Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIEU LUAN TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA C Mác và Ph.Ăngghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
Cách đây hơn 160 năm, ngày 24 tháng 02 năm 1948 Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản ra đời với tư cách là cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản,
đánh dấu bước ngoặc căn bản của phong trào công nhân: Giai cấp công nhân
bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội, đấu tranh giải phóng
mình, đồng thời giải phóng toàn thể loài người khỏi ách áp bức, bóc lột của giai
cấp thống trị.
Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản không phải là một hiện tượng
ngẫu nhiên, nhất thời của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, mà đó là một quá
trình nghiên cứu công phu về mặt lý luận và thực tiễn của quá trình vận động và
phát triển của lịch sử cho đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản vẫn đang sống và ngày càng sống động hơn theo nhịp tiến lên của
nhân loại tiến bộ, của cả xã hội loài người đang vững bước đi vào thế kỷ XXI.
Sức mạnh tư duy vạch thời đại của Mác - Ăngghen trong tác phẩm này vẫn được
thực tiễn lịch sử toàn thế giới khảo nghiệm và minh chứng rực rỡ trong thời đại
ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam – chính Đảng cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam, Đảng đại biểu trung thành cho lợi ích của
giai cấp c ô n g nh â n , nh â n d â n l a o đ ộn g v à c ả d â n t ộ c . Sự r a đ ời c ủ a
Đ ả n g t a , m ặ c d ù c ó những yếu tố đặc thù riêng nhưng vẫn đảm bảo
các yếu tố cho sự ra đời của một chính Đảng cách mạng của giai cấp
công nhân đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong
trào công nhân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạngViệt Nam, chủ
nghĩa C.Mác-Lênin luôn giữ vị trí nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa C.Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đối với Việt Nam chúng
ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, công cuộc
xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những n h i ệ m v ụ t r ọ n g t â m
h à n g đ ầu nh ư n g n ó đ ò i h ỏ i c h ú n g t a p h ả i c ó l ý l u ậ n c á c h mạng
dẫn đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng
con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch


về giá trị quan trọng của lý luận về đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp
Đảng ta vững v à n g v ề l ậ p t r ư ờ n g t ư t ư ở n g c ủ a c h í n h Đ ản g l ã n h
đ ạ o . Vì vậy việc nghiên cứu nội dung tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
nói chung và nghiên cứu “Tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng sản
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó
trong việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.” thể hiện trong tác
phẩm nói riêng là một yêu cầu cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng, góp phần
xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
B. NỘI DUNG
1


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.Khái quát về tác giả:
1.1.C.Mác (1818 – 1883):
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình
luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung
học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những
lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học.
Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu, tháng mười
1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo
lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin.ở
trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầuđi
sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những
tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt
cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn
đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác
nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự
nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.Tháng Năm

1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính
thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen. Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph.
Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khiPh. Ăng-ghen trên đường sang Anh
và ghé thăm ban biên tập tờ RheinischeZeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè
năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những
người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và
thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục
xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mácrời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph.
Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi
cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến
Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng- ghen đến Kioln, tại đây Mác trở
thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849
Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C.Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần
này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và
sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 tháng 3 năm 1883 ở Luân-đôn.
1.2.Ph. Ăngghen
Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh
Ranh,Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen
đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự
đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng.
Cho đến năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph.
Ăng- ghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười 1834, Ph. Ăngghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ
thời bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ
trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng
2


của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học,
ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn
phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt

tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen
đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự
mà trong những năm sau ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại
học tổng hợp Berlinnghe, các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn
giáo. Mùa xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung
(Nhật báo tỉnhRanh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ,
trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn
phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph. Ăngghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen đã thăm
trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng biên tập tờ
báo. Ông đã ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh
(1842) cùng với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm đó đã phân
tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu
ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng- ghen tham gia
viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844). Các bài báo này đề
cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ
kinh tế của xã hội tư sản.Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính
trị học của Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của
toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2-1845, cuốn sách
Gia đình và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ
chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi
tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của
Hê- ghenvà phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất
quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên
đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan
tâm nhiều đến hoạt động của BCH Trung ương Liên đoàn những người cộng sản
và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ
công nhân Đức (Tháng 3 năm 1848) do BCH Trung ương Liên đoàn những người

cộng sản lập ra.Tháng 3- 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những
yêu sách của Đảng cộng sản Đức được BCH Trung ương Liên đoàn những người
cộng sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của
giai cấp vô sản Đức. Tháng4-1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc
cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5 năm 1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác
chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết
các bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10/1848 ông đi Bỉ để tránh
lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị.
Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn
3


công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này. Tháng
giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng.Khi cuộc đấu tranh
bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849) Ph. Ăng-ghen đã vạch ra một kế
hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi
nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăng- ghen đến Elberfeld và được sung vào Ban quân
sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy
lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp
bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph. Ăng-ghen đã viết trước
tác Luận văn quân sự nổi tiếng. Tháng 11/1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân đôn và
được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản
mà C. Mác đã cải tổ sau khi đến đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân- đôn một năm,
trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở
Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Tháng 11-1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải
chuyển đến Manchester và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều
này tạo điều kiện cho Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động
cách mạng. Ph. Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên,
môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh
đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa

vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống
lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời gian
này, Ph. Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn
Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ
nghĩa C. Mác. Sau khi C.Mác qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ
chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3
của bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác
phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và
Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức
(1866), Biện chứng tự nhiên, Vấnđề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
2.Khái quát về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
2.1. Hoàn cảnh ra đời
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ
phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước
châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện
đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Trong những năm 30và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển,
giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực
hiện những yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho
sự phát triển của phong trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của công nhân
dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng
Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm
(1838 - 1848). Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
đòi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và
một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối
4


tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Đ ạ i h ội l ầ n t h ứ 2
Liên đoàn những người cộng sản đ ã t h ả o l u ậ n v à t h ô n g q u a những

nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăng ghen trình bày. Trên
cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo
ra bản tuyên ngôn chính thức. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất
bản năm 1888, Ăngghen khẳng định lại Tuyên ngôn là Cương lĩnh của Liên
đoàn những người cộng sản. Tại Đại hội của Liên đoàn họp ở Luân Đôn
tháng 11-1847, Mác và Ăngghen được giao nhiệm vụ khởi thảo một
cương lĩnh lý luận và thực tiễn của Đảng, có đầy đủ chi tiết, để đưa ra
công bố. Công việc đó đã được hoàn thành vào tháng giêng 1848;bản
thảo viết bằng tiếng Đức đã được gửi tới Luân Đôn để in, vài tuần trước
khi Cách mạng 24-2 nổ ra tại Pháp.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen
soạn t h ả o v à o c u ố i n ă m 1 8 4 7 v à đ ư ợ c x u ấ t b ả n v à o n g ày 2 1 t h á n g
2 n ă m 18 4 8 . M ụ c đ í ch c ủ a t á c ph ẩ m nh ư C . M á c v à Ph .Ă n g g h e n đ ã
ch ỉ r õ : “ Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình
bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải
có một Tuyên ngôn của Đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về
bóng ma cộng sản.”. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm vừa mang tính
lý luận khao học, vừa là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của những người
Cộng sản, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tác phẩm này
ra đời đã đáp ứng được yêu cầu về mặt lý luận khoa học, soi sáng con
đường đấu tranh của cách mạng vô sản trướcđó. Nó ra đời nhằm đập
tan những chuyện hư truyền của giai cấp tư sản về “bóng ma cộng sản”.
Nó công khai trình bày trước toàn thế giới những đặc điểm, mục đích, ý
đồ của những người cộng sản. Nói cách khác nó là lời tuyên chiến với giai cấp tư
sản và chủ nghĩa tư bản. Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là
thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan
khoa học của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện
được cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa
những quy luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Toàn
bộ thành tựu trí tuệ của loài người đã được tổng kết, khái quát.

2.2.Kết cấu và nội dung cơ bản của tác phẩm
Ngoài 7 lời tựa được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng Nga,
Ba Lan, Đức, Anh, Ý, nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và
Ph. Ănghen trình bày thành 4 chương:
Chương I. Tư sản và vô sản: Mác – Ăngghen luận giải làm rõ sứ mệnh lịch
sử và vai trò của giai cấp vô sản.
Chương II. Những người vô sản và những người Cộng sản: Thể
hiện mốiq u a n h ệ g i ữ a Đ ản g c ộ n g s ả n v ớ i g i a i c ấ p c ô n g nh â n , q u a
đ ó đ ể x á c đ ị nh nhiệm vụ của Đảng cộng sản và những biện pháp để thực hiện
nhiệm vụ ấy, đồng thời chống lại sự vụ khống của giai cấp tư sản đối với Đảng
cộng sản.
5


Chương III. V ă n h ọ c x ã h ộ i c h ủ n g h ĩ a v à c ộ n g s ả n
c h ủ n g h ĩ a : M á c – Ăngghen phân biệt chủ nghĩa xã hội khoa học với các
trào lưu chủ nghĩa xã hội khác.
Chương IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng
đối lập: Mác đã trình bày, làm rõ những tư tưởng cách mạng không
ngừng; tinh thần cách mạng triệt để, liên minh giai cấp, sự đoàn kết, đấu tranh
của những người cộng sản đối với các đảng phái dân chủ trong cuộc đấu
tranh chống các thế lực phản động đương thời.C.Mác và Ănghen đã trình
bày rõ:“Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay, chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp.”. Đến xã hội Tư bản hiện đại xã hội cũng phân chia thành nhiều giai cấp
trong đó có 2 giai cấp cơ bản đối kháng đó là giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản. Nội dung cơ bản của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong
tất yếu của chủ nghĩa Tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.Trong sự vận
động của quy luật ấy C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh giá rất cao vai trò của giai cấp
tư sản khi nó còn giữ vị trí là giai cấp tiến bộ lật đổ chế độ phong kiến đã lỗi

thời :“Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã
tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.”. Đồng thời Tuyên ngôn cũng chỉ rõ quy luật
vận động tất yếu của xã hội loài người là cái cách mạng, cái tiến bộ nhất định sẽ
thay thế cái lạc hậu không ai có thể cưỡng lại cũng như sự thắng lợi của chế độ
Tư bản chủ nghĩa đối với chế độ phong kiến đó là: “Giá rẻ của những sản
phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý
trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất
cũng phải hàng phục” vốn có bản chất là giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò
cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu, giai cấp tư sản chỉ làm đơn
giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. “Những vũ khí mà giai cấp tư sản
dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai
cấp tư sản”. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí giết mình,
nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại,
những người vô sản”.Tuyên ngôn cộng sản đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy
rõ sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là người đào huyệt chôn chủ nghĩa Tư
bản và sáng tạo ra một xã hội tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hộicủa giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
2.3.Ý nghĩa của tác phẩm
Trong các tác phẩm kinh điển của Mác-Ăngghen, Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản là một trong những văn kiện đến Việt Nam sớm nhất. Hồ Chí
Minh viết: “Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ nên cấm
chúng ta học, cấm chúng ta xem.” . C u ố n s á c h đ án g s ợ nh ấ t đ ố i v ớ i b ọ n
t h ố n g t r ị t h ự c d â n chính là Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuyên ngôn l à
ch â n l ý c á ch m ạ n g s á n g n g ờ i đ ị nh h ư ớ n g đ ún g đ ắ n c h o s ự nghiệp
giải phóng của nhân dân ta. Tuyên ngôn l à đ ộ c l ậ p t ự d o , Tuyên ngôn
làChủ nghĩa xã hội. Con đường Tuyên ngôn là con đường đấu tranh cách
mạng chứ không phải là con đường cải lương, ảo tưởng. Cách mạng Việt Nam
6



càng phát triển đi lên càng khẳng định những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn.
Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Ăngghen nói chung, của Tuyên
ngôn nói riêng luôn là ánh sáng soi đường cho cách mạng
Việt Nam. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888,
Ph. Ăngghen có viết: “Hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ biến hơn
cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ
nghĩa, đó là cương lĩnh được thừa nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xi-bia
đến California”. Lần đầu tiên tác phẩm của hai ông đã hệ thống hóa
những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác dưới dạng cô đọng nhất, thể
hiện đầy đủ thế giới quan duy vật biện chứng và các luận thuyết cơ bản
về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế - chính trị học,
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về Đảng,… Bao trùm lên
toàn bộ tác phẩm, Mác-Ăngghen đã nêu rõ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp vô sản, vạch ra những tất yếu của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản,
vai trò Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản.
Tuyên ngôn còn đề cập đến nhiều khía cạnh khác trong lĩnh vực xã hội,
nhất là các vấn đề giáo dục, gia đình, quan hệ giữa thành thị - nông thôn…Tuyên
ngôn ra đời đánh dấu sự thắng lợi của việc kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa
học với phong trào công nhân và phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Với
vị trí quan trọng và nội dung phong phú như vậy, Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản có sức thuyết phục, cổ vũ hàng triệu, triệu người người bị áp bức, bóc lột trên
trái đất này đứng lên tự giải phóng; xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” đốivới
giai cấp vô sản. Từ khi Tuyên ngôn ra đời đến nay, đã hơn 160 năm với nhiều
biến cố trong lịch sử song nó vẫn khẳng định được những giá trị bền vững của các
nguyên lý đã được nêu ra trong tác phẩm. Nó vẫn được các Đảng Cộng sản
vận dụng sáng tạo trongthực tiễn cách mạng.
Chương 2.
TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”

1. Khái niệm về Đảng Cộng sản
Tuyên ngôn trình bày mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai câp
vô sản, những người Cộng sản và giai cấp vô sản: “ họ tuyệt nhiên
không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”. Khái
niệm về Đảng trong Tuyên ngôn được hiểu như sau: Đảng là đội
tiền phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai câp vô sản. Mác-ngghen nêu rõ:
“Về mặt thực tiễn, những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong
trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở
chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình là kết quả chung của phong trào vô
sản.”. Sự hình thành của Đảng bắt nguồn từ sự liên hợp của những người
vô sản thành các đoàn thể, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh. Tuyên ngôn ch o
r ằ n g s ự r a đ ờ i của chính Đảng vô sản là một tất yếu khách quan phù
7


hợp với quy luật đấu tranhgiai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản.“ Sự tổ chức như vậy của những n g ư ờ i v ô s ả n t h à n h g i a i c ấ p v à
d o đ ó t h à n h c h í n h Đ ả n g , l u ô n l u ô n b ị s ự c ạ n h tranh giữa công
nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn được tái lập và luôn luôn
mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn.”
2. Mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân
Mác và Ăngghen chỉ ra Đảng cộng sản là một bộ phận không thể tách rời
giai cấp vô sản, vì vậy, mục đích và lợi ích của Đảng cộng sản và giai cấp vô sản
là thống nhất cả về mặt lý luận và thực tiễn. Mác-Ăngghen khẳng
định:“ Những người Cộng sản không phải là một Đảng riêng biệt đối lập với các
Đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích
của toàn thể giai cấp vô sản”. Quan niệm của Mác – Ăngghen về những
người vô sản và Đảng cộng sản là thống nhất với nhau.
Đảng cộng sản là lực lượng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản

cũng như của nhân dân lao động, nó cũng đại diện cho lợi ích c h u n g c ủ a t o à n
b ộ ph o n g t r à o c ộ n g s ả n , c ủ a t o à n g i a i c ấ p c ô n g nhân trên thế giới
không phân biệt ngành nghề, địa phương và dân tộc .Vì thế, Đảng cộng sản
không những mang tính chất của giai cấp vô sản mà còn mang bản chất quốc
tế. Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng là người đại
biểu t r u n g t h à nh c h o l ợ i í ch c ủ a g i a i c ấ p c ô n g nh â n v à t o à n t h ể
nh â n d â n l a o đ ộn g . Đảng luôn công khai mục tiêu đấu tranh của mình
là: lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai
cấp công nhân. Vì vậy Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản khẳng định sự thống nhất về mục
đích và lợi ích của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân không có nghĩa
Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là một. Đảng cộng sản là đội tiên phong
của giai cấp công nhân nhưng không có nghĩa là Đảng phải là toàn bộ
giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp công nhân.
Tính độc lập của Đảng là đặc trưng, dấu hiệu và là điều kiện cơ bản khẳng định
giai cấp công nhân là một lực lượng chính trị độc lập, tồn tại với tư cách một giai
cấp. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản không phải là một tổ chức biệt lập mà là
bộ phận tiên
phong của giai cấp công nhân,
gắn bó
mật thiết
với giai
câp công nhân, m a n g h ệ t ư t ư ở n g c ủ a g i a i cấ p v ô s ả n . Đ ả n g C ộ n g
s ả n l à t ổ ch ứ c c ó m ụ c đ í ch , nh i ệ m v ụ r õ r à n g . M á c v à Ă n g gh e n
ch o r ằ n g vi ệ c t ổ ch ứ c nh ữ n g n g ư ời v ô s ả n thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền, đó là mục đích trước mắt
của những người Cộng sản và của tất cả các Đảng với nhau. Mục đích cuối
cùng của họ là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà trong đó “ sự phát t r i ể n
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
c ả m ọ i người”.

Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng, Tuyên
ngôn tuyên bố rằng đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày
trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một
tuyên ngôn của Đảng mình. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là cương lĩnh
8


chính trị của Đảng vô sản, trong đó trình bày quan điểm, mục đích,
nhiệm vụ, chiến lược và sách lược của Đảng.
Đảng cộng sản là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
Tuyên ngôn khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô
sản, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản.
Tính tiên phong , độc lập ấy được thể hiện toàn diện trên các mặt chính trị, tư
tưởng, tổ chức.
Về mặt chính trị, Đảng phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng,
đứngvững trên lập trường của giai cấp công nhân, xác định đường lối chiếnlược,
sách lược đúng đắn, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,
trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, để lãnh đạo cách mạng vô sản đi tới
thắng lợi.
Về tư tưởng: Đ ả n g đ ư ợ c v ũ t r a n g b ằ n g h ệ t ư t ư ở n g
C ộ n g s ả n c h ủ nghĩa. Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý
luận đó không phải là giáo điều mà là những nguyên lý được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn. Tuyên ngôn nêu rõ: “ Những người Cộng sản có thể tóm tắt lý
luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ c h ế đ ộ t ư
h ữ u . ” t r ê n l ĩ n h v ự c t ư t ư ở n g , Đ ả n g c ó n h i ệ m v ụ truyền bá chủ
nghĩa xã hội khoa học, nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp công
nhân, phấn đấu chống sự ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phi vô
sản, bảo vệ hệ tư tưởng vô sản về tổ chức, Đảng là một chính thể có tổ
chức, là một khối thống nhất ý chí và hành động theo n g u y ê n t ắ c t ậ p
t r u n g d â n c h ủ , kỷ l u ậ t t ự g i á c n g h i ê m m i nh . Tuyên ngôn thể hiện rõ

nguyên tắc tổ chức Đảng là Đảng Cộng sản được xây dựng từ đội ngũ đảng viên,
là những người vô sản cách mạng nhất cả t r o n g h àn h đ ộ n g v à t r o n g nh ậ n
t h ứ c . Tu â n th ủ n g uy ê n t ắ c n à y m ớ i đảm bảo cho Đảng trở thành đội
tiên phong của giai cấp công nhân. Trong sinh hoạt Đảng, Đảng tuân thủ
các nguyên tắc phê bình và tự phê bình, nguyên tắc công khai. Đảng có cơ
cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và nhiệm vụ của từng thời kỳ hoạt động. Lý
luận về tính tiên phong của Đảng Cộng sản là cơ sở khoa học quan trọng đ ể
những người Cộng sản vận dụng vào công tác xây dựng
Đ ả n g t r ê n c ả h a i phương diện: tiên phong về lý luận và tiên phong về thực
tiễn. Về lý luận, Đảng và các đảng viên của Đảng phải được trang bị lý
luận về chủ nghĩa xã hội khoa học,nắm vững thế giới quan duy vật biện
chứng, nhận thức đúng vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Về thực tiễn, Đảng phải biết vận dụng một cách linh hoạt và sáng
tạo lý luận khoa học để phân tích, đánh giá đúng tình hình, đề ra chủ trương,
biện pháp phù hợp, lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Đồng thời
Đảng phải là người tổ chức, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh của
nhân dân, sức mạnh của dân tộc và thời đại để thực hiện chủ trương đường lối
của Đảng. Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản tập
hợp trong mình những phấn tử ưu tú nhất, cách mạng nhất trong giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Tính tiên phong của Đảng thể
hiện trên hai mặt: Tiên phong về lý luận và tiên phong trong hoạt động thực tiễn.
9


Về mặt lý luận Đảng có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản
ở chỗ họ có nhận thức sáng suốt về điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vô sản. Về mặt thực tiễn, Đảng là bộ phận kiên quyết nhất, tiên phong
nhất trong phong trào công nhân. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng
định trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vậy là về mặt thực tiễn,
những người cộng sản là vộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất

cả các nước, là bộ phận cổ vũ các bộ phận khác; về mặt lý luận họ hơn bộ phận
còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình
và kết quả chung của phong trào vô sản”
3. Mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Tuyên ngôn đã chỉ rõ mục đích của những người Cộng sản bao gồm mục
đích trước mắt và mục đích cuối cùng, trong đó mục đích cuối cùng của những
người Cộng sản là phải thực hiện chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới: “Theo ý
nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức
duy nhất này là : xóa bỏ chế độ tư hữu”.
T h e o C . M á c v à P h . Ă n g gh e n , nh i ệ m v ụ t r ư ớ c h ế t c ủ a Đ ả n g
l à : t ổ ch ứ c những người cộng sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giành lấy chính quyền. Mục tiêu trước mắt của Đảng cũng giống
như mục tiêu trước mắt của các đ ả n g c ô n g nh â n kh á c l à l ậ t đ ổ s ự
t h ố n g t r ị c ủ a gi a i cấ p t ư s ả n g i à nh l ấ y c h í nh quyền cho giai cấp vô
sản: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản là mục đích trước
mắt của các đảng vô sản khác; tổ chức những người vô sản thành giai
cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy
chính quyên.”
Nhưng
mục tiêu đấu tranh của Đảng không chỉ là làm thay đổi chế độ tư
h ữ u , m à m ụ c t i ê u c u ố i c ù n g c ủ a Đ ản g l à t h ủ t i ê u ch ế đ ộ đ ó,
kh ô n g ph ả i l à x o á nhoà các mâu thuẫn giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp,
không phải hoàn thiện xãh ội h i ệ n t ồ n , m à l à x ây d ự n g m ộ t x ã h ộ i m ớ i ,
x ã h ộ i c ộ n g s ả n c h ủ n gh ĩ a : “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không
phái là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư
sản và “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu
những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ t ư ớ c b ỏ q u y ề n
dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.”
Trong khi hợp tác với các đảng đối lập vì mục tiêu trước mắt, những người
cộng sản không bao giờ được quên mục đích cuối cùng của mình là lật đổ giai

cấptư sản, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản: “ Nhưng không
bao giờ, không phút nào, Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân
một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có bao nhiêu điều kiện
chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, công nhân Đức biết đổi
thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để nguy sau khi diệt
xọng những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh
chống lại chính ngay giai cấp tư sản”
10


Như vậy, theo C.Mác và Ăngghen trong cuộc đấu tranh của mình, để giành
được thắng lợi, giai cấp vô sản phải liên minh với các giai cấp khác và thậm chí
có thể phải hợp tác cả với những đảng đối lập vì những quyền lợi trước mắt của
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giai cấp tư sản các nước đã liên kết lại
với nhau để chống lại giai cấp vô sản. Vì vậy giai cấp vô sản phải đoàn
kết lại: “Vô sản tất cảcác nước, đoàn kết lại !”
Chương 3. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN
VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI VIỆC XÂY DỰNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đảng cộng sản Việt Nam
1.1. Khái quát sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên
nướcViệt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân
phong kiến,hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập
dân tộc.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân

tộcta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh
dung, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên
tiếpđứng lên chống lại chúng. Từ năm 1958 đến trước năm 1930, hàng
trăm phongtrào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt chống thực dân Pháp đã nổ ra
theo nhiều hướng khác nhau, dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước
đương thời, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân,
phong trào Cần Vương, phong t r à o Đ ôn g D u, Đ ôn g K i n h N g h ĩ a
t h ụ c , D uy T â n , c á c c u ộ c kh ởi n g h ĩ a d o P h an Đ ì nh P h ù n g , H o à n g
H o a T h á m , N g uy ễ n T h á i H ọ c… l ã nh đ ạo . C á c c u ộ c kh ở i nghĩa,
phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dung, nhưng đều thất bại và bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại của các
phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa,
các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu
cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự
khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là
nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. Giữa lúc cách mạng Việt
Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn
Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn
trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộcđịa của Lênin. Người
hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con
đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc
11


lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy n g ọ n
c ờ g i ả i ph ó n g d â n t ộ c , g ắ n c á ch m ạ n g g i ả i ph ó n g d â n t ộ c t ừ n g
n ư ớ c v ớ i phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo
con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên

tiếp thu sáng t ạ o ch ủ n g h ĩ a M á c - L ê ni n , t ì m r a c o n đ ư ờ n g đ ún g đ ắ n
g i ả i ph ó n g d â n t ộ c Vi ệ t Nam. Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc
đã
tham
gia
hoạt
động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào
cách m ạ n g t h u ộ c đ ị a , n gh i ê n c ứ u v à t r u y ề n b á c h ủ n g h ĩ a M á c L ê n i n v ề Vi ệ t N a m . Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu
Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn
Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như
"người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn".
Nó lôi cuốn những ngườiyêu nước Việt Nam đi theo con đường cách
mạng vô sản. Phong trào đấu tranhcủa giai cấp công nhân và nhiều tầng
lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh
đạo.Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (61929).Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông
Dương Cộng sảnLiên đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt
lập trong một quốc gia cónguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ
năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Từ ngày 3 đến
7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất
trí thành lập đảng và thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điềulệ vắn tắt

của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại hội thành lập Đảng.
Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranhgiai cấp và đấu tranh dân
tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng
đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi
12


của Nguyễn ÁiQuốc-Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng sáng tạo chủ n
ghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩaM á c – L ê n i n v ớ i p h o n g t r à o c ô n g nh â n v à ph o n g
t r à o y ê u n ư ớ c . S ự r a đ ờ i c ủ a Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất
nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1.2. Vai trò, vị trí, mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam(1992, sửa đổi) khẳng định vai trò lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạoNhà nước và xã hội. Mọi
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắnglợi rất vẻ vang , mở ra kỷ nguyên mới trong sự nghiệp phát triển của dân tộc
ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng
Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của
Đảng. Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập
Đảng ta - đã thấy phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới
thành công. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: " Điều cốt yếu cho
sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối
chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải
trong đấu tranh mà trưởng thành".
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc
tínhđúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã
nêu lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh
đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho
cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực hiện mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam - người duy nhất giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng từ nǎm 1930. Ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam diễn ra một sự kiện
trọng đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng ta ra đời là kết quả của sự chuẩn
bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các
đồng chí tiền bối của Đảng. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam. Người đã kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tổ
chức ra Đảng ta. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đề ra
đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, vạch ra cương lĩnh
cách mạng của Đảng một cách đúng đắn ngay từ đầu. Nhờ đó mà Đảng sớm trở
thành một lực lượng chính trị vững mạnh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hơn 80 nǎm qua, lịch sử Việt Nam ghi nhận vai
13



trò lãnh đạo của Đảng. Vai trò đó không ngừng được mở rộng và nâng cao, vượt
qua mọi sự chống phá của kẻ thù và sự tranh chấp của những thế lực đối lập.Việc
Đảng ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng là điều tất yếu, khách quan,
phù hợp với quy luật của thời đại và điều kiện hiện thực của Việt Nam. Sự phù
hợp với quy luật của thời đại được chứng minh bởi vai trò và sứmệnh lịch sử của
giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Mác-Lênin. Còn điều kiện
hiện thực của Việt Nam được nhận thức qua phân tích tính chất, đặc điểm xã hội
Việt Nam; tình hình và thái độ các giai cấp, tầng lớp xã hội; từ đó thấy những
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và đòi hỏi khách quan của lịch sử đối với giai cấp
công nhân Việt Nam và Đảng - đội tiên phong của giai cấp.
Sự lãnh đạo của Đảng - nguồn gốc thành công của công cuộc giải
phóng dân tộc. Lịch sử Việt Nam ghi nhận: từ khi thực dân Pháp xâm lược và
thống trị nước ta đã liên tiếp diễn ra nhiều cuộc đấu tranh yêu nước, song tất cả
đều thất bại. Khi Đảng ta ra đời, dân tộc ta vẫn đứng trước một nhiệm vụ lịch sử
to lớn: tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập của đất
nước. Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là thành quả đầu tiên của cuộc đấu tranh
đó, đã lật đổ ách thống trị đế quốc, phátxít cấu kết với giai cấp địa chủ phong
kiến, thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ. Tiếp đó là thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Bắc sau đó
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ.
Công cuộc giải phóng dân tộc được hoàn thành triệt để từ sau thắng lợi mùa Xuân
nǎm1975 được bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.Trước thực tế lịch
sử hiển nhiên đó mà vẫn có người cố tình phủ nhận hoặc hạ thấp ý nghĩa, vai trò
của Đảng đối với những thắng lợi của dân tộc Việt Nam thì là điều phi lý. Và thực
tế lịch sử đó cũng đã bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.- Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi do có những điều kiện khách quan thuậnlợi, song nếu thiếu
những điều kiện chủ quan, nhất là thiếu sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thì cách
mạng không thể thành công. Đảng đã lãnh đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa một cách

chu đáo, đồng thời nắm vững thời cơ lịch sử để phát động ổng khởi nghĩa trong
những ngày tháng tám. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám nǎm 1945. Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, trước
hết do Đảng đề ra và nắm vững đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài.
Đảng lại giải quyết đúng hàng loạt vấn đề trọng yếu: xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, thực hiện từng bước vấn đề ruộng đất cho nông dân, chǎm lo phát triển
sản xuất trong kháng chiến, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến, công tác
vùng địch tạm chiếm,v.v. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước làsự kiện lịch sử
vĩ đại, một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Đảng đã khéo kết
hợp sức mạnh của hai miền Nam - Bắc, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh
của thời đại. Đường lối chính trị, quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng
sáng tạo do Đảng đề ra, không những đã tránh cho dân tộc bị mất nước, làm nô lệ,
mà còn giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Vai trò của Đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, tiến hành
cáchmạng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục sự nghiệp và truyền thống của Đảng đã giữ
14


vai trò lãnh đạo cách mạng ngay khi ra đời, sau khi giành được chính quyền, từng
bước thực hiện chuyển biến giai đoạn cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến trình cách mạng của dân tộc.
Đây là thực tế lịch sử đã diễn ra ở miền Bắc từ tháng 7 nǎm 1954 và trên cả nước
từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đã và sẽ tiếp tục
là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi, vì Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc
cách mạng tự giác. Chỉ có Đảng, người nắm vững lý luận Mác - Lênin, mới nhận
thức và vận dụng đúng đắn những quy luật phát triển của xã hội, đề ra đường lối
và phương pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn
nước ta. Trong thời kỳ quá độ, tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội,

có những lợi ích và nhận thức khác nhau, nhưng sự lãnh đạo của Đảng đã bảo
đảm thực hiện đúng đắn các mối quan hệ kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động - mục tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về tổ chức thực tiễn, do trong xã hội có nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ sự
hoạt động của mọi tổ chức xã hội nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự
nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đóng vai trò người tổ
chức, phối hợp sự hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, đoàn thể và tổ chức xã
hội. Trước đây, ở miền Bắc đã từng có những lực lượng thù địch và đối lập đòi
Đảng chia quyền lãnh đạo. Ngày nay, lại có một số người chịu ảnh hưởng của
thuyết đa nguyên chính trị, đòi lập chế độ đa đảng, đòi xét lại vai trò lãnh đạo của
Đảng, đòi Đảng trả lại quyền cho "nhân dân"... thực chất là tìm cách thủ tiêu,
hoặc hạ thấp vai trò của Đảng. Song sự thật lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã
chứng tỏ rằng đảng ta nắm vai trò duy nhất lãnh đạo cách mạng là một tất yếu
lịch sử , có sự lãnh đạo của Đảng ta mới có những thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, tình trạng có nhiều lực lượng đối lập trong xã hội không phải là biểu
hiện của dân chủ chân chính; ngược lại, làm trở ngại, khó khǎn cho sự ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội.
Để tiếp tục thực hiện tốt vai trò là một Đảng cầm quyền, Đảng cần
phải: Thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng
thời phát huy mạnh mẽ, vai trò, tính chủ đạo, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị.
Gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Vững mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
và năng lực lãnh đạo.
Giữ vững truyền thống đoàn kết trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật
trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và

mọi hành động chia rẽ bè phái.
Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong sạch, có phẩm
chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đứcHồ Chí Minh; quan
15


tâm, bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc. Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là bài học lớn của lịch sử
Đảng và lịch sử dân tộc.
1.3. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Bối cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội
VI (năm1 9 8 6) đ ế n Đ ại h ội X I ( 2 0 11) . Sự n gh i ệ p đ ổi m ớ i t h e o
đ ị nh h ư ớ n g x ã h ộ i c h ủ n g h ĩ a v ì d â n g i à u , n ư ớ c mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh của nhân dân ta đã trải qua một chặng đường hơn 25
năm. Trong thời gian đó, đặc biệt là trong 5 năm thực hiện nghị quyết
Đại Hội XI, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Đánh giá khát
quát 25 năm đổi mới, “Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta
kết thúc thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ
trương, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 2010…Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua
khó khăn, thách t h ứ c , đ ạ t đ ư ợ c n h ữ n g t h à n h t ự u q u a n t r ọ n g t ro n g
v i ệ c t h ự c h i ệ n c á c m ụ c t i ê u , nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng
còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục.”
Về thực tiễn, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội;
kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước được đẩy mạnh. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà
nền tảng là liên minh giai cấp c ô n g nh â n , g i a i c ấ p n ô n g d â n v à đ ộ i n g ũ

t r í th ứ c d o Đ ả n g l ã n h đ ạ o n g à y c à n g được tăng cường và củng cố.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang
nhân dân cách mạng ngày càng lớn mạnh. Quan hệ đối ngoại được mở
rộng. Vì thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều. Chính trị - xã hội ổn định,
chủ quyền an ninh, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Nhân dân tin tưởng
ở đường lối đổi mới của Đảng. Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm
được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý.
Về lý luận, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Đến nay, Đảng ta đã
bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; làm cơ sở cho việc x â y d ự n g v à p h á t t r i ể n đ ư ờ n g l ố i c ủ a Đ ả n g ,
g ó p p h ầ n b ổ s u n g , p h á t t r i ể n q u a n điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt. Kinh tế phát
triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế thấp;chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên. Những
16


hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn
hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ
tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị
- xã hội.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh;
những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch;
nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan. Công tác
nghiên cứu lýluận, t ổ n g k ế t th ự c t i ễ n n h ì n c h u n g v ẫ n c h ư a đ áp ứ n g
đ ư ợ c y ê u c ầ u . N h ậ n th ứ c t r ê n nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới
còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực
và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương
không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu y ế u . N ă n g l ự c , ph ẩ m
ch ấ t c ủ a m ộ t b ộ ph ậ n c á n b ộ, đ ả n g v i ê n , c ô n g c h ứ c , v i ê n chức còn
bất cập.
1.3.2. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ mới
Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng: Tiếp thu học thuyết Mác- Lênin về Đảng
Cộng sản và xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt,
sáng tạo vào điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam đầu thế kỷ XX để
xây dựng chính Đảng độc lập của giai cấp công nhânViệt Nam. Tổng kết
thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh k h ẳ n g đ ị n h :
“ C h ủ n g h ĩ a C . M á c- L ê n i n k ế t hớ p v ớ i p h o n g t r à o c ô n g n h â n l à
phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản
Đông Dương vào đầu năm 1930.
D ư ớ i s ự l ã nh đ ạ o c ủ a Đ ản g v à B á c H ồ , s ự n gh i ệ p c á c h mạng
của dân tộc ta đã đi từng thắng lợi này đến thắng lợi khác: giải quyết tốt mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải phóng dân tộc khỏi ách sự thống
trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Thẳng thắng nhìn nhận những hạn chế, khuyết điểm của mình, Đảng cộng
sản Việt Nam đã khởi x ư ớ n g v à l ã n h đ ạo c ô n g c u ộ c đ ổ i m ớ i đ ấ t nư ớ c
v à g i à n h đ ư ợ c n h i ề u t h à nh t ự u quan trọng, vì thế chính trị của Đảng và

Nhà nước được nâng lên, củng cố và tăng c ư ờ n g uy t í n v ớ i n h â n d â n .
Nh ữ n g th à n h t ự u v à h ạn c h ế t r o n g s ự n g h i ệ p c á c h mạng gắn liền
với vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Vì vậy, Đảng luôn coi trọng công tác
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu của nhiệm
vụ mới, Đảng xác định nhiệm vụ “Xây dựng Đảng là then chốt”, “Phát triển kinh
tế là trọng tâm”. Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng luôn đề cao việc
17


tăng cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; kiên trì chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng; tích cực tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền theo tư tưởng của
C.Mác và Ph.Angghen.
Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt nam được Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X thông qua ngày 25 tháng 4 năm 2006 đã ghi rõ: tổ chức cơ sở Đảng là
tổ chức đảng “ở đơn vị xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ
sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, nếu chưa đủ ba đảng viên
chính thức thì cấp ủy c ấ p t r ê n t r ự c t i ế p g i ớ i t h i ệ u đ ả n g v i ê n
s i n h h o ạ t ở t ổ c h ứ c c ơ s ở đ ả n g t h í c h hợp.”
Công tác xây dựng Đảng đã nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng có vị trí
đặc biệt quan trọng và chỉ rõ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng
hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của
Đảng, xâydựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm
bảo đảm thực hiện t h ắ n g l ợi đ ư ờ n g l ố i c ủ a Đ ả n g , n â n g c a o n ă n g
l ự c l ã nh đ ạ o c ủ a Đ ản g đ ối v ớ i s ự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách
mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn
bó chặt với quần chúng.Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn

hiện nay cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ then chốt sau đây:
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng
viên về năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đấu tranh chống những
biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng cơ sở. lấy
chuyển biến từ cơ sở làm mục tiêu và thước đo kết quả của công tác xây
dựng Đảng.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt quy định về chức năng , nhiệm vụ,
phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Có
cơ chế để nhân dân tham gia vào việc xây dựng các Nghị quyết của
Đảng bộ, Chi bộ, các quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ công dân; vào việc bố trí cán bộ chủ chốt; để nhân dân
tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.
Tổchức đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn giữ mối liên hệ mật thiết với dân.
Thực hiện các biện pháp đồng bộ củng cố tổ chức cơ sở đảng, tập trung cho
các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ, chi bộ yếu kém. Kiện toàn
đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt; đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn,
t h ự c h i ệ n t i ê u ch u ẩ n h ó a c á n b ộ ; t ă n g c ư ờ n g c ô n g t á c ki ể m t r a ,
g i á m s á t , quản lý đảng viên; cải tiến nội dung, hình thức sinh hoạt đảng,
đề cao tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt. Kiện toàn tổ
chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các trường chính trị.
1.3.3. Xây dựng đội ngũ Đảng viên
18


“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội ngũ
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động l ê n t r ê n l ợ i í c h c á n h â n , c h ấ p h à n h n g h i ê m

c h ỉ n h c ư ơ n g l ĩ n h c h í n h t r ị , Đ i ể u l ệ Đ ả n g , các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoànthành tốt nhiệm vụ được
giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thông nhất trong Đảng.”
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Mác - Ăngghen về Đảng Cộng sản, dựa
trên phân tích tình hình thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn mới, đặt ra những yêu
cầu bức thiết đối với công tác xây dựng đội ngũ Đảng viên gắn với vai trò lãnh
đạo của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên cả về tư tưởng
chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống cụ thể là:
Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, tích cực thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, Có bản lĩnh chính trị vững
vàng; có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực vận động quần chúng thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu trong công tác; xử lý hài
hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Liên hệ mật thiết
với nhân dân, có lối sống trong sạch, lành mạnh, không quan lieu, tham nhũng,
lãng phí và các tiêu cực khác.
Chú trọng công tác phát triển Đảng viên mới. Việc kết nạp Đảng
viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, chú trọng phát triển Đảng
viên trẻ, công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia đình
có công với cách mạng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện Đảng viên dự bị.
Thường xuyên sàng lọc Đảng viên, kiên quyết đưa những Đảng viên
không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng. Vận động ra Đảng hoặc xóa tên khỏi danh
sách những Đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu,
không làm tròn nhiệm vụ Đảng viên, đã được tổ chức Đảng ủy giúp đỡ
mà không tiến bộ. Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp
hành pháp luật, Điều lệ và các quy định của Đảng.


19


KẾT LUẬN
Có những vật mà giá trị của nó khó có thể đong, đo, đếm được.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng vậy. Đây chỉ là một
cuốn sách nhỏ nhưng giá trị của nó thì không nhỏ. V.I. Lênin từng viết:
“Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó, cho
đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang
chiến đấu của thế giới văn minh.
S ự r a đ ờ i c ủ a Tuyên ngôn v ớ i t ư c á ch l à cương lĩnh đầu tiên của
những người Cộng sản đánh dấu bước ngoặt căn bản của phong
trào công nhân: giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là m ộ t
l ự c l ư ợ n g x ã h ội đ ộ c l ậ p , đ ấ u t r a nh g i ả i ph ó n g m ì nh , đ ồn g th ờ i
g i ả i ph ó n g toàn thể loài người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - MácĂngghen đã để lại cho thế hệ sau một di sản vô giá, một kiệt tác vĩ đại mà
nội dung, tầm vóc và ý nghĩa cách mạng của nó không chỉ có tác dụng sâu sắc
đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa
lúc bấy giờ, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả nhân loại trên hành
tinh chúng ta cho đến tận ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo cách mạng đã luôn trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên lý
của Tuyên ngôn về Đảng cộng sản. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính
trị cần quan tâm xây dựng và phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt
Nam cả về số lượng và chất lượng để nó có thể hoàn thành sứ mệnh của mình.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đang bước vào chiều sâu càng đòi hỏi
chúng ta phải quán triệt các nguyên lý của phép biện chứng duy vật, phải biết
cách tiếp cận những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tầng
sâu bản chất chứ không chỉ dừng lại ở những câu chữ trên bề mặt của di sản
kinh điển. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng quán triệt nguyên tắc

lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phải bảo vệ và phát triển sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới. Để lý
luận khoa học thực sự biến thành sức mạnh vậtchất, cải tạo xã hội
thì phải luôn luôn bổ sung, phát triển, kiểm nghiệm lý luận đó trong đời
sống thực tiễn và phải biến lý luận thành thiết chế chính trị hiện thực hóa bằng hệ
thống pháp luật, cơ chế tổ chức thực hiện. Chỉ trên cơ sở như vậy chúng ta mới
biến tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung trong đó có Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản trở thành sức mạnh vô địch trong quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Đã hơn 160 năm trôi qua kể từ khi ra đời, Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản vẫn tỏ rõ giá trị và sức sống của nó, vẫn mãi là ngọn cờ dẫn dắt giai
cấp vô sản trên toàn thế giới tiến bước trên con đường giải phóng mình. Cho đến
nay, Tuyên ngôn vẫn còn là kim chỉ Nam cho hành động của các Đảng
Cộng sản và công nhân trên thế giới trong đó có Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tư tưởng của Tuyên ngôn sẽ mãi cùng với sự phát triển của thời đại
hôm nay và mai sau.
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------------

1 . Lênin toàn tập, tập 44. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật V.I.Lênin
2 . Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI.
4. Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Giới thiệu tác phẩm của Mác, Ph.Ăngghen. V. I. Lênin, Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà

nội- 2001.

21



×