Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

luận văn thạc sĩ Đánh giá thực trạng công tác quản trị rủi ro tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.46 KB, 87 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đứng trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế nước nhà, ngân hàng với
tư cách là một doanh nghiệp đặc biệt, một tổ chức tài chính cũng chuyển mình theo
guồng quay mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước. Bởi vậy ngân hàng đã không ngừng đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng
và tiện dụng. Thẻ tín dụng quốc tế là một trong những dịch vụ như vậy.
Thẻ tín dụng quốc tế là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp.
Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng. Thay vào đó, ngân hàng sẽ
ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng khoản
giao dịch. Ngày nay thẻ tín dụng đã được sử dụng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày
của đông đảo người dân toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc triển khai
hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế là một phần tất yếu trong sự
phát triển chung về thẻ của ngành ngân hàng.
Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng và lợi nhuận cao
mà dịch vụ này mang lại thì các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và rủi
ro khôn lường. Nhận thức được điều đó, Agribank CN Cầu Giấy đã có những giải pháp
nhằm giảm thiểu rủi ro và khắc phục khó khăn. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề bất
cập tồn tại dẫn đến kết quả đạt được không như kỳ vọng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Quản trị rủi ro không còn là đề tài mới mẻ, tuy nhiên hoạt động này vẫn là vấn
đề cấp thiết. Do việc kinh doanh của các ngân hàng tại Việt Nam chủ yếu là hoạt động
truyền thống cho vay tín dụng, hoạt động kinh doanh thẻ TDQT chưa thực sự được
quan tâm đúng với tiềm năng.
Mặt khác, các nghiên cứu trước đây tập trung nhiều ở việc phát triển hoạt động
kinh doanh thẻ TDQT, và các nghiên cứu đó hầu hết được thực hiện ở thời kỳ đầu khi
thẻ TDQT triển khai tại thị trường Việt Nam.




2

Trong bài luận này, em xin đề cập đến các rủi ro cơ bản thường gặp trong hoạt
động kinh doanh thẻ TDQT tại Việt Nam và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi
ro hoạt động thẻ TDQT tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
3. Mục đích của đề tài:
-

Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản quản trị rủi ro kinh doanh thẻ TDQT.

-

Phân tích, đánh giá quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại
Agribank CN Cầu Giấy.

-

Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro dịch vụ thẻ tín dụng
quốc tế tại Agribank CN Cầu Giấy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Rủi ro tồn tại trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc đưa ra các
biện pháp hạn chế và ngăn ngừa rủi ro đó là rất cần thiết. Bài luận này lựa chọn hoạt
động kinh doanh thẻ TDQT tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Chi
nhánh Cầu Giấy làm đối tượng nghiên cứu. Và phạm vi mà khóa luận đề cập chỉ giới
hạn trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của Chi nhánh Cầu Giấy giai đoạn từ 2010
đến 2016.

5. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở một số phương pháp như phương pháp
thống kê, so sánh, kết hợp với phương pháp phân tích làm rõ các vấn đề đặt ra.
6. Kết cấu luận văn:
- Tên đề tài: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế tại
-

Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
Bố cục luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh
doanh thẻ TDQT.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng
quốc tế tại Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng
quốc tế Agribank Chi nhánh Cầu Giấy.


3

Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức còn chưa sâu nên khóa luận sẽ
khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong được sự thông cảm và
đóng góp ý kiến của thầy cô.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô Đào Thị Thu Giang đã dành nhiều
thời gian giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.

NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Thu
7.



4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TDQT
1.1
Khái niệm rủi ro và quản trị rủi ro
1.1.1 Rủi ro
1.1.1.1 Khái niệm rủi ro

Trong các nghiên cứu, có 2 trường phái nổi bật về rủi ro: Trường phái truyền

-

thống (trường phái tiêu cực) và trường phái trung hoà.
Trường phái truyền thống
Rủi ro được coi là sự không may mắn, sự tổn thất, mất mát, nguy hiểm…
Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến.
Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may.
Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại…
Rủi ro là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp có tác động xấu.
Như vậy, theo cách nghĩ truyền thống thì Rủi ro là những thiệt hại, mất mát,
nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không may

-

có thể xảy ra.
Trường phái trung hoà

Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được
Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi
Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến…
Như vậy, Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích
cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những tổn thất, mất mát, nguy
hiểm… nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội.
1.1.1.2

Phân loại rủi ro
Rủi ro được phân loại theo 2 phương pháp sau:
a) Rủi ro thuần túy
Rủi ro thuần túy tồn tại khi có một nguy cơ tổn thất nhưng không có cơ hội

kiếm lời được.
Ví dụ: người chủ một chiếc xe có rủi ro tổn thất tiềm ẩn liên quan đến một vụ
đụng xe. Nếu có đụng xe người đó sẽ bị thiệt hại về tài chính. Nếu không, người đó sẽ
không có lợi gì cả, vì thế tình trạng tài chính của người đó vẫn không thay đổi.


5

Rủi ro thuần tuý có thể được phân thành 5 nhóm như sau:
Rủi ro cá nhân: đó là các tổn thất về thu nhập hay tài sản của một cá nhân.
Nhìn chung, rủi ro thu nhập được đánh giá dựa trên 4 mối nguy hiểm sau:
Chết sớm
Tuổi già
Mất sức lao động
Thất nghiệp
Rủi ro về tài sản: Bất cứ một cá nhân nào là chủ sở hữu tài sản, đều phải chịu
rủi ro về tài sải. Rủi ro về tài sản là những tổn thất về tài sản do bị hư hỏng hay mất

-

mát. Rủi ro về tài sản được chia thành 2 nhóm: tổn thất trực tiếp và tổn thất gián tiếp.
Tổn thất gián tiếp: tổn thất trực tiếp có thể được hiểu một cách đơn giản như sau: nếu
một ngôi nhà bị tiêu huỷ do hoả hoạn, tài sản của người sở hữu bị thiệt hại là giá trị tài

-

sản toàn ngôi nhà. Thiệt hại này được gọi là thiệt hại trực tiếp hay tổn thất trực tiếp.
Tổn thất gián tiếp hay tổn thất do hậu quả: khi ngôi nhà bị cháy (tổn thất trực tiếp), hậu
quả kéo theo là chủ ngôi nhà phải chi thêm một khoản tiền để có thể sống tạm một thời
gian ở đâu đó trong lúc ngôi nhà được xây dựng (hay phụ hồi) lại. Phần tổn thất này
được gọi là tổn thất gián tiếp hay tổn thất “hậu quả”.
Ví dụ: Một phân xưởng sản xuất bị hoả hoạn. Tổn thất trực tiếp của công ty là
toàn bộ giá trị phân xưởng bị thiêu huỷ. Tổn thất gián tiếp của công ty là thiệt hại về
thu nhập do phân xưởng đó sản xuất ra nếu còn sử dụng nó.
Rủi ro tổn thất về tài sản có thể là một hỗn hợp giữa 3 loại rủi ro:
-

Rủi ro tổn thất về tài sản

-

Tổn thất về thu nhập khi tài sản không được sử dụng.

-

Chi phí tăng thêm trong trường hợp có thiệt hại về tài sản.
Rủi ro pháp lý: Mối nguy hiểm cơ bản trong rủi ro pháp lý là sự bất cẩn (không


cố ý) của người khác, hay sự nguy hiểm đến tài sản của họ do không cẩn thận hay
không chủ tâm gây nên. Như vậy, rủi ro pháp lý còn có thể là kết quả từ việc bất cẩn
không cố ý gây nên.


6

Dưới hệ thống pháp luật của nước ta, điều luật chỉ ra rằng nếu một người nào
đó có hành vi định làm hại người khác, hay định gậy thiệt hại tài sản của người khác vì
sự bất cẩn hay vì một lý do nào khác, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý với sự thiệt hại
gây ra đó.
Rủi ro pháp lý là tổng hợp giữa khả năng thiệt hại về tài sản hiện tại và tổn thất
về thu nhập trong tương lai do hậu quả thiệt hại về tài sản gây nên, hay trách nhiệm
pháp lý phát sinh trong trường hợp cố ý hay không cố ý gây hại hay xâm phạm quyền
lợi của người khác.
Ví dụ: Do sự bất cẩn của người thợ hàn, hàn cửa sắt ở tầng 2 của một toà nhà
thương mại đã gây hoả hoạn làm cháy cả toà nhà, gây tổn thất rất lớn về người và tài
sản (hàng chục tỷ đồng của các hộ kinh doanh trong toà nhà đó). Trung tâm mua bán
đã phải ngừng hoạt động cả năm trời để sửa chữa. Ông chủ của cơ sở hàn có người thợ
hàn làm việc bất cẩn, gây hoả hoạn đã bị truy tố trước pháp luật vì sự bất cẩn của nhân
viên của mình.
Rủi ro phát sinh do sự phá sản của người khác: Khi một người nào đó đồng ý
làm việc cho một tổ chức, người đó phải có trách nhiệm với bất kỳ tình huống nào mà
tổ chức sẽ gặp phải. Khi một cá nhân hay tổ chức bị phá sản, đó là hậu quả của tổn thất
về tài chính, ta nói rủi ro là hiện hữu. Trong trường hợp này tổ chức có thể đưa vấn đề
phá sản vào hợp đồng để xây dựng phương án thanh toán nợ vay khi có sự cố xảy ra.
b) Rủi ro suy đoán
Rủi ro suy đoán tồn tại khi có một cơ hội kiếm lời được cũng như một nguy cơ
tổn thất.
Ví dụ: Đầu tư vào một dự án vốn có thể có lợi nhuận hay có thể thất bại.

Rủi ro suy đoán có thể được phân loại theo nhóm nguyên nhân sau đây:
Rủi ro do thiếu kinh nghiệm và kỹ năng quản lý kinh doanh: rủi ro do thiếu
kiến thức về quản lý kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô của các nhà quản lý dẫn đến
những thiệt hại to lớn về mặt kinh tế.


7

Rủi ro do kém khả năng cạnh tranh: đó là rủi ro của các công ty do không
thích nghi được với khả năng cạnh tranh trên thị trường, không chiếm lĩnh được thị
trường và không giữ được khách hàng của mình. Hậu quả là những thiệt hại về tài
chính của công ty. Thiệt hại này đôi khi có thể làm công ty phá sản.
Rủi ro do sự thay đổi thị hiếu của khách hàng: do sự hạn chế các kiến thức về
marketing, các công ty đã không kịp thời đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu của khách
hàng. Hậu quả là hàng sản xuất ra không hợp thị hiếu của khách hàng, không bán
được, làm tổn thất tài chính của công ty.
Rủi ro do lạm phát: do lạm phát tăng làm cho giá cả hàng hoá, nguyên vật liệu
tăng, đồng tiền mất giá. Kết quả, chi phí đầu vào lớn hơn mức dự kiến, làm cho thu
nhập bị giảm (thiệt hại về tài chính).
Rủi ro do điều kiện không ổn định của thuế: thuế là một trong những công cụ
để điều hoà thu nhập trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng trong vấn
đề tính toán hiệu quả kinh doanh của một công ty. Kinh doanh trong một môi trường
bất ổn về thuế là một rủi ro rất lớn. Nếu không được tính toán kỹ, công ty sẽ dễ bị thua
lỗ và có thể dẫn đến phá sản.
Rủi ro do thiếu thông tin kinh tế: sự thiếu thông tin trên thị trường sẽ dẫn tới
những quyết định sai lầm trong kinh doanh, gây hậu quả tổn thất không lường được.
Rủi ro do tình hình chính trị bất ổn: tình hình chính trị bất ổn cũng là một mối
lo ngại đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Rủi ro thường xuất hiện khi các
nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có mối quan hệ với các nước có tình hình chính trị
không ổn định. Khi các chính sách thay đổi có thể sẽ dẫn tới thiệt hại về tài chính cho

các nhà xuất nhập khẩu.
Có thể nói thêm rằng khả năng tồn tại mối nguy hiểm có thể mang lại một sự có
lợi hoặc không có lợi với một mức bất ổn nhất định. Mức bất ổn được tính toán cho
hầu hết các rủi ro, nhưng cần lưu ý:


8

Nó chỉ được sử dụng để tính mức bất ổn trong trường hợp biến cố là ngẫu nhiên

-

như: trò chơi đỏ đen hoặc nhặt bóng trắng hoặc đỏ trong một rổ bóng.
Người ta thường sử dụng các phương pháp thống kê và các kỹ thuật hiện đại để

-

giải thích và chứng minh xu hướng phát triển của hiện tượng trong tương lai qua các
con số thống kê có được.
Một phương pháp khác cũng thường được sử dụng để xử lý hậu quả rủi ro là chi
trước một khoản tiền cho các biện pháp phòng chống nhằm ngăn ngừa và giảm thiều
rủi ro khi nó xuất hiện. Khi sử dụng phương pháp này, cần thiết phải tính được mức
tổn thất có thể trích quỹ cho hoạt động phòng ngừa rủi ro. Người ta sử dụng lý thuyết
xác suất và quy luật phân phối xác suất để tính số tiền bình quân cần chi cho mỗi rủi
ro.
1.1.2 Quản trị rủi ro
1.1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro

Quản trị rủi ro theo nghĩa rộng hàm nghĩa rằng doanh nghiệp cần phát huy, sử
dụng năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến động của thị

trường hơn là chờ đợi sự biến động rồi mới tìm cách đối phó lại. Mục tiêu của quản trị
rủi ro không phải ngăn cấm, mà là biết chấp nhận rủi ro, phải ý thức được rủi ro với
kiến thức đầy đủ và hiểu biết rõ ràng để có thể đo lường và giúp giảm nhẹ. Quản trị rủi
ro có nghĩa là tất cả các chi tiết rủi ro phải vận hành trong phạm vi được chấp thuận,
giới hạn và quản lý.
“Quản trị rủi ro là xác định mức độ rủi ro mà một doanh nghiệp mong muốn,
nhận diện được mức độ rủi ro hiện nay của doanh nghiệp đang gánh chịu và sử dụng
các công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để điều chỉnh mức độ rủi ro
thực sự theo mức rủi ro mong muốn” (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi
ro tài chính, 2007, tr.545).
Quản trị rủi ro là sự vận hành chương trình mà có thể hoàn thiện hoạt động,
quản lý được các nguồn lực quan trọng, bảo đảm sự tuân thủ các quy định, đạt được
mục tiêu hoàn hảo, duy trì sự cân bằng tài chính và cuối cùng ngăn chặn sự mất mát,
thiệt hại cho doanh nghiệp


9

Chức năng chủ yếu của quản trị rủi ro là nhận diện, đo lường và quan trọng hơn
cả là giám sát rủi ro. Quản trị rủi ro là chuỗi hành động chủ động trong hiện tại để bảo
vệ trong tương lai.
1.1.2.2 Mục tiêu của quản trị rủi ro
Kiểm soát rủi ro
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của quản trị rủi ro là phải kiểm soát được
rủi ro. Đối với một quyết định đầu tư hay giao dịch kinh doanh cụ thể, có nhiều rủi ro
tiềm tàng cùng đe dọa xảy ra. Các rủi ro này có thể xảy ra, nhưng cũng có thể không
xảy ra, tác động của chúng có thể dao động từ rất lớn đến rất nhỏ. Chúng có thể chỉ là
đe dọa, nhưng cũng có thể làm cho doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề. Do vậy vấn đề ở
đây là làm thế nào kiểm soát được rủi ro, giới hạn tác động của nó trong phạm vi cho
phép.

Biến rủi ro thành lợi thế, cơ hội thành công
Rủi ro không hoàn toàn chỉ có nghĩa là thua lỗ hoặc thất bại, mà rủi ro cũng có
thể tạo ra cơ hội để kiếm được lợi nhuận. Do vậy một mục tiêu quan trọng khác của
quản trị rủi ro là cần phải giúp doanh nghiệp nhận thức đúng thực trạng rủi ro và khả
năng chuyển đổi rủi ro thành lợi thế. Trên cơ sở nhận thức này, doanh nghiệp sẵn sàng
sử dụng các nguồn lực để biến các rủi ro thành lợi thế, cơ hội thành công.
Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng lực, chủ
động xây dựng được dự án đầu tư phù hợp với năng lực của mình và chủ động phòng
ngừa rủi ro ngay từ khi bắt đầu triển khai kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp cần xây
dựng nhiều kịch bản, từ tốt nhất đến xấu nhất, để luôn giữ được khả năng chủ động
ứng phó trong mọi trường hợp.
1.1.2.3 Động cơ của quản trị rủi ro
Lý do chính để doanh nghiệp tiến hành quản trị rủi ro là những quan ngại có
liên quan đến độ bất ổn của các nhân tố trên thị trường như: lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng
hóa, sự điều chỉnh thay đổi của chính sách pháp luật, những khó khăn không lường
trước được trong kinh doanh. Những bài học thất bại của các doanh nghiệp khác khi
không quan tâm đến quản trị rủi ro cũng góp phần khuyến khích doanh nghiệp cần
phải chủ trọng hơn đến vấn đề này. Nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập đầy
đủ vào thị trường thế giới, các quan hệ giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp ngày


10

càng đa dạng và phức tạp hơn. Cơ hội kiếm lợi nhuận có nhiều hơn, nhưng rủi ro cũng
nhiều hơn. Những điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chú trọng nhiều hơn nữa đến
quản trị rủi ro. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế, các sản phẩm phái sinh cũng bắt
đầu được giới thiệu và xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Chính sự ra đời của những
sản phẩm này cũng tạo nên một tác động tâm lý to lớn về yêu cầu phòng ngừa rủi ro
trong toàn thể cộng đồng doanh nghiệp.
1.1.2.4 Lợi ích của quản trị rủi ro

Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, có
nhiều chủ sở hữu là các cổ đông, công ty quản trị rủi ro có hiệu quả với chi phí thấp
hơn so với trường hợp nếu chính bản thân cổ đông thực hiện quản trị rủi ro thông qua
điều chỉnh danh mục đầu tư cá nhân.
"Các công ty quản trị rủi ro để giảm thuế, giảm chi phí phá sản, bởi vì các nhà
quản trị quan tâm đến tài sản của riêng họ, để tránh đầu tư lệch lạc, để thực hiện vị thế
đầu cơ khi có dịp, để kiếm được lợi nhuận kinh doanh chênh lệch hoặc để giảm rủi ro
tín dụng và từ đó làm giảm chi phí đi vay" (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị
rủi ro tài chính, 2007, tr.547).
1.1.2.5 Các phương thức quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro chủ động: Là phương thức quản trị rủi ro thông qua các
chương trình, chính sách của doanh nghiệp nhằm phòng ngừa những rủi ro ngay từ khi
chúng còn tiềm ẩn. Các chính sách quản trị rủi ro thực hiện vừa giúp doanh nghiệp chủ
động né tránh rủi ro, giới hạn tác động rủi ro trong phạm vi có thể chấp nhận được, từ
đó giúp doanh nghiệp tránh được các rắc rối và khó khăn, đồng thời có thể biến các rủi
ro thành cơ hội và làm tăng giá trị doanh nghiệp.
Quản trị rủi ro thụ động: Là các biện pháp đối phó, khắc phục những hậu quả
sau khi rủi ro đã xảy ra. Tất nhiên khi rủi ro đã xảy ra, tổn thất đã rõ ràng, các giải
pháp khắc phục sẽ khó có được kết quả như mong muốn.
1.1.2.6 Các phương pháp quản trị rủi ro
Né tránh rủi ro
Né tránh rủi ro là loại bỏ khả năng bị thiệt hại, là việc không chấp nhận dự án
có độ rủi ro quá lớn. Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp khả năng bị thiệt


11

hại cao và mức độ thiệt hại lớn. Né tránh rủi ro có thể được thực hiện ngay từ giai
đoạn đầu của chu kỳ dự án. Nếu rủi ro dự án cao thì loại bỏ ngay từ đầu.
Chấp nhận rủi ro

Chấp nhận rủi ro là trường hợp chủ đầu tư hoặc cán bộ dự án hoàn toàn biết
trước về rủi ro và những hậu quả của nó nhưng sẵn sàng chấp nhận những rủi ro, thiệt
hại nếu nó xuất hiện. Chấp nhận rủi ro áp dụng trong trường hợp mức độ thiệt hại thấp
và khả năng bị thiệt hại không lớn. Ngoài ra, cũng có những rủi ro mà đơn vị phải
chấp nhận.
Tự bảo hiểm
Tự bảo hiểm là phương pháp quản lý rủi ro mà đơn vị chấp nhận rủi ro và tự
nguyện kết hợp thành một nhóm gồm nhiều đơn vị có rủi ro tương tự khác, đủ để dự
đoán chính xác mức độ thiệt hại và do đó, chuẩn bị trước nguồn quỹ để bù đắp nếu nó
-

xảy ra. Giải pháp tự bảo hiểm có đặc điểm:
Là hình thức chấp nhận rủi ro.
Thường là sự kết hợp giữa các đơn vị đầu tư trong cùng công ty bố mẹ hoặc
một ngành.
Có chuyển rủi ro và tái phân phối chi phí thiệt hại.
Có hoạt động dự đoán mức thiệt hại (giống hoạt động bảo hiểm).
Hệ thống tự bảo hiểm cũng phải đáp ứng mọi chỉ tiêu của hệ thống bảo hiểm.
Tự bảo hiểm có lợi thế là nâng cao khả năng ngăn ngừa thiệt hại, thủ tục chi trả
bảo hiểm nhanh gọn, đồng thời, nâng cao khả năng sinh lợi vì tạo điều kiện quay vòng
vốn. Tuy nhiên, biện pháp tự bảo hiểm cũng có nhược điểm là đơn vị phải chi phí để
vận hành chương trình tự bảo hiểm; đơn vị phải mua và cung cấp nội bộ những dịch
vụ có giá trị như những thiết bị ngăn ngừa thiệt hại ; khi khả năng bị thiệt hại xuất hiện
đơn vị phải thuê người điều hành theo dõi chương trình tự bảo hiểm. Phương pháp tự
bảo hiểm cũng chứa đựng yếu tố rủi ro vì ở đây thực tế đơn vị chấp nhận rủi ro với hy
vọng thiệt hại có thể không xảy ra trong một số năm.
Ngăn ngừa thiệt hại
Ngăn ngừa thiệt hại là hoạt động nhằm làm giảm tính thường xuyên của thiệt
hại khi nó xuất hiện. Để ngăn ngừa thiệt hại cần xác định nguồn gốc thiệt hại. Có hai
nhóm nhân tố chính đó là nhóm nhân tố môi trường đầu tư và nhân tố về nội tại dự án.



12

Một số biện pháp ngăn ngừa như phát triển hệ thống an toàn, đào tạo lại lao
động, thuê người bảo vệ.
Giảm bớt thiệt hại
Chương trình giảm bớt thiệt hại là việc chủ đầu tư, bộ quản lý dự án sử dụng
các biện pháp đo lường, phân tích, đánh giá lại rủi ro một cách liên tục và xây dựng
các kế hoạch để đối phó, làm giảm mức thiệt hại khi nó xảy ra.
Khi không thể chuyển dịch thiệt hại thì việc áp dụng biện pháp này không phù
hợp.
Chuyển dịch rủi ro
Chuyển dịch rủi ro là biện pháp, trong đó một bên liên kết với nhiều bên khác
để cùng chịu rủi ro. Biện pháp chuyển dịch rủi ro giống phương pháp bảo hiểm ở chỗ:
độ bất định về thiệt hại được chuyển từ cá nhân sang nhóm nhưng khác ở chỗ bảo
hiểm không chỉ đơn thuần bao gồm chuyển dịch rủi ro mà còn giảm được rủi ro thông
qua dự đoán thiệt hại bằng luật số lớn trước khi nó xuất hiện.
Bảo hiểm
“Theo quan điểm của nhà quản lý bảo hiểm thì bảo hiểm là sự chuyển dịch rủi
ro theo hợp đồng. Từ bên quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ đơn thuần là việc
chuyển dịch rủi ro mà còn làm giảm rủi ro vì nhóm người có rủi ro tương tự nhau tự
nguyện tham gia bảo hiểm đã cho phép dự đoán mức độ thiệt hại trước khi nó xuất
hiện. Bảo hiểm là công cụ quản lý rủi ro phù hợp khi khả năng thiệt hại thấp nhưng
mức thiệt hại có thể rất nghiêm trọng”. (GS.TS.NGUT Bùi Xuân Phong, Nội dung
quản trị rủi ro, ngày
21/04/2017)
1.1.2.7 Chương trình quản trị rủi ro
Rủi ro có thể xuất hiện theo những hình thức khác nhau, tùy theo từng giai đoạn
và đặc điểm ngành nghề, quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Việc thiết lập một

chương trình quản trị rủi ro phù hợp là một cách để bảo vệ doanh nghiệp khỏi mắc
phải những vấn đề không may có thể xảy đến bất cứ lúc nào.
“Nội dung cơ bản của một chương trình quản trị rủi ro phải bao gồm việc kết
hợp chuyển đổi linh hoạt các quyết định kinh doanh với dự báo giá cả và sử dụng các
công cụ tài chính hiện đại, được thực hiện bởi một bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro


13

ở doanh nghiệp” (PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro,
ngày 10/10/2017).
Một chương trình quản trị rủi ro hoàn chỉnh phải đạt được các mục tiêu cụ thể
-

chủ yếu sau:
Xây dựng các nguyên tắc, quy định nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện kế

-

hoạch kinh doanh có tính nhất quán và có thể kiểm soát;
Hỗ trợ cho nhà quản trị doanh nghiệp trong việc ra quyết định đúng đắn, lập kế
hoạch và sắp xếp thứ tự ưu tiên công việc trên cơ sở hiểu biết thấu đáo về hoạt động

-

kinh doanh, môi trường kinh doanh, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp;
Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh nghiệp;
bảo vệ và làm gia tăng giá trị cũng như hình ảnh doanh nghiệp; phát triển và hỗ trợ

-


nguồn nhân lực của doanh nghiệp;
Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Các bước của chương trình quản trị rủi ro:
Xác định sứ mạng:
Sắp xếp thứ tự những chỉ tiêu và những mục tiêu quản trị rủi ro cùng với sứ
mạng của tổ chức là nhiệm vụ cơ bản của quản trị rủi ro. Việc thiết lập những mục tiêu
và chỉ tiêu về quản trị rủi ro có tầm quan trọng hàng đầu, bởi vì chúng là nền rảng cho
tất cả những hoạt động quản trị rủi ro. Những chỉ tiêu và những mục tiêu này là những
tiêu chuẩn đo lường sự thành công hay thất bại của chương trình, và cũng quyết định
triết lý nền tảng cho những hoạt động của quản trị rủi ro.
Đánh giá rủi ro:
Đánh giá rủi ro bao gồm ba hoạt động có liên quan với nhau. Trước hết, phải
nhận ra những rủi ro ảnh hưởng đến tổ chức. Việc nhận ra những rủi ro thường đi với
việc nhận ra mối hiểm họa và những nguy cơ. Những mối hiểm họa (hay còn gọi là
"những nhân tố rủi ro" trong trường hợp những rủi ro suy đoán) là những hoạt động
hay những điều kiện tạo nên hay làm gia tăng khả năng hoặc tổn thất hoặc lợi ích. Một
bộ phận của một bộ máy được bảo trì sai là một ví dụ về một mối hiểm họa. Một nguy
cơ mất mát hay một cơ hội có lợi sẽ là đồ vật, con người, hay tình huống bị ảnh hưởng
bởi tổn thất hay lợi ích.


14

Biết được sự tồn tại của những mối hiểm họa, nhân tố rủi ro, và nguy cơ tổn
thất hay những cơ hội có may mắn thì chưa đủ. Nhà quản trị rủi ro phải hiểu được bản
chất của chúng, chúng xuất hiện như thế nào, và chúng tác động qua lại với nhau ra
sao để dẫn đến một tổn thất hay may mắn. Những cảm nhận về rủi ro, cũng như bất
trắc, cũng được phân tích vì chúng có một tầm quan trọng to lớn. Ví dụ, tổ chức có thể
hiểu rõ những hiểm họa khi tiếp xúc với nguyên liệu nguy hiểm. Nếu nhận thức rủi ro

của những người công nhân là quá khác biệt, thì việc đánh giá rủi ro có thể trở nên khó
khăn đối với tổ chức.
Việc phân tích có liên quan đến hoạt động đánh giá cuối cùng, đó là đo lường
rủi ro. Việc đo lường rủi ro đánh giá khả năng và giá trị tổn thất hay may mắn theo tần
số và mức tổn thất. Quá trình đo lường có thể mang hình thức đánh giá chất lượng, tổn
thất này rất có thể xảy ra – theo một hình thức đánh giá số lượng.
Kiểm soát rủi ro
Là những hoạt động tập trung vào việc né tránh, ngăn chặn giảm bớt hay nếu
không thì cũng là kiểm soát rủi ro và tính bất định. Những hoạt động kiểm soát rủi ro
có thể mang những hình thức đơn giản, chẳng hạn chắc chắn rằng nhà bếp có những
bình chữa cháy vẫn còn hoạt động tốt. Hay cũng có thể phức tạp như việc phát triển
một chương trình đề phòng thảm họa bất ngờ cho trường hợp khẩn cấp ở một nhà máy
năng lượng hạt nhân.
Tài trợ rủi ro
Những hoạt động tài trợ rủi ro cung cấp những phương tiện đền bù tổn thất xảy
ra, gây quỹ cho những chương trình khác để giảm bớt rủi ro, hay để gia tăng những kết
quả tích cực. Thường một vài tổn thất vẫn xảy ra mặc dù có những nỗ lực kiểm soát
chúng. Việc tài trợ cho những tổn thất này có thể bao gồm những biện pháp chẳng hạn
như: mua bảo hiểm, thiết lập một chi nhánh bảo hiểm bắt buộc, hay sử dụng những thư
tín dụng. Việc lập quỹ cho một chương trình an toàn trên đường cao tốc thông qua


15

cước phí dành cho những mục đích đặc biệt sẽ là một minh họa ít rõ ràng nhưng lại có
giá trị pháp lý của tài trợ rủi ro
Quản lý chương trình
Yếu tố này thiết lập nên những thủ tục mà những hoạt động hàng ngày của chức
năng quản trị rủi ro phải tuân theo. Ví dụ: những thủ tục mua bảo hiểm hay việc ấn
định cấu trúc của quá trình đánh giá và xem lại chương trình đều nằm trong quản lý

chương trình. Một ví dụ khác là những thủ tục dùng cho việc thông tin những nỗ lực
và kết quả của chương trình đến với những khán giả mục tiêu hay dự kiến. Những kiến
thức phức tạp về bảo hiểm hay kỹ thuật tài trợ rủi ro chỉ có tác dụng hạn chế đới với
một nhà quản trị rủi ro có những kỹ năng quản trị và truyền đạt yếu kém. Cũng vậy,
việc quản lý chương trình được xác định phạm vi của tổ chức và nguồn lực của nó.
Công tác này đòi hỏi một kiến thức vững chắc về cách tổ chức đó hoạt động, những
chỉ tiêu và mục tiêu của tổ chức, lịch sử và con người của tổ chức.
1.2 Quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế
1.2.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế
1.2.1.1 Khái niệm thẻ tín dụng quốc tế
Thẻ TDQT là một dịch vụ thanh toán với những hạn mức chi tiêu nhất định mà
ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ
hoặc tài sản thế chấp.
Thẻ TDQT là một dạng tín dụng tuần hoàn dành cho việc thanh toán mà khách
hàng có thể sử dụng cho mọi giao dịch một cách linh hoạt. Việc hoàn trả của khách
hàng có thể được thực hiện môt lần hoặc nhiều lần theo một thời hạn nhất định và theo
hạn mức quy định bởi ngân hàng phát hành thẻ.
1.2.1.2 Chủ thể tham gia
Hiện nay lĩnh vực thẻ TDQT có sự tham gia chặt chẽ của 5 thành phần cơ bản
là: Chủ thẻ, Ngân hàng phát hành thẻ, Ngân hàng thanh toán thẻ, Đơn vị chấp nhận
thẻ, Tổ chức thẻ quốc tế.
a) Chủ thẻ
Hiểu một cách đơn giản thì chủ thẻ là người sở hữu hợp pháp chiếc thẻ. Chủ thẻ
là người được NHPHT chấp nhận phát hành thẻ trên cơ sở năng lực tài chính, khả


16

năng chi trả của người đó hoặc dựa vào sự bảo lãnh của một tổ chức. Đó cũng có thể là
một người được uỷ quyền sử dụng thẻ.

Chủ thẻ được phép dùng chiếc thẻ để chi tiêu, thanh toán hoặc rút tiền mặt. Mỗi
khi thanh toán cho các ĐVCNT để mua hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ phải
xuất trình thẻ để ĐVCNT kiểm tra theo quy trình và lập biên lai thanh toán. Đối với
thẻ TDQT sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng NHPHT,
chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bản thông báo chi tiết toàn bộ các giao dịch chi
tiêu sử dụng thẻ trong kỳ, dư nợ đầu kỳ, dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán, số
tiền thanh toán tối thiểu bắt buộc, các khoản lãi và phí phát sinh và các thông báo liên
quan tới việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào thông tin trên sao kê, chủ thẻ sẽ thực hiện thanh
toán khoản tín dụng thẻ đã sử dụng cho NHPHT.
b) Ngân hàng phát hành thẻ

NHPHT là đơn vị phát hành thẻ cho chủ thẻ. NHPHT chịu trách nhiệm nhận hồ
sơ xin cấp thẻ, xử lý và ra quyết định phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng
thời thực hiện việc theo dõi chi tiêu, thanh toán cuối cùng với chủ thẻ.
Điều kiện bắt buộc không thể thiếu đó là: NHPHT phải là thành viên chính thức
của tổ chức thẻ quốc tế. NHPHT thẻ phải ký kết với chủ thẻ các điều khoản, điều kiện
sử dụng và thanh toán thẻ trên cơ sở pháp luật và những điều khoản chung của các tổ
chức thẻ quốc tế. NHPHT có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba, là một ngân
hàng hoặc tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán và phát hành thẻ
TDQT.
c) Ngân hàng thanh toán

Đây là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các ĐVCNT, giữ vai trò là cầu nối
giúp chủ thẻ có thể mua sắm hàng hoá, thanh toán tiền dịch vụ tại ĐVCNT và giúp
ĐVCNT thu tiền của chủ thẻ. Một ngân hàng có thể vừa đóng vai trò là NHTT, vừa
đóng vai trò là NHPHT.


17


Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch
vụ, ĐVCNT, NHTT thẻ cam kết: chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán
thẻ của ngân hàng, cung cấp các thiết bị cần thiết cho đơn vị để phục vụ cho việc thanh
toán thẻ, kèm theo những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên
cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian
hoạt động, quản lý và xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ tại những đơn vị này.
Thông thường NHTT thu từ các đơn vị cung ứng dịch vụ hàng hoá có ký kết hợp đồng
chấp nhận thẻ một mức phí chiết khấu cho việc xử lý các giao dịch có sử dụng thẻ tại
đây.
d) Đơn vị chấp nhận thẻ

ĐVCNT là các thành phần kinh doanh hàng hoá và dịch vụ ký kết với NHTT
hợp đồng về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: nhà hàng, khách sạn, cửa hàng... Các
đơn vị này được trang bị máy móc kỹ thuật để có thể thanh toán, chi tiêu bằng thẻ của
các chủ thẻ đến mua hàng hoá dịch vụ của các đơn vị này.
NHTT trước khi ký hợp đồng chấp nhận thẻ với bất kỳ một đơn vị nào đều phải
tiến hành đánh giá nhiều mặt về đơn vị đó: ngành nghề kinh doanh, đạo đức kinh
doanh, năng lực...Sau khi đã ký kết hợp đồng với NHTT, ĐVCNT phải thực hiện đúng
theo những điều khoản đã được ghi trong hợp đồng. ĐVCNT ko được thu phí của chủ
thẻ. Mặc dù phải trả cho NHTT một tỉ lệ phí chiết khấu theo lượng tiền mỗi giao dịch
nhưng lại không được thu phí từ chủ thẻ, các ĐVCNT vẫn có được lợi nhuận vì có lợi
thế cạnh tranh. Bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ sẽ giúp các đơn vị này thu hút
được một lượng lớn khách hàng, góp phần tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
e) Tổ chức thẻ quốc tế

Là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động và thanh toán thẻ trong mạng lưới
của mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài chính tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động
rộng khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và các sản phẩm đa dạng: Visa,



18

MasterCard, AmericanExpress, CUP, JCB,...Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy
định cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian
giữa các tổ chức và công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối lượng tiền
thanh toán giữa các công ty thành viên.
1.2.1.3 Quy trình phát hành thẻ

Nguồn:
Sơ đồ 1.1: Quy trình phát hành thẻ tín dụng quốc tế
Đầu tiên khách hàng phải xác định được nhu cầu sử dụng, khả năng chi trả của
bản thân. Khách hàng sẽ tiếp cận thông tin sản phẩm theo các kênh thông tin khác
nhau, bao gồm: website, tờ rơi, tư vấn trực tiếp từ nhân viên ngân hàng…
(1): Khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ cho NHPHT. Bộ hồ sơ phát
hành thẻ phải được hoàn thiện theo yêu cầu của NHPHT, bao gồm một số thông tin cơ
bản như: Họ tên, độ tuổi, giới tính, mức thu nhập, nơi làm việc, tình trạng cư trú...
NHPHT tiến hành xét duyệt bộ hồ sơ xin phát hành của khách hàng. Tiến trình
xét duyệt được tiến hành từng bước như sau: Thẩm định chính xác thông tin của khách
hàng cung cấp; Đánh giá các năng lực của khách hàng cũng như năng lực hành vi,
năng lực tài chính... Đánh giá khả năng rủi ro. Trên cơ sở đó NHPHT tiến hành ra
quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu phát hành thẻ của khách hàng
hoặc đưa ra những yêu cầu bổ sung.
(2): Nếu hồ sơ xin phát hành thẻ được chấp nhận, NHPHT tiến hành phát hành
thẻ cho khách hàng. Việc phát hành sẽ bao gồm: Mở tài khoản thẻ cho khách hàng,
loại thẻ chấp nhận phát hành, xác định hạng thẻ , xác định hạn mức chi tiêu cho chủ


19


thẻ;
(3): Cuối cùng là trả thẻ cho chủ thẻ.
Sau khi giao thẻ cho chủ thẻ, NHPHT còn phải làm một số việc sau:
-

Quản lý hồ sơ thông tin chủ thẻ;
Quản lý hoạt động sử dụng của chủ thẻ;
Thực hiện thu nợ chủ thẻ;
Tổ chức thanh toán bù trừ với các tổ chức thẻ quốc tế.
1.2.1.4 Quy trình thanh toán

Nguồn:
Sơ đồ 1.2: Quy trình thanh toán thẻ tín dụng
(1): Chủ thẻ sử dụng thẻ TDQT để mua hàng hoá hoặc rút tiền mặt tại ĐVCNT.
(2): Các ĐVCNT cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo quy định trong hợp đồng
chấp nhận thẻ ký kết với NHTT. ĐVCNT quẹt thẻ qua máy điện tử và nhập dữ liệu.
Những thông tin cần thiết như: thông tin chủ thẻ, thông tin về ĐVCNT, thông tin về
giao dịch sẽ được chuyển đến NHTT.
(3): NHTT sẽ gửi những thông tin nhận được từ ĐVCNT đến Trung tâm thanh
toán của TCTQT.
(4): NHPHT nhận dữ liệu từ trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, sẽ tiến
hành xử lý: kiểm tra hạn mức của thẻ… để đảm bảo khoản chi tiêu đó của chủ thẻ vẫn


20

nằm trong hạn mức được cấp hoặc không nằm trong những trường hợp được phép chi
tiêu: nằm trong blacklist, thẻ bị khóa…
(5): NHPHT sẽ gửi dữ liệu thông báo chấp nhận hoặc không chấp nhận khoản
chi tiêu đó của chủ thẻ về Trung tâm thanh toán của TCTQT (trong khuân khổ mục

này sẽ đề cập đến trường hợp NHPHT chấp nhận khoản giao dịch của chủ thẻ).
(6): Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế sẽ gửi lại thông báo rằng chấp
nhận giao dịch của khách hàng về cho NHTT.
(7): NHTT sẽ gửi thông báo nhận được từ TCTQT về cho ĐVCNT để tiến
hành thanh toán cho khách hàng.
(8): Tại ĐVCNT, sau khi nhận được thông báo chấp nhận từ trung tâm thanh
toán thẻ tín dụng quốc tế, máy điện tử sẽ in ra hóa đơn để chủ thẻ xác nhận, hoá đơn
đó cũng sẽ được gửi đến NHTT.
1.2.1.5 Quy trình thu nợ

Nguồn:
Sơ đồ 1.3: Quy trình thu nợ thẻ tín dụng quốc tế

(1): ĐVCNT gửi thông tin về giao dịch của khách hàng cho NHTT.
(2): NHTT báo CÓ cho ĐVCNT, đồng thời gửi thông tin giao dịch cho trung


21

tâm thanh toán thẻ TDQT. Trung tâm thanh toán của TCTQT thực hiện ghi CÓ cho
NHTT số tiền đó, đồng thời ghi NỢ và gửi dữ liệu về khoản giao dịch cho NHPHT.
(3): Tại ngân hàng phát hành, căn cứ bảng kê do TCTQT gửi tới nhờ thu, báo
CÓ cho trung tâm số tiền đã thanh toán theo bảng kê và làm thủ tục thanh toán, đồng
thời tiến hành ghi NỢ hạn mức tín dụng của khách hàng.
(4): Đến kỳ NHPHT sẽ lên sao kê các khoản chi tiêu trong kỳ của chủ thẻ và
gửi sao kê đó cho chủ thẻ, đồng thời yêu cầu thanh toán. Chủ thẻ nhận sao kê từ
NHPHT, sau khi kiểm tra thấy khớp đúng sẽ tiến hành thanh toán các khoản chi tiêu
của mình.
1.2.2 Nội dung quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng quốc tế
1.2.2.1 Nhận diện và phân loại rủi ro


Có nhiều cách nhận diện cũng như phân loại rủi ro thẻ TDQT khác nhau, tuỳ
thuộc vào tiêu chí lựa chọn. Tuy nhiên, có thể khái quát và tiếp cận dưới ba góc độ:
- Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ.
- Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ
- Rủi ro trong hoạt động thu nợ thẻ
a) Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ TDQT
Đơn phát hành thẻ với các thông tin giả mạo
Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với
các thông tin giả mạo do không thẩm định kỹ của các thông tin của khách hàng trên hồ
sơ xin phát hành thẻ.
Thông tin không chính xác dẫn đến các khó khăn cho NHPHT khi muốn liên hệ
với chủ thẻ và đặt ngân hàng trước nguy cơ tổn thất tín dụng khi chủ thẻ sử dụng thẻ
nhưng không có đủ khả năng thanh toán hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng
tiền của ngân hàng.
Khách hàng không nhận được thẻ do NHPHT gửi
Rủi ro này có thẻ xảy ra do thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực hiện giao dịch
trong quá trình chuyển từ NHPHT đến chủ thẻ. Việc xác định thẻ bị ăn cắp trên đường
mất nhiều thời gian do khoảng thời gian chủ thẻ nhận được thẻ và gửi xác nhận cho
ngân hàng thường kéo dài, đôi khi chủ thẻ khiếu nại là không nhận được thẻ thì ngân
hàng mới phát hiện được.


22

Tuy nhiên với hình thức gửi thẻ qua đường bưu điện, thẻ chỉ được kích hoạt khi
NHPHT nhận được giấy xác nhận có chữ ký của chủ thẻ. Ngoài ra một số ngân hàng
yêu cầu khách hàng đồng thời gọi điện lại cho NHPHT bằng số điện thoại đăng ký
trong hồ sơ phát hành thẻ.
Rủi ro từ phía NHPHT

Là rủi ro phát sinh do hành vi gian lận trong lĩnh vực thẻ của cán bộ thẻ ngân
hàng. Trong hoạt đông tác nghiệp hàng ngày, vì nhiều lý do cán bộ thẻ lợi dụng những
hiểu biết của mình, lợi dụng vị trí công tác, lợi dụng mối quan hệ của mình trong ngân
hàng từ đó biết được những lỗ hổng trong quy trình tác nghiệp để tự mình hoặc câu kết
với người khác tiến hành các hành vi gian lận, giả mạo gây tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro có thể xảy ra nếu cán bộ đó lợi dụng các thông tin thẻ của người khác để sử
dụng thanh toán mua sắm hàng hoá dịch vụ qua mạng, lấy cắp thẻ mới phát hành để sử
dụng hoặc thay đổi các thông số hệ thống, thông tin khách hàng để trục lợi...Các hành
vi gian lận này thường được che giấu rẩt kỹ càng, khó phát hiện bởi do đã quá quen
với những quy định và hệ thống an ninh của ngân hàng và gây tổn thất lớn và mang
tính hệ thống với ngân hàng.
Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro đạo đức khi có một cơ chế giám sát quản lý
hoạt động một cách chặt chẽ trong toàn bộ quá trình hoạt động. Tuy nhiên mọi giải
pháp chỉ có hiệu quả nếu như ngân hàng gắn chặt quyền lơi, trách nhiệm của cán bộ
thẻ với quyền lợi của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thẻ.
b) Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ TDQT
Thẻ giả
Thẻ do các tổ chúc tội phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào các thông tin có
được từ các chứng từ giao dịch thẻ hoặc thẻ mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng
tạo ra các giao dịch giả mạo sẽ gây ra tổn thất cho NHPHT hoặc ĐVCNT. Nếu
ĐVCNT không xuất trình đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu, bao gồm: Hóa đơn bán hàng (hóa
đơn trực tiếp hoặc hóa đơn đỏ), phiếu xuất kho (nếu có), hóa đơn in từ thiết bị thanh
toán (EDC/POS) có chữ ký của chủ thẻ thì ĐVCNT phải chịu mọi rủi ro phát sinh từ
giao dịch đó. Ngược lại, NHPHT phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch sử


23

dụng thẻ giả có mã số (PIN) của NHPHT. Đây là loại rủi ro đặc biệt nguy hiểm và khó
quản lý vì nằm ngoài sự dự đoán của NHPHT.

Thẻ bị mất
Thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc là rủi ro xảy ra khi khách hàng bị mất thẻ mà chưa
kịp báo cáo cho NHPHT về việc mất cắp hoặc thất lạc. Thẻ bị mất được sử dụng bởi
người khác và trước khi NHPHT có các biện kịp thời như khóa thẻ. Thẻ bị mất cắp,
thất lạc cũng có thể bị tội phạm thẻ sử dụng để làm thẻ giả.
Giả mạo khi thanh toán trực tuyến
Thanh toán trực tuyến là một phương thức thanh toán có độ rủi ro khá cao và
khá mạo hiểm, ĐVCNT cung cấp hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua
website, thư hoặc điện thoại và thanh toán trên cơ sở các thông tin như: loại thẻ, số thẻ,
ngày hiệu lực, tên chủ thẻ... ĐVCNT và NHTT có thể chịu tổn thất nếu như khách
hàng không phải là chủ thẻ và giao dịch đó bị từ chối thanh toán.
Để hạn chế rủi ro này, các ngân hàng đều triển khai phương thức xác thực bảo
mật khi thanh toán trực tuyến. Ví dụ: Verified by Visa, MasterCard SecureCode. Bằng
việc yêu cầu cung cấp mật khẩu mà chỉ có chủ thẻ mới biết, ngân hàng có thể xác
minh xem người đang đăng nhập các thông tin thẻ có phải là chủ thẻ thật sự. Mật khẩu
có thể do bạn tự đặt và tự ghi nhớ (static password – mật khẩu vĩnh viễn), hoặc mật
khẩu sử dụng 1 lần (OTP) do ngân hàng gửi cho bạn qua tin nhắn SMS/email khi bạn
thanh toán trực tuyến. Tính năng này giúp ngăn ngừa gian lận trong giao dịch và giúp
cho các bên tham gia vào quy trình thanh toán yên tâm hơn.
Nhân viên ĐVCNT sửa đổi thông tin trên các hoá đơn thẻ hoặc in nhiều hoá
đơn thanh toán của một giao dịch
Trong trường hợp này nhân viên tại ĐVCNT thực hiện giao dịch đã cố tình in
nhiều hoá đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao 1 bộ cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao
dịch. Sau đó nhân viên sẽ mạo nhận chủ thẻ hoàn tất giao dịch và nộp các hoá đơn
thanh toán còn lại để đòi tiền chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Ngoài ra nhân viên cũng
có thể sửa đổi hoá đơn giao dịch, ghi tăng giá trị giao dịch mà không được sự đồng ý
của chủ thẻ để lấy tiền tạm ứng của ngân hàng.


24


Những trường hợp sai sót do thao tác trên máy EDC/POS xảy ra rất nhiều. Khi
khách hàng khiếu nại với NHPHT, NHPHT sẽ phải kiểm tra ngược lại ĐVCNT của
NHTT. Tuy nhiên, không ít trường hợp, không đủ căn cứ để xác định được sai sót do
bên nào hoặc nhân viên thu ngân hay thậm chí ĐVCNT cố tình chiếm đoạt của khách
hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ không thể hoàn tiền lại được vì đây là có lỗi từ chủ thẻ
không theo dõi quá trình quẹt thẻ để thanh toán.
c) Rủi ro trong hoạt động thu nợ thẻ TDQT
Việc không thu được nợ thẻ TDQT khiến món nợ từ thẻ TDQT của khách hàng
thành nợ xấu, nợ khó đòi. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến NHPHT vì không thu
được lãi, phí và nợ gốc, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới khách hàng, khiến cho lịch sử
tín dụng (hồ sơ trên CIC) của khách hàng xấu đi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ
xấu từ thẻ TDQT, hai nguyên nhân cơ bản bao gồm:
Phát triển thẻ TDQT ồ ạt, số lượng không đi đôi với chất lượng
Việc phát triển thẻ tín dụng thời điểm này còn là lối thoát cho tín dụng của
không ít ngân hàng. Chính vì lẽ đó, thời gian qua, các ngân hàng không ngừng đưa ra
nhiều chiêu hút khách mở thẻ. Phổ biến nhất là miễn phí mở thẻ, phí thường niên; đẩy
mạnh liên kết với các đối tác để gia tăng ưu đãi cho khách hàng.
Khách hàng chỉ cần nộp hồ sơ gồm bản photo hợp đồng lao động, CMND, sổ
hộ khẩu, sao kê bảng lương 3 tháng gần nhất là được cấp thẻ sau 5-7 ngày với hạn mức
tùy theo thu nhập hàng tháng. Nhiều ngân hàng quy định mức thu nhập tối thiểu để
được trở thành chủ thẻ là 7 triệu đồng/tháng với hạn mức chi tiêu 20 triệu đồng/tháng
nhưng cũng có ngân hàng chỉ cần mức sàn thu nhập 5 triệu đồng/tháng là được mở thẻ.
Lợi dụng việc phát hành thẻ TDQT dễ dàng như vậy, nhiều khách hàng sau khi
mở thẻ đã rút tiền mặt tối đa hạn mức được cấp, sau đó không trả nợ cho ngân hàng.
Với những trường hợp này ngân hàng rất khó để đòi nợ, vì không liên hệ được với
khách hàng. Vì cho vay thẻ tín dụng là một món vay tín chấp, không cần tài sản thế
chấp. Mặt khác, quan hệ trong hợp đồng mở thẻ TDQT là quan hệ dân sự, nên khi
ngân hàng kiện khách hàng ra tòa thì yêu cầu có mặt cả hai bên.
Khách hàng mất khả năng trả nợ

Thẻ tín dụng đem đến cho khách hàng những lợi ích to lớn, sự hữu ích, tiện
dụng nhưng cũng sẽ là một con dao hai lưỡi nếu như khách hàng sử dụng không có


25

một kế hoạch, một mức độ chi tiêu hợp lý. Nợ xấu từ thẻ tín dụng hiện nay chỉ chiếm
1% tổng nợ xấu, nhưng tốc độ gia tăng nhanh chóng, lên tới 100%/năm.
Ông Lê Thành Trung, Phó Tổng giám đốc HDBank cho rằng: “Tôi cho rằng
điều kiện và bối cảnh kinh tế phần nào ảnh hưởng nợ xấu trong tiêu dùng cá nhân
thông qua hình thức thẻ. Bởi khi nguồn thu của họ giảm đi thì khả năng trả nợ kém
hơn”.

( />
no.html, ngày 24/03/2017)
Các ngân hàng cần phải thận trọng khi cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng.
“Nhất là thời điểm kinh tế khó khăn, người tiêu dùng rất khó xác định chính xác thu
nhập trong tương lai. Và nếu không tính toán cẩn thận rất có thể người vay chi tiêu
vượt xa khả năng trả nợ của mình, nguy cơ nợ xấu tăng là hiện hữu”.
Trên thực tế khi ngân hàng phê duyệt hồ sơ toàn bộ thông tin của khách hàng
đều được lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc NHNN. Cơ quan này
có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng. Do vậy, chỉ
cần người sử dụng thẻ phát sinh nợ xấu tại một ngân hàng thì tất cả các ngân hàng
khác đều được thông báo và ngưng cấp tín dụng cho khách hàng này.
1.2.2.2 Đo lường rủi ro
Đo lường rủi ro giúp nhà quản trị rủi ro ước lượng các hậu quả về tài chính và
khả năng xảy ra các hậu quả này.
Để đo lường rủi ro hoạt động kinh doanh thẻ TDQT, nhà quản trị rủi ro cẩn
phải:
-


Xây dựng thước đo mức độ quan trọng của rủi ro đối với tất cả các nghiệp vụ
trong hoạt động kinh doanh thẻ TDQT và các bên có liên quan.
Áp dụng thước đo này vào các rủi ro đã được xác định.
1.2.2.3 Kiểm soát rủi ro
a) Khái niệm
Kiểm soát rủi ro họat động thẻ TDQT là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật,
công cụ, chiến lược và những quá trình nhằm chủ động điều khiên, biến đổi rủi ro
trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ TDQT tại một ngân hàng bằng các cách
kiểm soát tần suất, mức độ rủi ro.
Đó là một quá trình liên tục cho vòng đời của hợp đồng phát hành thẻ TDQT,
hợp đồng ĐVCNT. Những rủi ro thay đổi trong quá trình sử dụng thẻ của khách hàng,


×