Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Đề cương thảo luận trung cấp chính trị môn kinh tế chính trị 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.97 KB, 31 trang )

Câu 1. Hai thuộc tính của hàng hoá, liên hệ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam
1.1 Hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động nhằm thoả mãn nhu cầu con người thông qua trao
đổi, mua bán. Hàng hoá gồm có hàng hoá hữu hình (tồn tại dưới dạng vật thể ví dụ lương thực,
quần áo…) và hàng hoá vô hình (tồn tại dưới dạng phi vật thể ví dụ dịch vụ).
Hàng hóa có hai thuộc tính đó là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hoá
là công dụng hay tính có ích của hàng hoá, nó thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Mỗi
hàng hóa luôn có một hoặc một số công dụng nhất định. Ví dụ gạo có giá trị sử dụng nuôi sống
con người; Vải có giá trị sử dụng là để làm ấm, để thẩm mỹ hoặc để làm rèm che. Giá trị sử
dụng của hàng hóa có ba đặc điểm đó là:
(1)
Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật (tính chất lý, hoá, sinh…) quy định.
Do đó giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ dùng đồng làm dây điện
vì thuộc tính tự nhiên của đồng là có tính dẫn điện cao. Nhựa làm vỏ dây điện vì thuộc tính tự
nhiên của nó là cách nhiệt, cách điện. Hoặc cùng là chất lỏng nhưng chỉ có nước là được dùng
để giải khát so với dầu hỏa, hoặc acid. Và việc sử dụng nước để giải khát là một phạm trù vĩnh
viễn, trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai đều vậy.
(2)
Khoa học - kỹ thuật càng phát triển  công dụng của vật phẩm ngày càng được
phát hiện nhiều hơn. Ví dụ đầu tiên được dùng làm trang sức, rồi sau đó dùng làm tiền tệ bởi vì
sự quý hiếm và một số đặc tính khác của nó. Khi KHKT phát triển thì vàng còn được làm vi
mạch do trong các sản phẩm công nghệ cao do đặc tính dẫn điện tốt của vàng mà con người
phát hiện ra.
(3)
Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông
qua con đường trao đổi, mua bán (sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào…
do thị trường quyết định). Ví dụ cũng là chiếc điện thoại để nghe gọi nhưng có cái giá vài trăm
nghìn có cái giá vài trăm triệu, mục đích là để phục vụ cho nhu cầu của những tầng lớp người
khác nhau.
Về giá trị của hàng hoá, để nhận thức được giá trị của hàng hoá chúng ta phải thông qua
giá trị trao đổi của hàng hoá. Giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi


lẫn nhau giữa những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau. Ví dụ 1m vải đổi lấy 30kg thóc.
Hai hàng hoá khác nhau (vải và thóc) muốn trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ
sở chung giống nhau. Cái chung đó không thể là thuộc tính tự nhiên, không thể là giá trị sử
dụng, mà cái chung đó là do chúng đều là sản phẩm của lao động. Nhờ cái chung đó mà tất cả
các hàng hoá trao đổi được với nhau. Thực chất của trao đổi hàng hoá cho nhau là trao đổi lao
động ẩn giấu trong các hàng hoá đó. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không
có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao
động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Đặc điểm của giá trị: (1) Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng (xã hội) của người
sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó. (2) Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên
ngoài của giá trị, giá trị là nội dung bên trong của giá trị trao đổi. (3) Giá trị của hàng hoá là
một phạm trù lịch sử, thể hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá.
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, giá trị sử dụng
và giá trị vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Chúng thống nhất với nhau được thể hiện
1


bởi giá trị sử dụng và giá trị là hai mặt đối lập tồn tại thống nhất trong một hàng hoá, nếu thiếu
một trong hai thuộc tính thì sản phẩm không thể trở thành hàng hoá. Ví dụ ánh nắng, hoặc
không khí không phải là hàng hóa mặc dù sự sống sẽ không có nếu không có chúng. Giá trị sử
dụng chúng là cực kỳ to lớn nhưng chúng lại thiếu đi thuộc tính giá trị.
Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự mâu thuẫn. Xét về mặt giá trị sử dụng, hàng hoá không
đồng nhất về chất, còn xét về mặt giá trị hàng hoá đồng nhất về chất. Mâu thuẫn trong quá trình
thực hiện, quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau cả về không gian và thời gian
(về mặt thời gian thì giá trị luôn được thực hiện trước giá trị sử dụng. Ví dụ mua một món hàng
thì chúng ta trả tiền cho nó trước khi chúng ta sử dụng nó. Về mặt không gian thì giá trị được
thực hiện ở thị trường còn giá trị sử dụng được thực hiện ở khía cạnh tiêu dùng). Mối quan tâm
giữa người bán và người mua không giống nhau, mục đích của người sản xuất là giá trị hàng
hoá, mục đích của người mua là giá trị sử dụng của hàng hoá.
Người mua hàng không quan tâm tới giá trị của hàng hoá, nhưng để có được giá trị sử

dụng của hàng hoá, trước hết phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Người sản xuất không
quan tâm tới giá trị sử dụng của hàng hoá, nhưng để thu được giá trị của hàng hoá, trước hết họ
phải tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính như vậy vì lao động sản xuất có tính chất 2 mặt, lao động
cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới 1 hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp,
công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Do đó, lao động cụ thể tạo ra
giá trị sử dụng của hàng hóa. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều
giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội. Lao động trừu tượng là sự tiêu hao sức
lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa tạo ra giá trị của hàng
hóa. Ta có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa. Đây
chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá
trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị
ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn
giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao
động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã
hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản
xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng
hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng
là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng,
nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử
dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan
tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng
thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải
thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử
dụng.
2



Ý nghĩa khi nghiên cứu hai thuộc tính của hàng hóa: Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu
thuộc tính của hàng hóa giúp cho nhà sản xuất tiếp cận được với thị trường, nhu cầu và thị hiếu
của khách hàng, đề ra chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lý, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm,
đưa ra thị trường những hàng hóa người tiêu dùng cần chứ không phải đưa ra thị trường cái mà
mình có. Nghiên cứu hai thuộc tính của hàng hóa giúp đẩy mạnh phân công lao động, giúp phát
triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu hai thuộc tính, giúp hiểu được ý
nghĩa và tôn trọng cả hai thuộc tính, từ đó luôn tìm cách để nâng cao chất lượng, hạ giá thành,
tăng sự cạnh tranh của nền kinh tế hàng hóa.
1.2 Liên hệ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam
Hàng hóa được sản xuất ở nước ta hiện nay số lượng nhiều, mẫu mã được cải tiến, chủng
loại đa dạng, chất lượng ngày càng được nâng cao, giá cả phù hợp với khả năng thanh toán của
người tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, so sánh với hàng hóa
cùng chủng loại của các nước khác, thì hàng hóa của Việt Nam còn ít về số lượng, chủng loại
cũng như mẫu mã, chất lượng thấp nhưng giá lại cao do hao phí lao động của nước ta cao hơn
so với các nước khác, không đáp ứng cho nhu cầu XH. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ
khoa học kỹ thuật còn hạn chế, nhà sản xuất còn chưa quan tâm đến việc giảm giá thành sản
phẩm. Trình độ, năng lực của người lao động còn thấp. Mẫu mã, chủng loại còn hạn chế.
Giải pháp: Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, để
tăng khả năng cạnh tranh bình đẳng trong môi trường tự do hóa thương mại thế giới thì đòi hỏi
nhà nước cần đẩy mạnh CNH-HĐH với mục tiêu cải tiến năng suất áp dụng tiến bộ khoa học
nhằm giảm hao phí lao động, giúp giảm giá trị sản phẩm để giảm giá cả, tăng cạnh tranh. Phải
vận dụng hai thuộc tính hàng hóa bằng các qui định về kinh tế, qui định nhà sản xuất sao cho
phù hợp trên cơ sở khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu kinh tế xã hội đã đề
ra ở Đại hội XI của Đảng: Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó các nhà sản xuất phải chủ động, sáng tạo nhạy bén trong tổ
chức quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra
sản phẩm có chất lượng tốt, đẹp hơn, giá cả ổn định, có thể hạ giá thành để giành ưu thế trên
thị trường. Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hóa, đáp ứng nhu cầu đa
dạng và phong phú của xã hội. Phải coi trọng hai thuộc tính của hàng hóa để không ngừng cải

tiến mẫu mã, tạo ra hàng hóa phong phú đa dạng cả về số lượng, chất lượng để đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ví dụ đối với hàng hóa là dầu gội đầu Hương Bưởi Thorakao của Việt Nam, là một dầu
gội dầu tốt, có chất lượng đảm bảo, nhưng do nhiều yếu tố tác động như: trình độ khoa học kỹ
thuật còn hạn chế nên số lượng sản phẩm tạo ra còn thấp, chất lượng chưa được nâng cao, chủng
loại còn ít, nên hao phí lao động tạo ra cao, giá thành cao nên cạnh tranh còn thấp so với hàng
hóa về dầu gội đầu của các thương hiệu khác.
2. Liên hệ
a) Khái quát: Nước ta là 1 nước có nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhiều thành
phần, sản xuất đa dạng các loại hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và trao đổi, mua
bán trên thế giới. Do đó, sản xuất hàng hóa ở nước ta đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa hiện nay
phải luôn đảm bảo 2 thuộc tính giá trị sử dụng và gia tri b) Thực trang (ưu-nhược điểm) Đặc
điểm:
3


Nền kinh tế nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp
Công cụ lao động lạc hậu, nhiều lao động thủ công trinh độ cơ sở vật chất lạc hậu➔ chất
lượng sản phẩm kém ➔không có khả năng cạnh tranh
Hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ.
Nền kinh tế hàng hóa nước ta chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng
nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng
Nền kinh tế hàng hoá phát triển với chiến lược thị trường "hướng ngoại"
Thực trạng hiện nay
• Ưu điểm, Nhược điểm
• Sản lượng hàng xuất khẩu tăng đáng kể
• Thiếu vốn
• Xuất hiện nhiều loại mặt hàng hơn
• Khoa học kỹ thuật chưa phát triển đồng bộ

• Nhiều phương pháp sản xuất với khoa học kỹ thuật mới đã được sử dụng
• Chưa đánh giá đúng được giá trị sử dụng, giá trị hàng hóa nên chưa chú trọng những mặt
hàng có lợi
• Nền sản xuất hàng hóa hiện nay đã mang lại đời sống ổn định cho người dân
• Hầu hết giá cả hàng hàng hóa đều do Nhà nước quy định
• Khâu tổ chức và quản lý đã được chú trọng
• Sản xuất theo kiểu lạc hậu, bao cấp
• Được hưởng những ưu đãi từ thuế
• Hàng nội địa thường có chất lượng kém hơn hàng xuất khẩu
• Nền kinh tế nước ta hiện nay đang chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn
• Quy mô thị trường hàng hóa bị hạn chế (các tư liệu sản xuất không được coi là hàng
hóa)
• Lạm dụng tài nguyên do muốn sản xuất nhiều sản phẩm nên gây ô nhiễm môi trường
• Chủ yếu tồn tại các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, riêng lẻ không có sự liên kết
• 1 số nhà sản xuất chạy theo lợi nhuận gây hậu quả xấu
c)
Giải pháp











Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
Đưa ra chính sách thu hút đầu tư nước ngoài

Xác định rõ mặt hàng trọng yếu có sức cạnh tranh để đầu tư
Điều chỉnh cơ cấu ngành hợp lý
Phân công lao động phù hợp
Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Kích thích cạnh tranh để cải tiến đổi mới mẫu mã chất lượng
Phát triển, khai thác tốt giá trị sử dụng của hàng hóa
Tận dụng hiểu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất, điều kiện tự nhiên
Ứng dụng khoa học kĩ thuật, đầu tư đổi ms công nghệ
4








Xây dựng quảng bá cho các sản phẩm mang thương hiệu Việt
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ban hành chính sách định lượng về quản lý giá cả
Đầu tư cải tiến hàng xuất khẩu cũng như hàng trong nước
Xây dựng chiến lược sản xuất kỹ càng, đầy đủ
d)
Kết luận: Để vực dậy nền sản xuất hàng hóa vốn yếu kem của Việt Nam ta phải luôn coi
trọng cả 2 thuộc tính của hàng hóa để từ đó không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng,
hạ giá thành. Có thể nói nghiên cứu 2 thuộc tính này cũng như mối quan hệ giữa chúng sẽ có
đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế hàng hóa nói riêng và trong nền kinh tế thị trường
nói chung
Câu 2: Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam

2.1 Quy luật giá trị Khái niệm
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có
sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi
hoặc mua bán trên thị trường. Sản xuất hàng hóa ra đời là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Nội dung của quy luật giá trị
Nội dung chính của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Hao phí lao động xã hội cần thiết: Trên thị trường có vô số người bán và vô số người
mua. Mỗi người có sự hao phí lao động khác nhau nhưng giá trị hàng hóa phản ánh hao phí lao
động trung bình của xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết là hao phí lao động để sản xuất
ra hàng hóa trog điều kiện sản xuất bình thường, trình độ lao động bình thường và cường độ lao
động trung bình. Hao phí lao động xã hội quyết định lượng giá trị và có thể biến đổi tùy theo
sự biến đổi của năng suất lao động.
Do đó, sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội chính là sản
xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị hàng hóa. Điều đó thể hiện sự trao đổi các hàng
hóa ngang nhau về giá trị (giá cả = giá trị) hay nói cách khác đi là trao đổi theo nguyên tắc
ngang giá.
Nhìn bề ngoài, sản xuất và trao đổi hàng hóa như là việc riêng của từng chủ thể, họ độc
lập và hình như không chịu sự chi phối nào. Nhưng thực tế, những hoạt động đó đều chịu sự
chi phối của quy luật giá trị hay nói cụ thể hơn là quy tắc trao đổi ngang giá. Những ai có chi
phí thấp hơn so với chi phí mà xã hội thừa nhận thì người đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại
sẽ thua lỗ và phá sản.
Trao đổi ngang giá là trao đổi là trao đổi để bù đắp lại lượng lao động đã tiêu phí để sản
xuất ra hàng hóa đúng với thời gian lao động xã hội cần thiết. Trao đổi ngang giá là quy tắc trao
đổi hàng hóa một cách bình thường, phù hợp với yêu cầu của quy luật giá trị. Trao đổi ngang
giá phải đảm bảo nguyên tắc thuận mua vừa bán, người bán phải cung ứng cho người mua một
giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu người mua và ngược lại người mua phải trả đầy đủ cho
5



người bán chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa theo giá cả thị trường hiện
hành.
Như vậy nội dung của quy luật giá trị mang tính khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp
lý, bình đẳng giữa người sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Nội dung quy luật: Đây là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Sản
xuất và trao đổi hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của
nó tức là hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi
phí và có lãi thì yêu cầu của quy luật giá trị trong sản xuất là người sản xuất phải điều chỉnh
làm cho chi phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là
trao đổi theo nguyên tắc ngang giá đó là giá cả hàng hoá phải phù hợp với giá trị của nó.
Hình thức vận động của quy luật giá trị: Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự
lên xuống của giá cả thị trường. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, là
kết quả của sự thỏa thuận giữa người mua và người bán hàng hóa trên thị trường. Giá trị là cơ
sở của giá cả. Mức giá cả phụ thuộc vào lượng giá trị. Hàng hóa nào có nhiều giá trị thì giá cả
của nó sẽ cao và ngược lại. Tuy nhiên, do giá cả hàng hóa được thực hiện trên thị trường nên
ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của
đồng tiền, tình trạng độc quyền… Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên
thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó, có khi cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó
chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà
quy luật giá trị phát huy tác dụng. Trong các nền kinh tế hiện đại, giá cả còn biến động bởi sự
can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của nhà nước.
Các quy luật liên quan đến quy luật giá trị: Quy luật lưu thông tiền tệ; Quy luật cung cầu
hàng hóa dịch vụ; Quy luật cạnh tranh. Ba quy luật trên thực chất là phát sinh từ quy luật giá
trị. Chúng có tác dụng bổ sung và tạo ra cơ chế hoạt động cho quy luật giá trị.
Nếu sức mua của đồng tiền không đổi, không kể đến sự điều tiết của nhà nước, sự cạnh

tranh, độc quyền thì xảy ra ba trường hợp: (1) Khi cung = cầu thì giá cả = giá trị; (2) Khi cung
> cầu thì giá cả < giá trị; (3) Khi cung < cầu thì giá cả > giá trị. Sự tách rời của giá cả và giá
trị đó là biểu hiện của quy luật giá trị. Còn đối với tổng hàng hoá thì tổng giá cả phải ngang
bằng tổng giá trị của hàng hoá.
2.2 Tác động của quy luật giá trị
a.
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Điều tiết sản xuất là tức là điều hoà, phân
bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Quy luật giá trị giúp điều tiết sản xuất, lưu thông hàng hóa. Quy luật giá trị có thể làm
cho nguồn lực, nguồn vốn di chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Cung < cầu: khi một
hàng hóa nào đó mà người sản xuất cung ra thị trường ít hơn so với lượng mà người tiêu dùng
muốn mua, trên thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt. Lúc đó, giá cả hàng hóa cao hơn giá
trị, hàng hóa thu được nhiều lãi. Khi đó người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất đối với mặt
hàng này… Cung > cầu: Giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa cung ra thị trường không được tiêu
thụ hết, ế thừa khiến lợi nhuận giảm. Tình hình này buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô
6


sản xuất mặt hàng này đồng thời chuyển sang sản xuất hàng hóa khác có giá trị hơn. Cung =
cầu: đây là trạng thái cân bằng của thị trường mà người mua va người bán luôn mong muốn
hướng tới. Giá cả = giá trị. Tuy nhiên đây là trường hợp ngẫu nhiên, rất hiếm khi xảy ra. Ví dụ
cuối năm 2014 đầu năm 2015, nhiều người nông dân ở Tây Nguyên chặt cao su, cafe chuyển
sang trồng cây tiêu, mác ca do giá tiêu, mác ca tăng. Điều đó cho thấy tư liệu SX và sức lao
động đã có sự di chuyển từ trồng cao su, cafe sang trồng tiêu, mác ca làm cho diện tích trồng
cao su, cafe giảm xuống và diện tích trồng tiêu, mác ca tăng lên.
Đối với lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị giúp chuyển hàng hóa từ nơi có giá trị thấp
đến nơi có giá trị cao tạo ra sự cân bằng hàng hóa tạm thời giữa các vùng miền qua đó giúp
hàng hóa di chuyển giữa các vùng miền. Ví dụ miền Nam không trồng được vải vì vải là 1 loại
trái cây chỉ trồng được ở miền Bắc. Do người dân miền Nam có nhu cầu ăn vải và vải ở miền
Bắc trồng nhiều nên vải có xu hướng di chuyển từ miền Bắc vào miền Nam, cũng là di chuyển

từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao.
b.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực
lượng sản xuất phát triển nhanh:
Trong nền kinh tế hàng hoá, người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng hao
phí lao động xh cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi. Còn người có hao phí lao
động cá biệt nhiều hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt vì không thể thu được toàn bộ
lao động đã hao phí. Chính vì vậy để tồn tại được trong cạnh tranh thì người lao động phải tìm
cách giảm hao phí lao động xã hội cá biệt xuống mức tối thiểu có thể được bằng cách phải luôn
tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất
lao động. Do vậy mới đẩy mạnh được lực lượng sản xuất phát triển.
Ví dụ công ty dệt may An Phước đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao tay nghề
lao động, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để tránh lãng phí yếu tố đầu vào.
Ví dụ đối với ngành nông nghiệp trồng lúa, hao phí lao động cá biệt trong trồng lúa là
cao. Để giảm hao phí lao động cá biệt này xuống, người nông dân trồng lúa phải mở rộng diện
tích trồng lúa, thực hiện cơ giới hóa, tìm giống lúa mới có năng suất cao hơn, cũng như việc sử
dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhằm giảm hao phí lao động cá biệt xuống, để mang
lại lợi nhiều hơn.
c.
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người
nghèo, làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động
cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm
thêm TLSX, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận
lợi làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành
nghèo khó.
Ví dụ P/S và Tribeco của VN bị phá sản, mua lại bởi các Tập đoàn nước ngoài. Thời
gian vừa qua, do khó khăn kinh tế mà hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hàng
loạt.

Do đó quy luật giá trị sẽ kích thích những yếu tố tích cực phát triển và đào thải các yếu
tố kém. Nó đảm bảo sự bình đẳng của người sản xuất. Chính do các tác động của quy luật giá
7


trị đã làm cho sản xuất hàng hóa thực sự là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản. Như vậy,
quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực, do đó đồng thời với việc thúc
đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó.
2.3 Ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa XH thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất
bình đẳng trong XH. Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực. Nhận thức quy luật khách quan, tạo điều kiện cho quy luật hoạt động nhưng hạn chế tác
động tiêu cực
a.
Về điều tiết SX và lưu thông hàng hóa: Mặt tích cực là bình ổn thị trường; Buộc những
người sản xuất phải quan tâm đến nhu cầu thực sự của người tiêu dùng để sản xuất hàng hoá và
đưa hàng hoá tới nơi cần; Người sản xuất phải tích cực hơn, nhạy bén hơn sao cho cạnh tranh,
tìm kiếm thị trường, nghiên cứu thị trường... để SXHH cung cấp cho thị trường đáp ứng yêu
cầu tiêu dùng. Tuy nhiên cũng có mặt tiêu cực là dễ dàng chạy theo lợi nhuận, mất sự cân bằng
cung cầu, nền kinh tế rơi vào tình trạng mất cân đối; Gây bong bóng, sốt giá. Chính vì những
lý do này mà nhà nước cần phải thực hiện chính sách bình ổn giá khi thị trường sốt giá, biến
động lớn; Ký kết Hiệp định thương mại, gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực, TG để mở rộng
thị trường...
b.
Về kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá SX, tăng năng suất LĐ: Mặt tích cực là
buộc những người sản xuất hàng hoá phải quan tâm đến việc cải tiến khoa học kỹ thuật, cải tiến
trang thiết bị, nâng cao tay nghể, trình độ của người lao động để nâng cao giá trị sản phẩm. Tuy

nhiên mặt tiêu cực là do DN không có vốn nhiều nên phải đầu tư công nghệ lạc hậu =>, sản
xuất gây ô nhiễm môi trường, sản phẩm vẫn kém hơn sản phẩm nước ngoài, sử dụng nhiều hóa
chất, chất bảo quản gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Chính vì vậy vai trò nhà nước phải
đẩy mạnh CNH-HDH để phát triển LLSX, khuyến khích và hỗ trợ vốn cho DN đầu tư, áp dụng
công nghệ-KH-Kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào SX nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sp, giá
cả sp ngày càng rẻ, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng về chủng loại, đáp ứng nhu cầu
và thị hiếu của người tiêu dùng, ...Đề ra các chính sách về giá cả, chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù
hợp,...
c.
Về sự phân hóa giàu nghèo: Mặt tích cực là kịp thời loại bỏ ra khỏi nền kinh tế những
nhân tố yếu kém, lạc hậu, giữ lại những nhân tố tốt, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển;
Tạo động lực phát triển kinh tế, làm giàu cho nhân dân, khuyết khích người dân bỏ vốn, bỏ sức
ra làm ăn, phát triển kinh tế => làm cho DN năng động, sáng tạo, tăng tính cạnh tranh trong nền
kinh tế. Tuy nhiên mặt tiêu cực là trong cuộc canh tranh gay gắt, phần thua thiệt sẽ là những
người sản xuất nhỏ trong nước, điều này tạo nên sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế; Dễ
gây tình trạng phá sản, thất nghiệp dẫn đến nghèo đói, tệ nạn XH phát triển, gây bất ổn, mâu
thuẫn trong XH. Do đó vai trò nhà nước là thực hiện tốt chính sách an sinh XH, hài hòa hợi ích
các bên trong đầu tư phát triển kinh tế: chính sách thu hồi đất, tái định cư...; Thực hiện chính
sách thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, quỹ hỗ trợ người nghèo, BHXH, BHYT... để
giảm chênh lệch giàu nghèo; Thực hiện những chính sách đãi ngộ đặc biệt, trợ cấp, khuyến
8


khích họ học tập, phát triển, nâng cao trình độ dân trí, để có thể tiến kịp trình độ KH-KT hiện
đại và hòa nhập với một đất nước CNH-HDH trong tương lai. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng
cs cả về v/c lẫn tinh thần, chủ trương tài trợ và khuyến khích phát triển ở những địa phương,
những gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, tạo cơ hội cho họ phát triển, giúp họ có công ăn
việc làm ổn định…; Nhà Doanh nghiệp cần phải tuân thủ, thực hiện đầy đủ chính sách của nhà
nước về thuế và luôn cạnh tranh lành mạnh, tích cực
Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức đúng vấn đề, tầm quan trọng

trong việc đổi mới kinh tế, xã hội cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị mà
từ đó thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế tuân theo những nội dung của quy luật giá trị, nhằm
hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa XHCN đa dạng và đã được những thành tựu đáng
kể.
Câu 3. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản và lý luận hàng hoá sức lao động
3.1 Công thức chung của tư bản
Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, sản xuất TBCN vừa có điểm
giống vừa có điểm khác sản xuất hàng hóa giản đơn. Sản xuất hàng hóa giản đơn được mô tả
bằng công thức H-T-H, sản xuất hàng hóa TBCN được mô tả bằng công thức T-H-T’, trong đó
T’=T+Δt. Công thức T-H-T’ được gọi là công thức chung, phản ánh thực chất của quá trình sản
xuất TBCN, trong đó Δt là số tăng thêm hay số dư so với giá trị lúc ban đầu, CMac gọi là giá
trị thặng dư, kí hiệu là (m).
Trong công thức H_T_H tiền vận động với tư cách là tiền, làm phương tiện lưu thông.
Còn trong công thức T_H_T’ tiền vận động với tư cách là tư bản trong sự vận động của
chúng, những đồng tiền nào đi theo vòng lưu thông cuối cùng này đểu được chuyển hóa thành
tư bản, trở thành tư bản, và do mục đích của chúng cũng đã là tư bản.
Trong hai công thức trên, chúng giống nhau là đều phản ánh sự vận động của kinh tế
hàng hóa, đều bao hàm 2 hành vi mua và bán, đều có 2 nhân tố tiền và hàng, và đằng sau đó là
quan hệ giữa người mua và người bán. Nhưng 2 công thức ấy phản ánh 2 trình độ phát triển
khác nhau của kinh tế hàng hóa. Trong công thức H_T_H tiền chỉ làm môi giới, còn hàng hóa
là điểm xuất phát và điểm kết thúc; còn trong công thức T_H_T’ tiền chỉ là khoản ứng trước và
phải quay về điểm xuất phát với số lượng tăng thêm. Nếu tiền không quay về điểm xuất phát
thì quá trình vận động chưa trọn vẹn, tiền quay về càng nhanh thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Trong công thức H_T_H thì bán trước, mua sau, mục đích cuối cùng là giá trị sử dụng, đầu ra
là hàng hóa, còn đầu vào không nhất thiết là hàng hóa vì sức lao động không phải thông qua
mua bán và người sản xuất hàng hóa nhỏ mua càng ít càng tốt, nếu cần có thể tự tạo ra một số
TLSX (như tự đẽo lấy cày, tự làm đòn gánh…) và tự tiêu dùng 1 số TL sinh hoạt do chính mình
làm ra. Vì vậy, đây là kinh tế hàng hóa, nhưng chưa thể gọi là kinh tế thị trường. Trong công
thức T_H_T’ thì mua trước, bán sau, mục đích cuối cùng là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm
về lượng, nếu không thì quá trình vận động trở thành vô nghĩa. Toàn bộ các yếu tố đầu vào và

đầu ra đều phải thông qua thị trường, kể cả sức lao động. Do đó, đây là biểu hiện kinh tế thị
trường, trình độ cao của kinh tế hàng hóa.

9


Sự vận động H_T_H có giới hạn ở mục đích cuối cùng là sự tiêu dùng nằm ngoài quá
trình lưu thông còn sự vận động T_H_T’ là sự vận động không ngừng, chừng nào còn là TB thì
tiền còn phải tiếp tục vận động. Chính vì thế T_H_T’ là công thức chung của tư bản.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư, tiền chỉ được xem là tư bản khi nó được dùng
để mang lại giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động, do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư thể hiện bản chất
bóc lột của quan hệ sản xuất TBCN, muốn thu được giá trị thặng dư thì hàng hóa phải được bán
đi.
Ví dụ nhà tư bản thuê một công nhân để chuyển 10kg bông thành 10kg sợi, làm việc
trong 8 giờ với tiền công là 3$. Nhà tư bản ứng ra 10$ để mua 10kg bông, và khấu hao máy
móc để chuyển thành 10kg sợi là 2$. Giả sử trong 4h lao động, công nhân đã chuyển hết 10kg
bông thành 10kg sợi và giả sử lượng giá trị mới công nhân làm thuê tạo ra ngang bằng với giá
trị sức lao động, nghĩa là 10kg sợi có giá là 15$ (bao gồm 10$ tiền bông, 2$ khấu hao máy móc
và 3$ trả công cho công nhân theo thỏa thuận làm việc 8h). Như vậy giá trị lúc này được tạo ra
ngang bằng với lượng hao phí đã bỏ ra, do đó chưa có giá trị thặng dư. Giả sử quá trình lao
động tiếp tục được kéo dài thêm 4h, với những điều kiện không đổi, nhà tư bản chỉ cần ứng
thêm 10$ để mua bông, 2$ khấu hao máy móc sẽ tạo ra được 10kg sợi với giá trị 15$. Như vậy
tổng giá trị người lao động làm thuê tạo ra trong 8h là 30$, trong khi đó tổng chi phí nhà tư bản
phải bỏ ra là 27$. Phần chênh lệch 3$ mà nhà tư bản thu về được gọi là giá trị thặng dư.
3.2 Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Sự vận động T_H_T’ dường như mâu thuẫn với các quy luật của sản xuất hàng hóa,
dường như giá trị thặng dư do lưu thông hàng hóa sinh ra nhưng theo C.Mác thì giá trị chỉ được
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Phải phân tích mâu thuẫn sau đây: “TB ko thể xuất hiện từ lưu
thông và cũng ko thẻ xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và

đồng thời ko phải trong lưu thông”.
Giá trị thặng dư không thể xuất hiện từ lưu thông. Xét ở 2 tình huống là trao đổi ngang
giá và trao đổi không ngang giá:
Đầu tiên là trao đổi ngang giá hàng hóa và tiền có cùng một giá trị nên ko ai rút được từ
lưu thông ra nhiều giá trị hơn là số bỏ vào trong đó. Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì
chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị
cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi.
Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi vì có được những hàng hoá
thích hợp với nhu cầu của mình. Như vậy, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá không tạo ra giá
trị thặng dư.
Xét trường hợp trao đổi không ngang giá: Xảy ra ba trường hợp: Trường hợp thứ nhất,
nếu giả định mọi người đều bán hàng hóa cao hơn giá trị. Trong thực tế không có nhà tư bản
nào lại chỉ đóng vai trò là người bán hàng hóa, mà lại không là người đi mua các yếu tố sản
xuất để sản xuất ra các hàng hóa đó. Do đó khi là người mua, họ lại phải mua cao hơn giá trị.
Do đó, số lời mà họ thu được khi là người bán thì sẽ mất đi khi là người mua. Hành vi bán hàng
hóa cao hơn giá trị đã không hề mang lại một chút giá trị thặng dư nào. Trường hợp thứ hai,
nếu giả định mọi người đều mua hàng hóa thấp hơn giá trị. Trong trường hợp này cũng tương
tự như trường hợp ở trên, cái mà anh ta thu được do mua rẻ, sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán
10


vì cũng phải bán thấp hơn giá trị thì các nhà tư bản khác mới mua. Rút cục giá trị thặng dư vẫn
không được đẻ: từ hành vi mua rẻ. Trường hợp thứ ba, giả định trong xã hội tư bản có một số
kẻ giỏi bịp bợm, lừa lọc, bao giờ họ cũng mua được rẻ và bán được đắt. Tình huống thứ ba chỉ
diễn ra sự phân hóa giá trị có lợi cho kẻ bịp bợm đó và thiệt hại cho những người bị lừa gạt,
còn giá trị nằm trong lưu thông không tăng thêm lên được một nguyên tử nào.
Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì giá trị thặng dư mà họ thu được lại chính là cái mà
người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hóa trong xã hội không vì hành vi cướp đoạt, lừa
gạt của họ mà tăng lên. Ăn cắp lẫn nhau trong cùng giai cấp không thể là cách làm giàu phổ
biến của giai cấp tư sản được. Giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình. Sau

khi xem xét, lật đi lật lại vấn đề thì lưu thông vẫn không thể đẻ ra giá trị, không thể làm tăng
thêm giá trị được, dù trao đổi ngang giá hay trao đổi không ngang giá. Như vậy lưu thông đã
không đẻ ra giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá trị thặng dư có thể đẻ ra ở ngoài lưu thông?
Tiền để ngoài lưu thông (như để trong két sắt) cũng không thể sinh ra giá trị thặng dư.
Phải đưa tiền vào lưu thông để mua các yếu tố sản xuất và làm ra hàng hóa để bán thì mới có
thể thu được giá trị thặng dư. Như vậy giá trị thặng dư sinh ra từ đâu, đó là mâu thuẫn. Đến đây,
C. Mác đã khẳng định “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong
lưu thông”. Đây chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. Vấn đề ở đây
là người có tiền cần phải tìm thấy trên thị trường một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó, thì
sáng tạo ra được giá trị, hơn nữa lại sáng tạo ra một giá trị lốn hơn giá trị bản thân nó. Nói cách
khác, người có tiền phải tìm thấy trên thị trường một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng
của nó có thuộc tính là nguồn gốc của giá trị. Hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao động.
3.4 Lý luận hàng hoá sức lao động
Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong
quá trình lao động. Theo Mac “sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ những nhu cầu của
chính đời sống con người.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: Đầu tiên là người lao động phải được tự
do về thân thể sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa, nếu nó do bản
thân người có sức lao động đưa ra bán. Vậy người lo động phải được tự do về than thể, có quyền
sở hữu sức lao động của mình thì mới đem bán sức lao động được (ví dụ thời kỳ chiếm hữu nô
lệ, người nô lệ không được tự do về thân thể). Thứ hai là người lao động buộc phải bán hoặc
mong muốn bán sức lao động của mình do người lao động mất hết TLSX chủ yếu buộc phải
bán sức lao động để tồn tại hoặc người lao động có TLSX nhưng không có khả năng tổ chức
SX hoặc có khả năng nhưng kém hiệu quả.
Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Khi sức lao động trở thành hàng hóa nó cũng
có 2 thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, nhưng đây là một loại hàng hóa đặc biệt nên giá trị

và giá trị sử dụng của nó có những nét đặc thù so với hàng hóa đặc thù.
Giá trị của hàng hóa sức lao động: Cũng như các hàng hóa khác giá trị của sức lao động
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và để tái sản xuất ra sức lao động.
11


Tái sản xuất ra sức lao động là duy trì cuộc sống của người lao động. Muốn vậy, cần có 1 số tài
liệu sinh hoạt nhất định nên thời gian LĐ xã hội cần thiết để sản xuất ra sức LĐ được quy thành
giời gian LĐ cần thiết để tái sản xuất ra những TL sinh hoạt ấy hay nói cách khác giá trị của
sức LĐ là giá trị của những TL sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức LĐ
ấy.
Tuy nhiên, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao
hàm cả yếu tố lịch sử, tinh thần. Giá trị của sức LĐ bao gồm: Thứ nhất là giá trị những tư liệu
sinh hoạt để duy trì cuộc sống của bản thân người LĐ. Sức LĐ chỉ thực hiện trong LĐ. Trong
quá trình LĐ phải hao phí 1 lượng nhất định về cơ, thần kinh, não…. Sự hao phí đó phải được
bù lại. Do đó, phải đủ TL sinh hoạt để duy trì thể lực và sức khỏe của người LĐ như trước. Bản
thân những nhu cày tự nhiên như thức ăn, quần áo, chất đốt, nhà ở… cũng khác nhau tùy theo
khí hậu và những đặc điểm thiên nhiên khác của từng nước. Thứ hai là giá trị những TL sinh
hoạt cho những người sẽ thay thế. Người sở hữu sức LĐ sẽ phải về hưu hay chết. Những sức
LĐ biến khỏi thị trường LĐ ấy cần phải được thường xuyên thay thế bằng những sức LĐ mới,
ít ra cũng với con số ngang như thế. Vì vậy, tổng số những TL sinh hoạt cho những người thay
thế đó, tức là cho con của những người LĐ. Thứ ba là chi phí đào tạo, muốn cho sức LĐ trở
thành 1 sức LĐ phát triển và đặc thù thì cần phải có 1 trình độ học vấn hay giáo dục nào đó nên
phải có những chi phí đào tạo theo tính chất phức tạp của sức LĐ. Do đó, những chi phí ấy đều
gia nhập vào tổng só những giá trị được chi phí để sản xuất ra sức LĐ và tiền công cho LĐ phức
tạp phải cao hơn LĐ giản đơn, vì LĐ phức tạp là bội số của LĐ giản đơn.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức LĐ: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện
ở quá trình tiêu dùng sức lao động tức là quá trình lao động của công nhân để sản xuất ra một
hàng hóa, một dịch vụ nào đó. Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động
khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình

tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian,
trái lạitrong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, phần dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm
đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc
sinh ra giá trị, tức là nó có thể sinh ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc
điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
Giá trị sử dụng hay hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra khi tiêu dùng sức LĐ, tức
là trong quá trình LĐ tạo ra hàng hóa. Trong quá trình này sức LĐ tạo ra 1 lượng giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân nó tức là tạo ra giá trị thặng dư. Nhưng trong phương thức sản xuất
TBCN thì tiền công chỉ được trả sau khi sức LĐ đã hoạt động trong 1 thời gian nhất định theo
quy định của hợp đồng mua sức LĐ đó, nên tiền của người mua làm chức năng phương tiện
thanh toán. Khi hợp đồng được ký kết thì giá trị sử dụng của sức LĐ chưa thật sự chuyển sang
tay người mua. Cái mà người mua quan tâm là quá trình tiêu dùng sức lao đọng, đồng thời là
quá trình sản xuất ra hàng hóa và giá trị thặng dư, cái mà họ quan tâm là giá trị mới do sự hoạt
động của sức LĐ tạo ra phải lớn hơn giá trị của sức LĐ. Người LĐ chỉ có thể tiếp tục hàn sức
LĐ của mình để nhận tiền công, chừng nào còn đáp ứng được nhu cầu ấy của người mua. Dù
tiền công tính theo thời gian hay tiền công tính theo sản phẩm thì người LĐ cũng chỉ nhận được
phần LĐ tất yếu, còn phần LĐ thặng dư thuộc về người mua sức LĐ. Bởi vậy, người LĐ phải
12


đảm bảo 1 năng suất LĐ, một cường độ LĐ và một độ dài thời gian LĐ nhất định để tạo ra 1
lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức LĐ thì mới có quyền đòi hỏi tiền công ngang với giá trị
sức LĐ.
Như vậy hàng hóa sức lao động là chìa khóa giải thích cho công thức chung của tư bản,
giải thích nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Câu 4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh và rút ra ý nghĩa của việc
nghiên cứu.
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân
làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư thể hiện bản chất bóc lột của quan hệ

sản xuất TBCN, muốn thu được giá trị thặng dư thì hàng hóa phải được bán đi.
4.1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Là phương pháp được thực hiện bằng cách kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao
động xã hội cần thiết khi năng suất lao động xã hội, thời gian lao động xã hội cần thiết không
thay đổi. Ví dụ ngày lao động có độ dài 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động
thặng dư là 4h, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 4h, tỷ
suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu ngày lao động kéo dài thành 10h, trong khi năng suất lao
động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi, giá trị thặng dư tuyệt đối
được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6h và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành
150%.
Để có được giá trị thặng dư tuyệt đối có thể sử dụng các biện pháp như kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu càng dài càng tốt hoặc tăng cường độ lao động. Do
đó, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối bị giới hạn bởi thời gian trong ngày và tình hình sức khỏe,
tâm sinh lý của người công nhân. Việc áp dung phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
thường gây ra sự phản kháng của công nhân làm thuê.
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Là phương pháp được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong
khi độ dài ngày lao động không thay đổi nhờ tăng năng suất lao động trên phạm vi toàn xã hội.
Ví dụ ngày lao động có độ dài 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư
là 4h, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 4h, tỷ suất giá
trị thặng dư là 100%. Nếu ngày lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn
3h thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%. Nếu ngày lao động rút ngắn còn 7h, thời
gian lao động tất yếu giảm xuống còn 2h thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%.
Để thu được giá trị thặng dư tương đối, cần rút ngắn thời gian lao động tất yếu. Để rút
ngắn thời gian lao động tất yếu cần phải hạ thấp giá trị sức lai động. Mà muốn hạ thấp giá trị
sức lao động thì phải tìm cách hạ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động
thông qua các biện pháp tăng năng suất lao động trong những ngành sản xuất tư liệu sản xuất
để sản xuất tư liệu sinh hoạt và trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt.
Quá trình tăng năng suất lao động diễn ra trong thực tế trước hết ở một hoặc một số

doanh nghiệp. Những doanh nghiệp đi đầu trong việc ứng dụng công nghê mới, cải tiến quản
lý hay tận dụng được những điều kiện sản xuất thuận lợi sẽ tăng năng suất lao động cá biệt,
giảm giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường, từ đó sẽ thu được một số giá trị
13


thặng dư vượt trội so với các doanh nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị
thặng dư siêu ngạch.
4.2. So sánh 02 phương pháp
a. Sự giống nhau
Đều có mục đích là kéo dài thời gian lao động thặng dư để tao ra giá trị thặng dư ngày
càng lớn cho nhà tư bản.
Đều thể hiện được mâu thuẫn đối kháng của hai giai cấp: giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, nghĩa là Mâu thuẫn giai cấp sẽ diễn ra. b. Sự khác nhau
Phương pháp sản xuất giá trị thặng Phương pháp sx giá trị thặng dư
dư tuyệt đối
tương đối
Biện pháp để thực Kéo dài ngày lao động, (tăng cường độ Tăng năng suất lao động (qua việc
hiện
lao động)
đưa máy móc thiết bị vào quá trình
sx)
Giới hạn

Độ dài ngày lao động, (độ dài của ngày Trình độ của người lao động Vốn
tự nhiên là 24 giờ)
Tâm lý và thể chất, tinh thần, sức khỏe
của người lao động có giới hạn

Thời điểm được Giai đoạn đầu của CNTB khi kinh tế Giai đoạn sau của CNTB khi kinh

sử dụng phổ biến và KHCN còn lạc hậu, kém phát triển. tế và KHCN đã phát triển.
Mâu thuẫn giữa 2 Mâu thuẫn được đẩy cao, ngày càng Mâu thuẫn được xoa dịu, giảm
giai cấp
gay gắt
bớt.
4.3. Ý nghĩa nghiên cứu (lý luận và thực tiễn)
a. Lý luận: Hai phương pháp này cho ta thấy bản chất của CNTB là bóc lột lao động làm thuê.
Giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của CNTB, không những phản ánh mục đích
mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện để đạt mục đích của nên SXTBCN.
Mục đích trực tiếp của SXTBCN không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng và cũng không
phải vì sản xuất ra giá trị nói chung, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư. Đối với tất cả các nhà tư
bản, giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
Phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư ngày càng
lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động. Phương tiện để
đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại trên cơ sở hình thành và phát
triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của
CNTB.
Quy luật giá trị thặng dư tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của XHTB. Nó quyết định toàn
bộ quá trình phát sinh, phát triển của CNTB và sự thay thế CNTB bằng 1 xã hội mới, cao hơn.
Nó là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy phát triển kỹ thuật, công nghệ, phân công lao động, xã
hội hóa sản xuất; nó lôi cuốn mọi hoạt động sản xuất và thu hút toàn bộ lao động xã hội vào
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.
14


Tuy nhiên do tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của nền sản xuất
TBCN diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác động của quy luật này làm cho mâu
thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư
nhân TBCN – và nói chung, toàn bộ mâu thuẫn của CNTB ngày càng sâu sắc, tạo cơ sở kinh
tế, XH quyết định địa vị lịch sử của CNTB.

Sự mẫu thuẫn đối kháng trong CNTB ngày càng sâu sắc => tất yếu sẽ được thay thế bằng
01 PTSX tiến bộ hơn => loài người sẽ tiến lên CNCS là 01 quy luật tất yếu. b. Thực tiễn
Đây là phương pháp tăng giá trị mới cho nền kinh tế, phát triển KT-XH cần được áp
dụng trong nền KT nước ta. Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì vận dụng
các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối và giá trị thặng dư siêu ngạch trong các doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật - công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí
sản xuất.
Hiện nay, Việt Nam vận dụng 2 phương pháp này như sau: Phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối: tăng ca (tối đa 200giờ/năm) nhưng phải đảm bảo sức khỏe của người lao
động, đảm bảo có đủ thời gian để tái tạo sức lao động, tăng thêm thu nhập cho người lao động
để tránh phát sinh mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và người lao động. Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối: đẩy mạnh công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước
để phát triển LLSX, ứng dụng KHCN để tăng năng suất lao động của xã hội.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Sản xuất giá trị thặng dư việc nghiên cứu hai phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích
và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong
các doanh nghiệp nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ
thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất. Đối với quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà
hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng
triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi
trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được vận dụng và công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Giá trị thặng dư là do lao động không
công của công nhân lao động làm thuê tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của
giai cấp tư sản. Trong xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của con người
công nhân không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không còn tồn tại mà giá

trị thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị
thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ nghĩa. Vì con người không tách ra khỏi xu hướng của
xã hội, Việt Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào công cuộc dây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một nhiệm vụ hàng đầu, đây
cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình sản xuất phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
15


kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là sử dụng một
cách phổ biến công nghệ, phương tiện tiêu biểu,hiện đại hóa là quá trình tạo ra những tiền đề
về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hóa – hiện đại
hóa là cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đạt
tới năng suất lao động xã hội cao, tạo thành sự đổi mới trong tất cả các ngành nghề lĩnh vực.
Là một nước tiến lên xã hội chủ nghĩa và không qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản. Vì
vậy, chúng ta không được thừa kế tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những
sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức
tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa
vượt qua những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản xuất xã hội và
dự trữ “tất cả những cái đó đã đang và sẽ mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về
chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa”. Chúng
ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có
nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa mặc dù có sản xuất hàng hóa. Cái thiếu của
đất nước ta là chưa chải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu tư bản chủ
nghĩa. Đất nước ta đang đứng trước một nhiệm vụ cháy bỏng và tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt
đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa sẽ tạo ra ngày
càng nhiều giá trị thặng dư dù chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không
thể đạt được những mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải rút ngắn những quá

trình tất yếu mà chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh tế thị
trường như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều giai đoạn phân công lao
động, khi khoa học công nghệ phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư của chủ nghĩa
tư bản đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự. Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có
phương hướng khai thác và vận dụng những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị
thặng dư một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải nhận thức lại hàng hóa sức lao động không
phải là phạm trù riêng có của chủ nghĩa tư bản và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định
lượng cũng vậy. Nó tồn tại như một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt
khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích lũy để mở rộng và hiện đại hóa sản xuất
kinh doanh, là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải: Tìm mọi
cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của lao động thặng dư; Tuân
thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư, và sử dụng nó. Đó là nguyên tắc bảo tồn vốn và
nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng được tăng
thêm giá trị.
Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động. Vấn đề thu hồi giá
trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư
đã được Lê Nin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn vấn đề đặt cho chúng ta là:
Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất phần giá trị thặng dư vào ngân sách nhà
nước. Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện
mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
16


Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội.
Ngăn chặn được những ma lực hút sự vận động của nền kinh tế đi lệch khỏi quỹ đạo xã hội chủ
nghĩa. Kết quả phát triển khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm vừa qua nước ta
đã xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình. Chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển
kinh tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là
hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam cần phải cố gắng nhiều hơn nữa

thì mới có thể đạt được được mục tiêu.
Kết luận
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp chúng ta thấy rằng:
mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân và thực hiện dân dàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài,
gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn
thử thách và hi sinh cần thiết để đưa đất nước ta, dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó
là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và đang cố gắng.
Câu 5. Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản.
5.1. Khái niệm tích lũy TB
Là tư bản hóa giá trị thặng dư để thực hiện tái sản xuất mở rộng qua việc biến một bộ
phận giá trị thặng dư thành tư bản bất biến và tư bản khả biến phụ thêm.
Tích tụ TB do yêu cầu của việc mở rộng SX, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Mặt khác, khi
khối lượng GTTD tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ TB mạnh hơn.
5.2. Tính tất yếu khách quan của tích lũy tư bản
Đáp ứng nhu cầu của tái sản xuất mở rộng nền kinh tế TBCN.
Để có ưu thế trong cạnh tranh.
Đẩy mạnh ứng dụng KHKT, đổi mới công nghệ.
Bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân.
Động cơ thúc đẩy tích luỹ tư bản chủ nghĩa là do tác động của các qui luật kinh tế khách quan
của chủ nghĩa tư bản.
• Quy luật sản xuất m: Để đạt được mục đích sản xuất ngày càng nhiều m thì từng nhà tư
bản không ngừng tích luỹ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao m’
• Quy luật cạnh tranh: Để dành lợi thế trong cạnh tranh thì không ngừng phải tích luỹ,
mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
5.3 Thực chất của tích lũy tư bản: Được thể hiện thông qua quá trình tái sản xuất TBCN. Quá
trình này được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng gọi là tái sản xuất.
Nội dung của tái sản xuất: Tái sản xuất ra của cải vật chất; Tái sản xuất ra sức lao động;
Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.

Hình thức tái sản xuất dựa trên quy mô: gồm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng. Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản như cũ, nhà tư
bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư. Ví dụ một nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 triệu
USD (80 dùng để mua TLSX, 20 dùng mua sức lao động); m’= 100%. Quy mô sản xuất năm
thứ nhất: k= 80c+20v. Kết quả: G=80c+20v+20m= 120 (tiêu dùng hết 20m). Quy mô sản xuất
năm thứ hai: k = 80c+20v (giống như năm thứ nhất). Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất
17


được lặp lại với quy mô tư bản lớn hơn trước, nhà tư bản không dùng hết giá trị thặng dư mà
biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng. Ví dụ một nhà tư bản có
lượng tư bản ứng trước là 100 triệu USD (80 dùng để mua TLSX, 20 dùng mua sức lao động);
m’= 100%. (1) Quy mô tư bản: 100 =80c+20v (m’=100%). Kết quả sản xuất năm thứ nhất:
G=120= 80c+20v+20m. Trong 20m, nhà TB dùng 10m và tích lũy 10m để mở rộng sản xuất.
(2) Quy mô tư bản: 110 = 88c+22v (giả định m’=100%, cấu tạo hữu cơ không đổi thì theo tỉ lệ
cũ, với 10 triệu USD tư bản phụ thêm, nhà tư bản sẽ chia thành 8c và 2v). (3) Kết quả sản xuất
năm thứ hai: G= 132 = 88c+22v+22m. Trong 22m, nhà TB dùng 11m và tích lũy 11m.
Kết luận
Thực chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày một
lớn hơn, mục đích của quá trình đó là bóc lột được giá trị thặng dư (m) càng nhiều càng tốt.
Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Dù cho tư bản ứng trước có là tài
sản chính đáng của nhà tư bản, sau quá trình tái sản xuất và tích lũy tư bản, dần dần nó cũng trở
nên vô cùng nhỏ bé so với số tư bản đã tích lũy được. Vì vậy nên tư bản ứng trước được ví như
giọt nước trong dòng sông tích lũy.
Nguồn gốc của tiền lương trả cho cho công nhân do chính quá trình LĐ của công nhân
tạo ra. Công nhân không những làm việc để tạo tiền lương trả cho mình mà còn làm việc để tạo
ra (m) nuôi sống nhà TB.
5.4 Mối quan hệ tích lũy TB, tập trung TB, tích tụ TB
Tích tụ TB
Là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa GTTD. Vậy tích tụ TB là kết quả

trực tiếp của tích lũy TB.
Tích tụ TB do yêu cầu của việc mở rộng SX, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Mặt khác, khi
khối lượng GTTD tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ TB mạnh hơn.
Tập trung TB
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn thành một tư bản cá
biệt khác lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp là cưỡng bức (các nhà tư bản
bị thôn tính do phá sản) và tự nguyện (các nhà tư bản liên hiệp, tổ chức thành công ty cổ phần).
Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung TB. Do cạnh
tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các TB cá biệt. Tín dụng TBCN là phương
tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong XH vào tay các nhà TB.
Tích tụ TB và tập trung TB có mối quan hệ mật thiết với nhau và luôn thúc đẩy nhau
phát triển. Tích lũy TB và tích tụ TB là mối quan hệ nguyên nhân và kết quả, trong đó tích lũy
TB là nguyên nhân và tích tụ TB là kết quả.Tích lũy TB tăng sẽ làm cho tích tụ TB ngày càng
tăng, làm cho quy mô TB cá biệt ngày càng lớn, dẫn tới cạnh tranh và phân hóa khốc liệt, dẫn
tới sự hợp nhất của một số TB nhỏ thành TB cá biệt lớn, đó là tập trung TB, con đường này có
thể diễn ra theo cách thỏa hiệp hoặc thôn tính, tập trung TB càng tăng, dẫn đến quy mô TB cá
biệt tăng, làm giá trị thặng dư được tạo ra càng nhiều, và giúp tích lủy TB tăng.
Như vậy, tích lũy TB làm cho quá trình tích tụ và tập trung TB tăng nhanh, đến lượt nó,
tích tụ và tập trung TB tăng nhanh lại khiến cho quy mô tích lũy không ngừng được mở rộng.
Và trong quá trình tích lũy TB, tích tụ và tập trung TB luôn thúc đẩy lẫn nhau, mục đích cuối
cùng là tạo ra giá trị thặng dư ngày càng lớn.
18


Phân biệt giữa tích tụ và tập trung tư bản:
Giống nhau: Đều tăng qui mô tư bản cá biệt
Khác nhau: Tích tụ tư bản thì qui mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội tăng, tích tụ bản
phản ánh mối quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản trong xí nghiệp. Tập trung tư bản thì qui
mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội không đổi, tích tụ bản phản ánh mối quan hệ giữa các
nhà tư bản với nhau.

5.5. Vai trò tích lũy TB, tập trung TB, tích tụ TB đối với sự vận động phát triển của CNTB
Tích tụ và tập trung tư bản tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết
với nhau và thúc đẩy cùng nhau phát triển.
Tích lũy tư bản làm cho quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh, tích tụ và tập
trung tư bản tăng nhanh lại khiến cho quy mô tích lũy không ngừng được mở rộng.
a. Mặt tích cực: thúc đẩy LLSX phát triển, gồm TLSX và người LĐ, tạo ra giá trị thặng dư ngày
càng nhiều, làm cho CNTB ngày càng phát triển.
Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Nếu
gạt bỏ tính tư bản chủ nghĩa thì tích tụ và tập trung tư bản là hình thức tích tụ và tập trung sản
xuất góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn xã
hội, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất.
Tập trung tư bản có ý nghĩa hoàn thành những công trình to lớn trong một thời gian ngắn
và tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống làm cho
chủ nghĩa tư bản phát triển.
Nhờ có tập trung tư bản mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn lao động hợp tác,
biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quá trình sản xuất phối hợp theo quy mô lớn và
được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng được những công trình công nghiệp lớn, hình thành
những công ty lớn với quy mô lớn sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhưng có nhiều
sự cạnh tranh và có sự độc quyền.
Tập trung tư bản làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên, nhờ đó năng suất lao động tăng
lên nhanh chóng. Vì vậy tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy tư bản.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
cũng ngày càng trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ.
Khi quy mô TB cá biệt tăng, do đó có sự cạnh tranh, họ tạo điều kiện lực lượng SX ngày
càng phát triển. Tích tụ, tập trung tư bản làm tăng giá trị thặng dư, lực lượng sản xuất phát triển,
dẫn đến việc thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển. b. Mặt hạn chế
Tích tụ và tập trung TB tạo ra giá trị thặng dư càng nhiều, giai cập công nhân càng bị
bóc lột, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc thêm, đó
chính là mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt và phức tạp.
Mâu thuẫn giữa gia cấp công nhân và Tb ngày càng nhiều. Tích lũy TB dẫn tới quá trình

bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê. Cùng với sự gia tăng quy mô SX và cấu tạo hữu cơ
của TB, TB khả biến (v) có xu hướng giảm tương đối so với TB bất biến (c), dẫn tới nguy cơ
thừa nhân khẩu dưới các hình thức nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm tàng và nhân
khẩu thừa ngưng trệ. Do đó quá trình tích lũy TB có tính 2 mặt, 1 mặt thể hiện tích lũy sự giàu
sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp công nhân làm
thuê.
19


Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới 2 hình thái là bần cùng hóa
tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối là bần cùng với đà tăng trưởng
LLSX, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng
lại giảm tương đối so với phần dành cho giai cấp TS. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện sự sụt
giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường
xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai
cấp công nhân làm thuê trong điều kiện khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
Tích tụ là tập trung TB làm qui mô TB cá biệt tăng, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa dễ
rơi vào mất cần đối, dẫn đến việc cản trở sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Tích lũy, tích tụ TB và tập trung TB làm quy mô TB cá biệt ngày càng lớn, đẫn tới sự
cạnh tranh khốc liệt và làm phân hóa giàu nghèo.
Câu 6. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư
bản hiện nay.
6.1 Khái niệm
CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền với sức
mạnh của Nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất nhằm làm giàu cho các tổ chức độc
quyền và duy trì sự thích ứng của quan hệ sản xuất TBCN trước sự phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy. Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
6.2 Những nguyên nhân ra đời của CNTB độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do các nguyên nhân sau:

Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng
lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với sản
xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công
cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế như các công cụ về tài chính - tiền tệ, kế hoạch
hóa, phát triển các xí nghiệp quốc doanh...
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà
các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao
thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm
kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các
ngành khác.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản
với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn đó bằng
các hình thức khác nhau như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc
lợi xã hội...
Bốn là, sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền
với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ…trở nên
gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước bằng các hình thức khác nhau như nghiêm
cấm một số hình thức độc quyền, ra luật chống độc quyền để hạn chế sự chi phối hay quy mô
của các độc quyền, hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế của các tổ chức độc quyền…
20


Năm là, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh
độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ
trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh
tế quốc tế của nhà nước.
Ngoài ra, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực và tác động của cách mạng khoa
học và công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế. Như
vậy sự ra đời này là tất yếu, CNTB độc quyền nhà nước đã phôi thai ngay trong CNTB độc

quyền và trở thành 1 hình thức đặc thù trong tiến trình phát triển của CNTB.
6.3 Bản chất của CNTB độc quyền nhà nước
Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự
chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù nó đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản
thời kỳ cạnh tranh tự do.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, nhưng nó vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản
độc quyền thời kỳ đầu. Nó là sự thống nhất của 3 quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: Tăng
sức mạnh của các tổ chức độc quyền; Tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế; Kết
hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước trong 1 cơ chế thống nhất và
bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết
của nhà nước về kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước
đã có sự can thiệp, điều tiết kinh tế ở chừng mực nhất định, nhưng hoạt động chi phối vẫn là
của bàn tay vô hình hoặc sự can thiệp, điều tiết của nhà nước mang tính gián tiếp. Chẳng hạn,
ngay ở giai đoạn nhà nước đã điều tiết gián tiếp vào quan hệ kinh tế bằng thuế má, bằng việc đi
xâm lược nước ngoài để mở rộng thị trường cho các tổ chức độc quyền…
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải một chế độ kinh tế mới so
với chủ nghĩa tư bản, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự can thiệp, điều
tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của
nhà nước về kinh tế.
6.4 Những hìn thức hiểu hiện mới của CNTB độc quyền nhà nước
a. Sự phát triển của CNTB độc quyền nhà nước
Các tổ chức độc quyền không những còn tồn tại mà còn phát triển cả về chiều rộng, quy
mô và phạm vi ra cả thế giới thành lập ra những công ty xuyên quốc gia trong đó công ty mẹ,
công ty con, công ty cháu…(công ty gốc và các công ty chi nhánh). Các tổ chức độc quyền
không chỉ mở rộng về quy mô lẫn tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia và quốc tế.
Tư bản tài chính: sở hữu tư bản tài chính thuần túy là tư nhân mang tính gia tộc dần dần

trở thành tư hữu nhà nước. Chế độ uy nhiệm dần dần thay thế chế độ tham dự để nâng cao vai
trò của người đứng đàu. Các thiết chế tài chính ngày càng mở rộng ra phạm vi khu vực và phạm
vi toàn cầu. thay vì đầu tư tại chính quốc, các nhà TB xuất khẩu TB vào các nước thuộc địa,
các nước kém phát triển, ngày nay xuất khẩu TB lẫn nhau càng chứng minh một điều không
phải nguyên nhân TB thừa, gây chiến tranh để chia lại thị trường.
21


Sự phân chia giữa các nước TB chuyển sang sự phần chia giữa một số tập đoàn tư bản
xuyên quốc gia hùng mạnh nhất
Từ chiếm đất, chiếm dân chuyển sang xâm lăng kinh thế để thống trị, nô dịch và bóc lột
nước khác
b. Những biểu hiện mới của CNTB độc quyền nhà nước
Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước ngày càng phát triển, nhà nước đầu tư nhiều lãnh vực
khác nhau.
Nhà nước tham gia kinh tế thị trường TBCN, đinh hướng cho sự phát triển kinh tế_XH
nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của CNTB.
Bộ máy điều tiết có sự phối hợp của 3 cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp, về mặt
nhân sự có sự tham gia của các đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước.
Cơ chế điều tiết có sự kết hợp giữa thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của
TB độc quyền tư nhân và nhà nước tư sản.
Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn, thể hiện
như (điều tiết bằng chương trình và kế hoạch, điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường
thông qua hợp đồng, điều tiết tiến bộ KH và công nghệ bằng tăng ngân sách cho nghiên cứu
phát triển, điều tiết thị trường lao động bằng cách đào tạo và đào tạo lại, điều tiết thị trường tài
chính, tiền tệ, điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại…). 6.5 Vai trò và xu hướng vận đông của
CNTB
a. Vai trò
Với sự ra đời của CNTB độc quyền nhà nước đã giúp cho CNTB có sự điều chỉnh để
thích nghi với điều kiện mới.

Thực hiện xã hội hóa sản xuất. Quá trình xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở sự phát triển
phân công lao động xã hội, hợp tác lao động, tập trung hóa, liên hiệp hoá sản xuất... làm cho
các quá trình sản xuất phân tán được liên kết vào một hệ thống sản xuất, một quá trình sản xuất
xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Dưới sự tác động của quy
luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế khác của cơ chế thị trường, một mặt, giai cấp tư sản
tăng cường bóc lột, làm giàu nhanh chóng; mặt khác, những nhân tố đó có tác động mạnh mẽ
thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học - công nghệ và tăng năng suất lao động
xã hội.
Chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ: kỹ thuật cơ khí thay kỹ thuật thủ công lạc
hậu, rồi từ cơ khí chuyển dần sang tự động hoá, tin học hoá, công nghệ hiện đại. Đồng thời
nền sản xuất cũng được xã hội hóa ngày càng cao, có sự điều tiết thống nhất. Đó chính là quá
trình chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại. Chuẩn bị tiên đề cho sự ra đời
của 1 XH mới (cả tiên đề kinh tế lẫn tiên đề XH).
Tuy nhiên nó vẫn còn một số mặt tiêu cực, đó là những mâu thuẫn tồn tại trong xã hội
tư bản chưa xóa bỏ được dẫn đến kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Một là, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động: sự phân cực giàu - nghèo và tình trạng bất
công xã hội tăng lên chứng tỏ bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại, dù được biểu hiện
dưới những hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hoá tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp công
22


nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc
làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn không xoá được sự
phân hóa giàu - nghèo sâu sắc.
Hai là, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Ngày
nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển bị lệ thuộc
với những nước đế quốc. Nhiều nước chậm phát triển không những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên, mà còn mắc nợ không thể nào trả được.

Ba là, mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm
kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Mâu
thuẫn này có phần dịu đi trong thời kỳ còn tồn tại sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có chiều hướng diễn biến phức tạp. Một mặt, sự phát triển
của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và đòi hỏi của cách mạng khoa học và công nghệ
khiến các nước đó phải liên kết với nhau. Mặt khác, do tác động của quy luật phát triển không
đều và lợi ích cục bộ của giai cấp thống trị ở mỗi nước, các nước đó đã trở thành đối thủ cạnh
tranh với nhau, tranh giành quyền lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung
tâm Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nước ấy trước hết là các cuộc
chiến tranh thương mại, cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia dưới nhiều hình thức, trên
thị trường chứng khoán, nơi đầu tư có lợi...
Bốn là, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn này là mâu
thuẫn xuyên suốt thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào,
nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Do đó mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội vẫn tồn tại một cách khách quan. b. Xu hướng vận động
CNTB thay thế chế độ phong kiến là 1 sự tiến bộ lịch sử. Chủ nghĩa tư bản trong quá
trình phát triển của nó, một mặt đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển rất mạnh mẽ, tạo ra
cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại; mặt khác làm cho mâu thuẫn cơ bản của
nó - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thêm gay gắt.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ, thị
trường, đang có khả năng thích nghi và phát triển trong chừng mực nhất định; chủ nghĩa tư bản
cũng đã buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về quan hệ sản xuất, trong khuôn khổ
của chủ nghĩa tư bản, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó, không
thể vượt quá giới hạn lịch sử của nó.
Mặt khác, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và
quyết định con đường phát triển tiến bộ của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện
và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Vì vậy, sớm hay muộn chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay

thế bằng một chế độ mới, cao hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa
xã hội.
Câu 7. Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam.
23


7.1. Quan điểm của Cn Mac Lenin về thời kỳ quá độ lên CNXH
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật
vận động của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Đồng thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ
bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao; chế độ sở hữu xã hội về
tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thoả mãn
nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội; nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống
nhất trên phạm vi toàn xã hội; sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và
nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xoá bỏ...
Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai
đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu - xã
hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.
C.Mác và Ph.ăngghen là những người đầu tiên nêu lên khả năng những nước còn đang
ở giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái xã hội cộng sản
chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từ học thuyết C.Mác, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với nội dung cơ bản của lý luận đó là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách
quan, bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh
tế rất phát triển. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế lạc hậu. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội.
Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và
kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được quy định bởi đặc điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh
tế, xã hội của chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin cũng nêu ra đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau
nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc. Sự
tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu dài, có lợi cho sự phát triển lực
lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Tương ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần,
trong xã hội cũng tồn tại nhiều giai cấp. Theo Lênin, mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non yếu với
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng khôi phục. Vì vậy, thời kỳ quá độ là
thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản quyết
liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp.
24


V.I.Lênin cũng chỉ ra khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Khi phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền, phát hiện ra quy
luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin rút ra kết luận
quan trọng về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ
chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước. Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một
nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào một thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, có những điều kiện để một nước có thể
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Thứ nhất, điều kiện bên trong, có

Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công, nông,
trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, điều kiện
bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong
cách mạng vô sản.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng trị: Chủ tịch HCM khẳng định, muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là đường cách mạng vô sản, chỉ có
CNXH, CN cộng sản mới giải phóng con người, giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại. Thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam đặc điểm to lớn phát triển của ta là từ 1 nước nông nghiệp lạc
hậu lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển TBCN, vì thế nó lâu dài gian khổ để biến
đổi 1 chế độ XH này sang 1 chế độ XH khác là cả 1 cuộc đấu tranh lâu dài giữa cái cũ và cái
mới, giữa cái thoái bộ và tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái
mới, cái tiển bộ nhất định thắng
7.2 Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng
chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và
từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn
thành thắng lợi, đất nước đã hoà bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì hai lý do sau:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội từ công xã nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế
- xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cho
dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường,
đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản xuất để thích nghi với tình
hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng

phát triển gay gắt và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao
động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ
nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là
25


×