Tải bản đầy đủ (.docx) (183 trang)

TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.26 KB, 183 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

HUỲNH THỊ DỰ

TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN Ở CÁC TRƯỜNG
MẦM NON THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

HUỲNH THỊ DỰ

TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN Ở CÁC TRƯỜNG
MẦM NON THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN
Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60140101

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS TRƯƠNG THỊ HOA



HÀ NỘI – 2017
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết
quả, trích dẫn trong luận văn là đầy đủ, chính xác và trung thực. Những ý
kiến khoa học được đề cập trong luận văn chưa được ai công bố ở bất cứ
nơi nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng 06 năm 2017

Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Dự

3


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng, em xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
TS. Trương Thị Hoa - cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Tâm lý – Giáo dục,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy, tạo mọi điều kiện cho em học
tập, nghiên cứu.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, tập thể giáo viên, các

cháu mẫu giáo của các trường Mầm non trên địa bàn thị xã Sông Cầu đã hợp
tác, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi cảm ơn các bạn đồng nghiệp, bạn học đã chia sẻ kinh nghiệm
nghiên cứu khoa học, hỗ trợ tôi tìm kiếm tài liệu liên quan đến đề tài.
Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ dẫn, góp
ý của Quý thầy, cô, bạn đọc để luận văn ngày một hoàn thiện.
Hà Nội, ngày

tháng 06 năm 2017

Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Dự

4


DANH MỤC VIẾT TẮT
Viết tắt
MN
GV
GD&ĐT
BGDĐT
TCĐK
CSGD
GDMN
TPVH
XHHGD

Viết đầy đủ

Mầm non
Giáo viên
Giáo dục và Đào tạo
Bộ Giáo dục đào tạo
Trò chơi đóng kịch
Chăm sóc giáo dục
Giáo dục mầm non
Tác phẩm văn học
Xã hội hóa giáo dục

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG
5


6


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì
thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đảm bảo xây dựng một thế
hệ kế tiếp có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội Đảng
khoá IX đã xác định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển
giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người”. Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp trồng người có đủ đức, đủ tài, có
lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy, hiện nay giáo dục đã

trở thành mối quan tâm của toàn xã hội.
GDMN là mắt xích đầu tiên quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc
dân, là nền móng, cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ. Bộ luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
mục tiêu giáo dục ở bậc học mầm non như sau: “Giáo dục mầm non là giúp trẻ
em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1”. Đồng thời, GDMN có
một vị trí rất quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
ngành học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con người mới xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em sinh ra có
quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình
và cộng đồng. Vì thế, giáo dục con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền
lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con người đối với xã hội, đối với cộng đồng.
GDMN là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát triển, ở đây trẻ không
chỉ được chăm sóc, giáo dục mà còn được thỏa mãn ước muốn làm người lớn
với năng lực hiện có của mình; là môi trường tốt nhất để trẻ phát triển ngôn
7


ngữ nói, ngôn ngữ mạch lạc phù hợp với đặc trưng tiếp nhận và tâm lý lứa
tuổi mầm non. Trong môi trường giáo dục MN, vui chơi là một trong những
hoạt động chủ đạo của trẻ. Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ có thể tiếp nhận
tri thức mới, làm giàu vốn kinh nghiệm cuộc sống của bản thân một cách tự
nhiên. Từ đó, phát triển các chức năng tâm lý góp phần phát triển toàn diện
nhân cách của trẻ. Chơi cũng là điều kiện tốt để trẻ khám phá môi trường
xung quanh, qua đó kích thích tò mò, khả năng quan sát, năng lực phán đoán,
trí tưởng tượng,…của trẻ. Chính vì lẽ đó, mà nhiều nhà giáo dục đã gọi “trò
chơi là trường học của cuộc sống”. Trò chơi nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ mà
không gì thay thế được, trong khi chơi trẻ học được cách sử dụng đồ chơi, học
các quy tắc ứng xử giữa người với người trong xã hội. Trẻ mầm non có thể

tham gia nhiều loại trò chơi như: Trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi lắp
ghép xây dựng, trò chơi có luật,…Mỗi loại trò chơi đều có tác dụng phát triển
một mặt nhất định của trẻ và TCĐK cũng là một trong những hoạt động vui
chơi của trẻ tại trường mầm non. Nó không chỉ đơn thuần là một trò chơi, mà
còn là hoạt động mang tính chất nghệ thuật và ngược lại.
Mục tiêu GDMN là phát triển ở trẻ một số giá trị, nét tính cách, phẩm
chất và năng lực như mạnh dạn, tự tin, tự lực, sáng tạo, linh hoạt, dễ hòa
nhập, dễ chia sẻ, dễ hợp tác… tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào
cuộc sống, chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp một và các bậc học sau có kết quả.
Bước vào tiểu học là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của trẻ, vì
trẻ phải trải qua một lối sống mới với sự thay thế của hoạt động chủ đạo từ
vui chơi sang học tập. Đồng thời trẻ cũng chuyển qua một vị trí xã hội mới
của một người học sinh thực thụ. Sự thay đổi đó đòi hỏi trẻ phải có những
điều kiện tâm lý cần thiết đủ để trẻ có thể thích nghi bước đầu với các điều
kiện học tập có hệ thống ở phổ thông.

8


Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho
một nền giáo dục tốt”. Vì vậy giáo viên mầm non không chỉ cần có sự hiểu
biết đầy đủ, đúng đắn về sự phát triển sinh lý-tâm lý của trẻ mà còn phải nắm
vững mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và các hình thức tổ chức cuộc
sống cho trẻ ở độ tuổi mầm non.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, đây là
phương tiện giáo dục hiệu quả nhất. Thông qua hoạt động trẻ tiếp thu được
những kinh nghiệm xã hội, tiếp thu và dần làm quen với việc tuân thủ các quy
tắc, các chuẩn mực xã hội. Đó là giai đoạn đầu tiên hình thành và phát triển
nhân cách.
Hiện nay ở các trường MN, trẻ mẫu giáo lớn còn nhiều trẻ chưa mạnh

dạn, tự tin, diễn đạt lời nói chưa mạch lạc… điều này dẫn đến việc tiếp thu bài
chậm và tham gia các hoạt động ở lớp 1 còn khó khăn, không tự tin… Chính
vì vậy việc phát triển cho trẻ một cách toàn diện là một nhiệm vụ vô cùng
quan trọng và cần thiết.
TCĐK là trò chơi đóng vai theo tác phẩm văn học, là một trong những
loại trò chơi mà trẻ hứng thú nhất. Trong khi chơi TCĐK, trẻ phải thể hiện cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt, lời nói … để làm bộc lộ tính cách nhân vật. Việc cho trẻ
đóng vai trong mỗi câu chuyện của trò chơi đóng kịch sẽ giúp trẻ trãi nghiệm
các vai trò xã hội, phát triển được kĩ năng giao tiếp, giúp trẻ biểu đạt được
ngôn ngữ, thể hiện cảm xúc được tốt hơn. Ở trường mầm non, TCĐK là một
trong những trò chơi giúp trẻ tự tin hơn trong các hoạt động với các bạn và cô
giáo, phát triển các kĩ năng giao tiếp sẽ có ảnh hưởng rất tích cực đến sự hình
thành nhân cách của trẻ sau này.
Nhờ trí tưởng tượng sáng tạo và cảm xúc của mình trẻ tái hiện lại tính
cách nhân vật trong tác phẩm văn học. Đây là một hình thức học tập tạo được
sự hứng thú và sáng tạo của trẻ. Thông qua việc thể hiện các vai trong truyện
9


sẽ giúp cho trẻ hiểu sâu sắc hơn nội dung câu chuyện và tính cách của từng
nhân vật trong câu chuyện. Từ đó sẽ giúp cho trẻ thể hiện vai diễn của mình
thật nhuần nhuyễn qua từng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt ... sự liên kết các
câu, các từ… Qua các vai diễn sẽ củng cố trí nhớ tăng cường khả năng ghi
nhớ của trẻ và phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Trong TCĐK theo tác phẩm văn học trẻ không chỉ biến mình thành
người lớn mà còn “hóa thân” vào các nhân vật với nội tâm phong phú, phức
tạp với những cá tính khác biệt vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Để đóng được một
vai trẻ phải trải qua một quá trình lao động nghệ thuật gần giống như một
người nghệ sĩ. Kết quả của TCĐK có ý nghĩa rất quan trọng, phát triển ở trẻ
tính tích cực cá nhân, tính độc lập, sáng tạo. Khi đóng kịch trẻ vừa nhận thức

được mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội vừa được thể hiện
nghệ thuật. Trẻ sẽ học ở đó lòng dũng cảm, tính trung thực, tình yêu quê hương
đất nước, yêu những điều thiện, bênh vực những người yếu đuối, lên án những
cái xấu, cái ác,...Quá trình đó làm cho tâm hồn trẻ trở nên nhạy cảm, phong phú
và sâu sắc,… Trò chơi đem lại cho trẻ niềm vui, niềm hạnh phúc khi được vui
chơi. Đặc biệt, TCĐK nó giúp trẻ tích lũy được kinh nghiệm sống qua trải
nghiệm của các nhân vật trong tác phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển ngôn ngữ, tình cảm, cảm xúc và thẩm mỹ. Qua đó, trẻ cũng có thể phát
triển ngôn ngữ mạch lạc của mình trong khi diễn, lĩnh hội được ngôn ngữ giàu
hình ảnh, học được giọng nói diễn cảm rõ ràng, mạch lạc và trẻ hoàn thiện
mình hơn về đạo đức.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc hướng trẻ vào các TCĐK là cần
thiết. Bởi lẽ, TCĐK không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa
đựng cả một quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Đặc biệt là
đối với trẻ em, TCĐK với những vai chơi đặc biệt của nó đã mang lại cho thế
10


giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời mạnh dạn tự tin khi tiếp xúc
với mọi người xung quanh, với bạn bè, cộng đồng, là một trong các hoạt động
của trẻ mầm non, giúp trẻ phát triển toàn diện nhiều mặt đó là: Phát triển thể
chất, lĩnh vực tình cảm - xã hội, giá trị thẩm mỹ, ngôn ngữ và phát triển nhận
thức, phát triển kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác cho trẻ. Đồng thời, trò chơi
này cũng giống như một món ăn tinh thần mà trẻ cần phải có làm nền tảng cho
sự phát triển về mọi mặt sau này.
Chính vì tầm quan trọng của việc tổ chức TCĐK cho trẻ là rất cần thiết,
nguyện vọng của bản thân muốn góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ mầm non, giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin bước vào tương lai nên
tôi đã chọn vấn đề: “Tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn ở các
trường mầm non thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên” làm đề tài nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng tổ chức trò chơi đóng kịch ở
các trường mầm non. Từ đó đưa ra những biện pháp tổ chức TCĐK cho trẻ
mẫu giáo lớn nhằm nâng cao chất lượng tổ chức trò chơi góp phần phát triển
toàn diện nhân cách cho trẻ.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo.
- Đối tượng: Các biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, tại các trường mẫu giáo việc tổ chức trò chơi đóng kịch cho
trẻ mẫu giáo lớn vẫn chưa được chú trọng, nhiều giáo viên gặp nhiều khó
khăn khi tổ chức trò chơi cho trẻ vì vậy trẻ chưa thực sự hứng thú trong trò
chơi. Nếu có những biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ tạo điều kiện
cho giáo viên tổ chức trò chơi đóng kịch một cách dễ dàng và phù hợp với đặc
11


điểm tâm sinh lí thì sẽ làm tăng hứng thú của trẻ và góp phần phát triển toàn
diện nhân cách cho trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về “Tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu
giáo lớn ở các trường Mầm non ”.
- Nghiên cứu thực trạng tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường Mầm non thị xã Sông Cầu, Phú Yên.
- Đề xuất các biện pháp để tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường mầm non thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tại các trường mầm non công lập ở thị xã
Sông Cầu, tỉnh Phú Yên:
- Trường MN Xuân Lộc.

- Trường MN Xuân Bình.
- Trường MN Xuân Hải.
- Trường MN Xuân Hòa.
- Đề tài được nghiên cứu trong giai đoạn 2015 – 2017.
- Đối tượng trẻ mẫu giáo lớn ở các Trường Mầm non công lập tại thị xã
Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đánh giá được thực trạng tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường mầm non thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất được biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường mầm non để tổ chức trò chơi đạt hiệu quả hơn.

12


- Biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn ở các
trường mầm non mà đề tài đã xây dựng có thể áp dụng cho tất cả các trường
mầm non trên địa bàn thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu, phân
loại tài liệu,… nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận của “Tổ chức trò chơi đóng kịch cho
trẻ mẫu giáo lớn ở các trường mầm non thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên”.
8.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp điều tra
- Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên để tìm hiểu nhận thức, biện
pháp, kinh nghiệm, khó khăn của giáo viên trong việc tổ chức TCĐK cho trẻ
mẫu giáo lớn.
8.2.2. Phương pháp quan sát
- Dự giờ, quan sát trẻ trong khi trẻ chơi đóng kịch để làm rõ đặc điểm

kỹ năng của trẻ khi trẻ tham gia trò chơi.
- Quan sát quá trình giáo viên hướng dẫn trẻ trong khi trẻ tham gia trò chơi.
8.2.3. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi, đàm thoại với giáo viên về cách thức tổ chức, thái độ, nhận
định về kỹ năng trẻ thể hiện các vai chơi.
- Đàm thoại với trẻ về cảm nhận của trẻ trong các vai chơi.
8.2.4. Phương pháp phân tích tổng hợp kinh nghiệm
- Tổng hợp những kinh nghiệm của giáo viên trong nhà trường qua quá
trình tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn.
8.2.5. Phương pháp chuyên gia
- Trưng cầu ý kiến của các chuyên gia tâm lý giáo dục và chuyên gia
giáo dục mầm non về tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn.
13


8.2.6. Phương pháp thử nghiệm
- Tiến hành thử nghiệm các biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho
trẻ mẫu giáo lớn để thấy được kết quả mà đề tài cần xây dựng.
8.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý kết quả nghiên cứu.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường mầm non.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo
lớn ở các trường mầm non thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Biện pháp tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo lớn ở
các trường mầm non.


14


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu
Trong cuộc sống xã hội loài người, trò chơi đã có từ rất lâu, song phải
cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX hoạt động này mới được nghiên cứu một
cách sâu sắc.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động vui chơi, từ cuối thế kỷ
XIX đã xuất hiện khuynh hướng quan niệm về trò chơi như là cơ sở của tất cả
các loại nghệ thuật đó là quan điểm của P. Siller (1756 – 1800) và G. Spencer
(1820 – 1903). Họ cho rằng chơi là nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại của cuộc
sống, đặc biệt vào những thời gian rãnh rỗi, những năng lượng dư thừa vì
không được sử dụng vào hoạt động kiếm sống nên con người đã tiêu khiển
bằng cách bắt chuốt hoạt động, đó là trò chơi. Thuyết này không giải thích
được trường hợp sau thời gian lao động, sức cùng lực kiệt rồi mà con người
vẫn ham thích chơi, vẫn không bỏ cuộc chơi. K.Gross (1861 – 1946) lại cho
rằng trò chơi là sự chuẩn bị vô thức của trẻ để bước vào cuộc sống. S.Freud
(1856 – 1933) cho rằng nguồn gốc kích thích trẻ vui chơi là mặt cảm thiếu hụt
ở chính đứa trẻ, trẻ tích cực hoạt động vui chơi để bù đắp những gì chưa có
hoặc còn thiếu, nguồn gốc sâu xa, kích thích vui chơi chính là bản năng sinh
học của đứa trẻ. Những thuyết này tuy còn có cái nhìn phiến diện về nguồn
gốc bản chất của trò chơi (đề cao yếu tố bản năng), nhưng họ điều cho rằng
vui chơi là nhu cầu, là đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống con người.
Bên cạnh khuynh hướng coi yếu tố sinh học, bản năng sinh học là
nguồn gốc phát sinh, phát triển trò chơi như đã trình bày ở trên, các nhà khoa
học người Nga như: L.X. Vugôtxki, N. A.Leeonchhiep, A.C. Macarenco, A.A.
Liublinxkaia … Cho rằng trò chơi có nguồn gốc xã hội, ở những xã hội khác

15


nhau có trò chơi khác nhau, trò chơi là một nghệ thuật xuất hiện sau lao động,
trên cơ sở của lao động. Trò chơi là sợi dây nối giữa các thế hệ với nhau,
truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm của lịch sử xã hội loài người, những
thành quả văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhà giáo dục người Nga N.A. Lêônchiép đã coi “Trò chơi đóng kịch là
một hình thức quá độ sang hoạt động thẩm mĩ, hoạt động nghệ thuật”. Như
vậy, ở trường mầm non, nhiệm vụ làm cho trẻ yêu kịch, ham thích tham gia
đóng kịch là quan trọng.[12].
Tác giả A.I. Xôrôkina trong tác phẩm “Giáo dục học mẫu giáo” cũng đã
đưa ra một số biện pháp hướng dẫn trẻ chơi TCĐK như: Giáo viên lựa chọn
TPVH có ý nghĩa giáo dục, giúp trẻ nhớ nội dung câu chuyện, cô cho nhiều
trẻ tham gia và tổ chức một vài nhóm chơi cùng một lúc, sử dụng trang phục
phù hợp.[50].
Ph.A.Sookhin cho rằng, phát triển lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo
bao gồm việc giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt của giáo dục tiếng mẹ đẻ, đó
là: Phát triển vốn từ và đặc biệt là kỹ năng sử dụng từ ngữ để diễn đạt ý
nghĩa một cách rõ ràng, ngắn gọn và chính xác; Hình thành cấu trúc ngữ
pháp; giáo dục ngữ âm. Từ đó tác giả cũng đưa ra biện pháp khác nhau để
thực hiện nhiệm vụ như: “kể lại chuyện theo tác phẩm văn học”, “Kể
chuyện theo tranh”, “Kể chuyện theo đồ chơi”, “Kể chuyện theo kinh
nghiệm”, “dựng chuyện”. [32].
Với trẻ thơ chơi là nhu cầu, nó xuất phát từ trong lòng sự phát triển của
trẻ. Sự phát triển ấy chính là tiền đề, nguồn gốc đầu tiên của hoạt động vui
chơi của trẻ. Bên cạnh những yếu tố sinh học, khi chơi trẻ cần có môi trường
xã hội, nơi trẻ sống và chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường đó. Hơn thế
nữa hoạt động của chính bản thân trẻ với môi trường xung quanh cũng có ảnh
hưởng quyết định đến sự phát triển của hoạt động vui chơi của trẻ.


16


Những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước về nguồn
gốc, bản chất của trò chơi là nền tảng khoa học để các nhà khoa học nước
ngoài và Việt Nam đi sâu nghiên về tổ chức TCĐK.
Một tài liệu của tác giả nước ngoài nghiên cứu về TCĐK mà trong quá
trình nghiên cứu chúng tôi đã được tiếp cận như: “Đọc và kể chuyện văn học
ở vườn trẻ” của M. K. Bô gôliup và V. V Sepsenko. Trong tác phẩm này, các
tác giả đã nhấn mạnh ý nghĩa của TCĐK như là phương tiện giáo dục trên
nhiều mặt. Các tác giả còn đưa ra những biện pháp hướng dẫn trẻ chơi đóng
kịch như đọc kể tác phẩm, xem tranh, cô và trẻ cùng luyện tập những động tác
phù hợp với vai diễn, cô quan sát giúp đỡ trẻ diễn đúng, cho trẻ ôn luyện những
vỡ kịch đã đóng. Tuy các tác giả không đề cập đến một yếu tố rất quan trọng
của TCĐK nói riêng và kịch chính thống nói chung đó là kịch bản và sử dụng
kịch bản khi đóng kịch nhưng những trình bày của họ về quy trình tổ chức
đóng kịch và một vài biện pháp có tính gợi ý cách thực hiện như đã liệt kê ở
phía trên thực sự là những tư liệu đáng quý để những người đi sau tham khảo.
Trong cuốn giáo dục học mầm non do tác giả Đào Thanh Âm chủ biên,
khi đề cập về TCĐK tác giả đã viết “ TCĐK mang tính sáng tạo nghệ thuật cao,
nó thường tái hiện lại những hình tượng và hành động của các nhân vật có sẵn
một cách sáng tạo … Bằng trí tưởng tượng sáng tạo, bằng tâm hồn nghệ sĩ của
mình trẻ tái hiện, mô tả lại những hình tượng yêu quý trong trò chơi … TCĐK
được các em quan niệm như một màng biểu diễn đã làm cho các em thích thú,
thông qua trò chơi còn giúp trẻ hiểu được tính chân, thiện, mỹ từ đó bồi dưỡng
cho trẻ tâm hồn thanh cao và lòng nhân ái”. Trong tác phẩm của mình tác giả
đã đề cập tới cách hướng dẫn trẻ chơi đóng kịch giống như tác giả người Nga
chỉ khác là cô và trẻ cùng chuẩn bị chỗ chơi, bàn bạc thảo luận về quá trình
chơi. Lúc đầu cô đóng vai chính, thông qua vai diễn của mình chỉ cho trẻ cách

diễn. Kết thúc trò chơi cô nhắc nhở trẻ thu dọn đồ dùng.

17


Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã quan
tâm nghiên cứu đến quá trình tổ chức TCĐK cho trẻ mẫu giáo để phát triển trẻ
một cách toàn diện. Những nghiên cứu này tạo một nền tảng vững chắc cho
chúng tôi nghiên cứu việc tổ chức TCĐK cho trẻ mẫu giáo nhằm phát triển
toàn diện cho trẻ.
1.2.Trò chơi đóng kịch của trẻ mẫu giáo lớn
1.2.1. Khái niệm trò chơi, trò chơi đóng kịch
* Trò chơi:
Hoạt động chủ đạo của trẻ em ở tuổi mẫu giáo là vui chơi, qua vui
chơi trẻ em thỏa mãn nhu cầu được chơi, được học, được sống, được giống
như người lớn. Do vậy những điều người lớn muốn dạy trẻ và những điều
trẻ muốn được học cần được tổ chức dưới hình thức vui chơi “Học mà
chơi, chơi mà học”.
Trong vui chơi con người sử dụng rất nhiều trò chơi, tùy vào góc độ
tiếp cận mà có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về trò chơi:
Theo Từ điển tiếng Việt, chữ “Trò” được hiểu là một hình thức mua vui,
được bày ra trước mắt mọi người, chữ “chơi” để chỉ những hoạt động lúc nhàn
rỗi, ngoài giờ làm việc, có mục đích giải trí. Từ đó “trò chơi” được hiểu là những
hình thức hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu cầu giải trí cho con người [29].
G.V Plêkhanốpcho rằng: Trò chơi là một hình thức hoạt động, gắn
liền với lao động của xã hội loài người, ông đã lý giải mối quan hệ giữa
vui chơi của trẻ em và lao động của người lớn như là nguồn gốc xã hội nảy
sinh trò chơi [31].
Một số nhà khoa học khác như: Nguyễn Toán, Lê Anh Thơ (Việt Nam) thì
cho rằng: Trò chơi là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, là một phương tiện để

giáo dục con người, trước hết là giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng [31].

18


Theo quan điểm của giáo dục học thì trò chơi là hình thức thể hiện cuộc
sống, là phương tiện phát triển nhân cách con người. Đối với trẻ em trò chơi
là hoạt động giúp trẻ tái tạo các hoạt động của người lớn qua vui chơi, thể lực,
trí tuệ, đạo đức được hình thành.
Theo tác giả Ngô Ngọc Thanh trò chơi là hoạt động trình diễn bằng các
tín hiệu và thông qua luật lệ của một nhóm người làm giải tỏa sự bức xúc về
tinh thần và thể chất, để tái tạo sức lao động và năng lượng. Ở đây tín hiệu
chơi được hiểu là những phương tiện dùng để chơi, còn “lệ chơi” là những
quy định cho việc chơi, là yếu tố quyết định đến việc chơi [29].
Tóm lại, trò chơi là một kiểu chơi, một dạng hoạt động giải trí, một
hình thức phản ánh hoạt động sản xuất, sinh hoạt văn hóa xã hội, được thực
hiện theo quy ước nhằm thỏa mãn những nhu cầu về thể chất và tinh thần của
con người.
*Trò chơi đóng kịch:
Hoạt động vui chơi là một trong các loại hình hoạt động của trẻ ở
trường mầm non nhằm giúp trẻ thõa mãn các nhu cầu vui chơi. Có rất nhiều
nhà nghiên cứu đã tìm hiểu các loại hình trò chơi, trong đó có trò chơi đóng
kịch. Chẳng hạn như:
Nhà giáo dục người Nga A.I. Xôrôkina cho rằng: “Trò chơi đóng kịch
là trò chơi trong đó các em chỉ biểu diễn những chủ đề có sẵn. Đặc điểm của
trò này là ở chỗ dựa vào chủ đề của một chuyện cổ tích hoặc của một truyện
ngắn các em đóng những vai nhất định nào đó và tái hiện lại mọi sự kiện theo
trình tự của chúng. TCĐK là một biến dạng của trò chơi sáng tạo, vì cơ sở của
nó là tái hiện lại các hình tượng và các hoạt động một cách sáng tạo”
[50,tr.44].

Tác giả Lương Kim Nga, Phùng Hữu Kiếm định nghĩa: Trò chơi đóng
kịch là một nội dung của hoạt động vui chơi trong trường mẫu giáo. Tuy vậy,
19


nó không đơn thuần là trò chơi mà còn là hoạt động mang tính chất nghệ
thuật. Ngược lại nó không chỉ là hoạt động nghệ thuật mà còn là trò chơi. Hai
yếu tố này kết hợp chặt chẽ trong nội dung cũng như trong quá trình tổ chức
vui chơi, kích thích trẻ hoạt động tích cực trong suốt cuộc chơi [26].
Tác giả, Đinh Văn Vang cho rằng: “Trò chơi đóng kịch là trò chơi đóng
vai theo tác phẩm văn học (truyện ngụ ngôn, cổ tích, thần thoại …) nhờ trí tưởng
tượng sáng tạo và cảm xúc của mình trẻ tái hiện lại tính cách nhân vật trong tác
phẩm văn học. Để tham gia trò chơi này trước hết trẻ phải cảm thụ được tác
phẩm văn học, nắm được cốt truyện, tính cách nhận vật. Trên cơ sở đó tái hiện
lại tính cách nhân vật theo kịch bản. Do vậy trò chơi này phù hợp với lứa tuổi
mẫu giáo, khi mà vốn sống, ngôn ngữ của trẻ đã phát triển” [47, tr.115].
Cũng nghiên cứu vấn đề này, nhóm tác giả Phạm Thị Châu, Nguyễn
Thị Oanh, Trần Thị Sinh đưa ra định nghĩa: “Trò chơi đóng kịch là trò chơi
trong đó trẻ đóng vai các nhân vật trong tác phẩm văn học (chủ yếu là chuyện
cổ tích, ngụ ngôn,…) bằng trí tưởng tượng, sáng tạo cao, bằng tâm hồn nghệ
sỹ của mình, trẻ tái hiện lại các hình tượng nhân vật yêu quý của mình qua cử
chỉ, điệu bộ, sắc thái, nét mặc và lời nói” [8,tr. 182].
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu
cũng đã có những cái nhìn chung về TCĐK như nội dung, hoạt động,… của
trò chơi này. Từ đó có thể hiểu rằng:
Trò chơi đóng kịch là dạng trò chơi sáng tạo, đặc trưng của lứa tuổi
mẫu giáo, trong đó trẻ đóng vai các nhân vật trong tác phẩm văn học (chủ
yếu là chuyện cổ tích, ngụ ngôn,…) bằng trí tưởng tượng sáng tạo, trẻ tái
hiện lại các hình tượng nhân vật yêu quý của mình qua cử chỉ, điệu bộ, sắc
thái nét mặt và qua lời nói.


20


1.2.2. Đặc điểm sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi)
Trẻ mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi, trong đó có
TCĐK, mang một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Chính sự
kết hợp giữa văn học và nghệ thuật biểu diễn đã tạo điều kiện cho đứa trẻ
bước vào thế giới văn học, thế giới con người với vô vàn những mối quan hệ
phức tạp… Sự tiếp xúc thường xuyên với tác phẩm văn học sẽ kích thích sự
nhạy cảm thẩm mỹ ở trẻ, đồng thời phát triển khả năng nhận thức, khả năng
sáng tạo và góp phần giáo dục những tình cảm đạo đức ở trẻ một cách tự
nhiên. Mặt khác, TCĐK còn phát triển tính tích cực cá nhân, tính độc lập sáng
tạo, trí tưởng tượng phong phú …
*Đặc điểm phát triển thể chất:
Về sức vóc: Trẻ 5 tuổi tăng trưởng nhanh về chiều cao và cân nặng.
Chiều cao trung bình cơ thể là 105 cm, cân nặng trung bình là 17 kg.
Về giải pháp sinh lý: Hệ xương bắt đầu được cốt hóa, cơ bắp to ra, các
cơ quan hô hấp và tuần hoàn phát triển, trọng lượng của não tăng nhanh từ
1.1000g đến 1.350g. Tăng cường vai trò điều chỉnh và kiểm tra của vỏ bán
cầu đại não đối với các vùng vỏ dưới, tốc độ hình thành phản xạ có điều kiện
tăng nhanh, hệ thống tín hiệu thứ nhất phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển đó tạo nên những điều kiện cần thiết để trẻ có thể hoạt
động độc lập nhiều hơn và giúp trẻ lĩnh hội những hình thức mới của kinh
nghiệm xã hội trong quá trình giáo dục. Tuy vậy sự phát triển đó chưa tạo ra
được một biến đổi mạnh mẽ thật thuận lợi trong hoạt động học tập, phải đến
cuối 5 tuổi, bước sang tuổi thứ 6 thì sự phát triển thể chất của trẻ mới bắt đầu
thích ứng với hoạt động học tập.
Qua các hành động chơi, qua các vai chơi và quan trọng hơn cả là qua
quá trình luyện tập rất chăm chỉ, cố gắng của trẻ thì hệ thần kinh, hệ hô hấp,

các cơ, xương của trẻ phát triển tốt hơn. Trẻ không những được tham gia vào
21


việc rèn luyện các vận động nhịp nhàng để phối hợp một cách ăn ý với các
bạn mà trẻ còn được học cách nói chuyện, cách diễn đạt ngôn ngữ vừa dễ
hiểu, vừa biểu cảm và khả năng tư duy logic chính xác. Cơ thể trẻ khỏe mạnh
cả về thể chất và tinh thần làm cho trẻ thêm yêu đời, yêu cuộc sống, biết tri
giác cái đẹp sâu sắc hơn, tinh tế hơn và trẻ có khả năng tạo ra cái đẹp trong
mọi hoạt động sáng tạo cũng như trong hoạt động hàng ngày.
* Đặc điểm phát triển tâm lý xã hội:
Từ lọt lòng đến 1 tuổi: Trẻ dần biết tin người khác về việc thõa mãn các
nhu cầu của mình và do đó phát triển được các cảm xúc về giá trị của bản
thân. Những trẻ nào không được chăm sóc đầy đủ sẽ có thể mất tin tưởng ở
những người sống xung quanh. Trẻ biết bẽn lẽn, không theo người lạ…
Trẻ từ 1 – 3 tuổi: Trẻ tập tự chủ, tập đi, tập ăn một mình, tập rửa mặt,
tập tự mặc quần áo và bắt đầu tập tuân theo các quy tắc xã hội. Những trẻ nào
không tự chủ được là do không tin tưởng ở khả năng của mình trong việc đối
phó với thế giới bên ngoài và cảm thấy xấu hổ về chuyện này.
Trẻ từ 3 – 6 tuổi: Trẻ nâng cao khả năng tự chủ đã có ở giai đoạn trước,
chơi trò chơi ĐVTCĐ, nhận làm một số việc trong nhà giúp người lớn. Đôi khi
hành động của trẻ xung đột với người lớn, trẻ có thể tập tránh xa các xung đột
bằng cách điều hòa ý muốn của mình với các yêu cầu của người lớn, của cha mẹ.
Khi tham gia trò chơi đóng kịch trẻ nhận thức được cuộc sống với
những vẻ đẹp phong phú, muôn hình muôn vẻ, mỗi tác phẩm lại mở ra cho trẻ
một cái nhìn mới, một nhận thức mới về cuộc sống. Trẻ lại được trực tiếp thể
nghiệm những nhận thức đó nên vốn hiểu biết của trẻ không chỉ tăng lên mà
còn được củng cố, được chính xác hóa.
TCĐK còn giúp trẻ phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. Để tham
gia trò chơi, trẻ phải ghi nhớ nội dung tác phẩm, hành động của nhân vật một

cách có chủ định. Nhờ các thao tác tư duy, trẻ hóa thân vào nhân vật, khái
quát lên những nét tiêu biểu của nhân vật để thể hiện.

22


TCĐK phát triển tính tích cực cá nhân, độc lập, sáng tạo ở trẻ. Qua
trình chơi, trẻ được thể hiện lại những gì chúng nghe, được diễn theo những gì
chúng thích, chúng nghĩ qua sự hướng dẫn của giáo viên, thể hiện vai một
cách độc lập, sáng tạo. Mặt khác để có thể diễn tốt các vai, hình dung ra các
hành động, lời thoại … đòi hỏi trẻ phải tưởng tượng, đặc biệt là tưởng tượng
sáng tạo và chính quá trình chơi này trí tưởng tượng của trẻ phát triển.
Thông qua nghệ thuật ngôn từ, các tác phẩm văn học giáo dục trẻ lòng
nhân ái, tình yêu thương, tinh thần đoàn kết…một cách tự nhiên thông qua
các hình tượng nghệ thuật. Và hơn thế nữa, khi tham gia trò chơi đóng kịch,
trẻ được trải nghiệm những đức tính tốt đẹp của con người, những giá trị đạo
đức cao cả. Được trực tiếp thể hiện những tình huống đạo đức trẻ sẽ hiểu hơn
và biết vận dụng vào cuộc sống. Từ đó góp phần phát triển tâm lý xã hội.
1.2.3. Đặc điểm của trò chơi đóng kịch
Như chúng ta đã biết mỗi loại hình nghệ thuật đều có tác động riêng đối
với đời sống tình cảm của trẻ, mỗi tác phẩm nghệ thuật lại mở ra cho trẻ một
cái nhìn, một nhận thức mới về cuộc sống phong phú, về những đức tính tốt
đẹp của con người cũng như lòng dũng cảm, tính trung thực, tình yêu quê
hương đất nước… Vì thế việc cho trẻ tiếp xúc với nghệ thuật sẽ bồi dưỡng ở
trẻ những xúc cảm thẫm mỹ và đó là sự gieo mầm cho tình yêu chân chính
với nghệ thuật.
Trẻ mẫu giáo rất thích những trò chơi giống như cách biểu diễn ở
các nhà hát, trong đó có một số trẻ là nghệ sĩ, một số trẻ khác làm khán
giả, đó chính là trò chơi đóng kịch. TCĐK vừa đem lại cho trẻ niềm hạnh
phúc được vui chơi, vừa bồi dưỡng cho trẻ một tâm hồn nhạy cảm, phong

phú. Qua TCĐK, trẻ tự hoàn thiện mình về mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,
ngôn ngữ… Đặc biệt, trò chơi đóng kịch phát triển tính độc lập, sáng tạo
trong lao động nghệ thuật.
23


Trò chơi đóng kịch là sự kết hợp giữa văn học và nghệ thuật biểu diễn.
Tuy nhiên, không giống với các tác phẩm văn học, yếu tố miêu tả trong tác
phẩm kịch gần như không có. Nghĩa là, nếu có thì chỉ có trong lời thoại của
nhân vật. Khi trẻ tham gia vào TCĐK thì không phải là trẻ nói y nguyên lại
nội dung của một câu chuyện, hay nói cách khác là trẻ biểu diễn lại giống
với những gì có trong tác phẩm văn học. Như vậy, để trẻ tham gia vào trò
chơi đóng kịch ta phải chuyển thể tác phẩm văn học thành một kịch bản có
nhiều tình tiết cụ thể hơn và lời thoại cho nhân vật phải nhiều và rõ ràng
hơn. Tác phẩm kịch phải thể hiện được rõ từng hành động, ngôn ngữ, thái
độ của mỗi nhân vật.
Để có một tác phẩm kịch hay, hấp dẫn, phù hợp với đặc điểm tâm,
sinh lý… của trẻ mẫu giáo thì việc lựa chọn TPVH để dựng kịch là rất quan
trọng. Tác phẩm kịch với đặc trưng là những hành động, những lời nói,
những xung đột được xâu chuỗi, dẫn dắt và phát triển đến đỉnh điểm, ch ín
muồi. Kịch tạo ra một sự căn thẳng cao độ và sau đó là cỡi nút bằng cách
này hoặc cách khác. Chính vì thế, cần có một tác phẩm văn học với tình tiết
hấp dẫn, tính cách nhân vật rõ ràng, nhiều hành động, diễn cảm và giàu đối
thoại … để chuyển thể sang kịch.
TCĐK có vai chơi, chủ đề chơi, nội dung chơi và hoàn cảnh tưởng tượng.
Vai chơi là các nhân vật trong tác phẩm kịch mà trẻ đóng. Vai chơi có
những hành động ngôn ngữ tương ứng với chúng và giữa các vai chơi có mối
liên hệ gắn bó với nhau. Tuy nhiên, nếu như vai chơi trong trò chơi đóng vai
theo chủ đề, trẻ thường phản ánh những ấn tượng mà trẻ cảm nhận được trực
tiếp từ cuộc sống xung quanh thì ở TCĐK vai chơi của trẻ hóa thân vào nhân

vật trong tác phẩm kịch tái tạo lại những ấn tượng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng nghệ thuật. Ở TCĐK quá trình tái tạo đó được điều chỉnh từ nội
dung tác phẩm văn học cụ thể. Trẻ không chỉ biến thành người lớn mà còn
24


phải hóa thân vào các nhân vật với nội tâm phong phú, có tính phức tạp và
tính cá biệt với những hành động vừa thực tế vừa kỳ ảo. Để đóng vai này trẻ
phải trải qua một quá trình lao động nghệ thuật gần giống như một nghệ sĩ. Ở
TCĐK thì hoạt động của trẻ phải phụ thuộc vào nội dung tác phẩm.
Nội dung của TCĐK là nội dung của tác phẩm văn học đã được chuyển
thể sang kịch bản hay một tác phẩm kịch. Nội dung có sẵn quy định thành
phần của các vai chơi, quyết định lời nói của các nhận vật và trình tự sảy ra
các cảnh tượng. Điều đó giúp trẻ dễ dàng hơn trong quá trình chơi, nhưng
phải yêu cầu trẻ thực sự thông hiểu tác phẩm, cảm nhận tác phẩm một cách
chính xác và sâu sắc, chủ đề chơi và nội dung chơi được xác định bởi chủ đề
và nội dung của tác phẩm văn học phản ánh cuộc sống xung quanh.
TCĐK mang tính chất sáng tạo nghệ thuật cao, nó thường tái hiện lại
những hình tượng và hành động của các nhân vật có sẵn một cách sáng tạo.
Việc đặt mình vào một nhân vật (đóng vai) và thực hiện lời nói, hành động
của nhân vật đó đòi hỏi trẻ phải có trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng
của mình trẻ tái lập một cuộc sống mà trí tưởng tượng của nghệ sỹ đã để lại
trong tác phẩm nghệ thuật. Trẻ phải hình dung ra các nhân vật sẽ đóng, trẻ
cũng phải hình dung ra các sự kiện mà nhân vật tham gia cũng như khả năng
hiểu được tính cách, tình cảm, những mối quan hệ qua lại của các nhân vật.
Chính điều đó thúc đẩy quá trình phát triển tình cảm thẩm mỹ và trí tưởng
tượng của các em. Sự cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, trí tưởng tượng của các
em cũng như sự hình dung về nhân vật nghệ thuật khác nhau, điều đó dẫn tới
sự thể hiện các vai của từng trẻ cũng khác nhau vì vậy mà TCĐK mang tính
chất sáng tạo nghệ thuật.

TCĐK là một hoạt động đòi hỏi sự phối hợp giữa các vai trong trò chơi
với nhau. Đầu tiên trẻ phải thỏa thuận những vai chơi, phân công vai chơi.
Khi thực hiện trò chơi các vai có sự phối hợp, liên kết thực hiện những hành
25


×