật XHCN bảo vệ và phát triển đạo đức XHCN, bảo
vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người.
Đối với tư tưởng, có thể nói, pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các
tư tưởng tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, pháp luật XHCN có vai trò quan trọng trong củng
cố và nâng cao nhận thức, tư tưởng cho con người dưới CNXH.
Thứ tư, vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập quốc tế: Pháp luật là công cụ,
phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của các quốc gia trên trường quốc tế.
Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình
hội nhập quốc tế.
Câu 6. Lấy ví dụ về văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
Từ đó phân biệt hai loại văn bản trên.
Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật (tức là chứa đựng các quy tắc xử sự chung, áp dụng

nhiều lần cho nhiều đối tượng). Ví dụ: Bộ luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, Nghị định 15
của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông ...
Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật: là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành để áp dụng một lần cho một đối tượng cụ thể. Ví dụ: Quyết định xử phạt vi hành
19


chính trong lĩnh vực an toàn giao thông, Bản án của toà án, Quyết định kỷ luật, Quyết đinh khen
thưởng ...
Dựa vào khái niệm trên, ta thấy văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm
pháp luật có những điểm giống và khác nhau cơ bản sau:
Giống nhau:
• Cả hai đều là văn bản do Nhà nước có thẩm quyền ban hành;
• Đều là văn bản được ban hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định chặt
chẽ;
• Đều là văn bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đưa các quan hệ xã hội đó
vào trật tự, ổn định và phát triển. Khác nhau:
Tiêu chí

Văn bản Quy phạm pháp luật

Văn bản áp dụng pháp luật

Chủ thể ban
hành

• Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền • Do cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền mà pháp luật quy định
theo quy định của Hiến pháp và luật
ban hành (rộng hơn)

ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(hẹp hơn)

Nội
dung, • Chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính • Cụ thể hóa qui tắc xử sự và chỉ áp
phạm vi tác
bắt buộc chung đối với mọi người.
dụng đối với một chủ thể nhất định.
động
Hiệu lực

• Áp dụng nhiều lần mà không làm mất • Áp dụng 1 lần, chấm dứt hiệu lực
hiệu lực pháp lí.
pháp lí.

Chủ thể thực
hiện

• Không xác định cụ thể

• Xác định cụ thể.

Trình tự ban
hành

• Phức tạp hơn (về chủ thể, về trình tự,
...)

• Đơn giản hơn.


Tên gọi

• Đa dạng

• Không đa dạng.

Câu 7. Lấy ví dụ về vi phạm pháp luật và phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật: là hình vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ do các chủ thể có năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại
cho xã hội.
Cấu thành của vi phạm pháp luật:
Yếu tố thứ 1 là chủ thể của vi phạm pháp luật: Chủ thể của vi phạm pháp luật phải có năng
lực trách nhiệm pháp lý. Đó có thể là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân.
Yếu tố thứ 2: là khách thể của vi phạm pháp luật. Khách thể của vi phạm là quan hệ xã hội
bị xâm hại, tính chất của khách thể là một tiêu chí quan trọng đẻ xác định mức độ nguy hiểm của
hành vi. Ví dụ hành vi xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tính mạng con người nguy hiểm nhiều
hơn hành vi gây rối trật tự công cộng.
20


Yếu tố thứ 3: là mặt khách quan của vi phạm pháp luật. Yếu tố này bao gồm các dấu hiệu:
hành vi trái pháp luật; hậu quả, quan hệ nhân quả.
Yếu tố thứ 4 là mặt chủ quan của vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan gồm các dấu hiệu thể
hiện: lỗi; động cơ, mục đích vi phạm.
Câu 8. Phân tích tính tất yếu phải tăng cường pháp chế và các biện pháp tăng cường pháp
chế XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Pháp chế XHCN là chế độ của đời sống chính trị xã hội trong đó Nhà nước quản lí xã hội
bằng Pháp luật, các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và
mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính

xác. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lí theo pháp luật.
Muốn có pháp chế cần có hai điều kiện: hệ thống pháp luật (điều kiện cần) và có các cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân để thực hiện pháp luật đó (điều kiện đủ).
Tính tất yếu phải tăng cường pháp chế:
Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật phải hợp lí và hợp pháp. Yêu cầu này đòi
hỏi tất cả các hoạt động tổ chức và thực hiện không thể trái với Hiến pháp và các văn bản luật.
Nội dung thể hiện:
Mặc dù các cơ quan Nhà nước ban hành ra Hiến pháp và các quy định pháp luật nhưng
không được vi phạm pháp luật, trái lại phải gương mẫu chấp hành.
Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành phải đảm bảo tính hợp lí và hợp pháp. Tính hợp
lí chính là sự phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; tính hợp pháp là việc ban hành phải đúng
thẩm quyền. Các văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới dù chiếm số lượng lớn trong hệ thống
pháp luật nhưng không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan cấp trên, không được trái với Hiến pháp và pháp luật.
Đảm bảo tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc. Pháp luật được ban hành,
nó phải được thực hiện như nhau trên phạm vi toàn quốc. Nhà nước không thừa nhận bất cứ một
đặt quyền, ngoại lệ nào trong lĩnh vực thực hiện pháp luật. Trong xã hội XHCN chỉ có một hệ
thống pháp luật và một kỉ luật Nhà nước chung cho mọi người. Mọi vi phạm phải được xử lí
nghiêm minh, bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một
cách tích cực, chủ động và có hiệu quả. Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế
nên cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ. Muốn vậy, phải đảm bảo cho các cơ
quan xây dựng pháp luật có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngoài
việc xây dựng pháp luật, việc tổ chức và thực hiện pháp luật cũng là một mặt quan trọng của nền
pháp chế. Muốn tăng cường pháp chế thì phải đảm bảo cho các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp
luật hoạt động có hiệu quả.
Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật (như Tòa án, Viện kiểm sát, ...) cần chú trọng các
biện pháp để đảm bảo cho các cơ quan này xử lí nhanh chóng, công minh và có hiệu quả các hành
vi vi phạm pháp luật.


21


Công tác xây dựng, củng cố pháp chế không thể tách rời với việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, nâng cao trình độ văn hóa cho toàn dân. Trình độ văn hóa nói chung và trình độ văn
hóa pháp lí nói riêng của viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình củng cố nền pháp chế XHCN. Trình độ văn hóa của dân chúng càng
cao thì pháp chế càng được củng cố, vững mạnh.
Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật: Từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, loại ra những văn bản không còn thích hợp với thực tế, chú trọng xây dựng và
ban hành những đạo luật mới. Pháp luật phải phản ánh đúng quy luật khách quan và nhu cầu xã
hội, phù hợp với đường lối chính sách của Đảng. Xây dựng pháp luật theo đúng thẩm quyền được
quy định trong Hiến pháp.
Thứ hai, tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo
dục pháp luật. Đảm bảo tuân thủ, sử dụng, thi hành và áp dụng đúng đắn pháp luật Đảm bảo
nguyên tắc: công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, Nhà nước được làm
những gì pháp luật cho phép.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật: Đây là trách
nhiệm chung của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Đảm bảo quyền khiếu
nại tố cáo của công dân đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tăng cường vai trò, vị trí, chức
năng và kiện toàn tổ chức của các cơ quan dân cử, cơ quan kiểm tra, thanh tra nhà nước, thanh
tra nhân dân.
Thứ tư, kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước và tư pháp: Tổ chức gọn, nhẹ, có chất
lượng cao, đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực quản lý. Đổi mới tổ chức và cách
thức làm việc của Chính phủ, sắp xếp lại Bộ, các cơ quan ngang Bộ; sửa đổi cơ cấu và phương
hướng làm việc của UBND, sở phòng ban một cách hợp lý. Kiện toàn, đổi mới một số vấn đề về
chức năng, nhiệm vụ của hệ thống tư pháp. Thực hiện cơ chế giám sát tính hợp hiến của luật, tính
hợp pháp của văn bản pháp quy. Cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ tư pháp phải là những người
nắm vững pháp luật.

Thứ năm, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tăng cường pháp chế XHCN: Công tác
tăng cường pháp chế phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến
cơ sở phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế. Tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng
lực. Mọi cơ quan, tổ chức, Đảng viên của Đảng phải thực hiện đúng pháp luật, không can thiệp
làm thay thẩm quyền của các cơ quan công chức Nhà nước.

22



×