Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.85 MB, 32 trang )

`PHÒNG GD&ĐT
TRƯỜNG THCS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Huế, ngày 18 tháng 04 năm 2018

BÁO CÁO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề nghị công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở”
- Họ và tên:
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm Văn.
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị công tác: Trường THCS ......
- Tên đề tài sáng kiến: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC
NGỮ VĂN 7, 8- TRƯỜNG THCS .....- THÀNH PHỐ .......


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể nói rằng mối quan tâm lớn nhất của những người làm công tác giáo dục
hiện nay là : Làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục nói chung và chất lượng từng môn học nói riêng.Đó là điều quan tâm không
chỉ ở các nhà lãnh đạo mà còn là mối trăn trở lớn của người đứng lớp. Bản thân tôi
cũng vậy, luôn trăn trở, tìm tòi và vận dụng phương pháp dạy học nhằm phát huy năng
lực tư duy sáng tạo của học sinh. Mong sao các em không còn thấy môn Ngữ văn là
môn học nhàm chán, nặng nề.Tôi thiết nghĩ muốn nâng cao chất lượng môn Văn, trước
hết cần tạo cho các em niềm say mê, yêu thích môn học này. Từ yêu thích và say mê
các em sẽ có thái độ học tập tốt và dần sẽ khá hơn.Từ đó chất lượng dạy học văn trong
nhà trường mới được nâng cao.
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy có rất nhiều cách để kích thích niềm say


mê học văn ở học sinh: Thuyết minh, phát vấn, thảo luận nhóm…. Đặc biệt ngày nay,
bản đồ tư duy trở thành một công cụ phổ biến và hữu ích trong giảng dạy và học tập
nhằm tạo sự sôi động cho tiết học và phương pháp tự học cho học sinh. Năm học này
tôi mạnh dạn kết hợp việc ứng dụng công nghệ thông tin với phương pháp sử dụng bản
đồ tư duy trong các tiết dạy Ngữ Văn, nhằm tạo sự hứng thú học tập và chủ động tiếp
nhận kiến thức ở học sinh. Đồng thời phát huy và rèn luyện cho các em tính tích cực
chủ động, khả năng tư duy tổng hợp, phân tích và kỹ năng tự làm việc cũng như làm
việc theo nhóm.Và cái đích lớn nhất đó chính là tạo cho các em niềm say mê, yêu
thích học Văn, tiến tới học tốt môn Ngữ văn. Từ mục đích đó và thực tế đứng lớp năm
học 2017-2018 tôi đã mạnh dạn đưa phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy
học Ngữ văn (lớp 7, lớp 8) nhằm giúp học sinh chủ động đến với mỗi bài học . Bước
đầu tạo sự tò mò, kích thích hứng thú, tạo tâm thế chủ động và tích cực khi tiếp xúc
văn bản. Từ đó tạo tâm thế thoải mái và niềm yêu thích học Ngữ văn .Để từng bước
nâng cao hiệu quả , chất lượng môn Ngữ văn .
Bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng bản đồ tư duy trong quá
trình dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một
PPDH rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các
khâu trong quá trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy môn Ngữ
văn. Vì vậy, tôi viết đề tài SKKN: “Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn ở
Lớp 7 và Lớp 8” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

2

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

1. Cơ sở lí luận:

Năm học 2017 - 2018 là năm học mà toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang
tiếp tục nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người
năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ giáo
viên chúng ta phải không ngừng đổi mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn
giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, thảo luận
nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động
chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để thực hiện theo
nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự
giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người
thầy. Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí
quan trọng. Vì đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa là môn học mang
tính nghệ thuật, lại là môn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh
học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú
trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng
những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học
sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như
thế mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này.
Bản đồ tư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ
đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả
Tony Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế
giới. Có thể khẳng định rằng PPDH bằng BĐTD là một trong những PPDH hiện
đại. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc
tưởng tượng và khả năng sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình
dạy học hiện nay.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế


3

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
2. Thực trạng:
Lâu nay, trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mô hình, sơ
đồ, biểu đồ... để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những bài tổng
kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm này có thể nói đã
đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến
thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu
điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi trước hết là cả lớp cùng
có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không
phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý
đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy được tư duy
sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động
tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp
vì chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương,
các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng
không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp cũng như các khâu
của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những phương
pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng BĐTD. Có thể nói, đây là một
bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát
triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin. Việc sử
dụng BĐTD thay thế cho những mô hình, sơ đồ, biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để khái
quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là một sự tất yếu, bởi BĐTD có rất nhiều điểm
ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng BĐTD vào trong quá trình dạy học môn Ngữ văn

không chỉ lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm đam mê, yêu thích môn học ở các
em học sinh mà còn làm dấy lên một “phong trào” đưa BĐTD vào bài giảng ở giáo
viên.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa Bản đồ tư duy vào ứng dụng trong quá trình
dạy học đối với môn học Ngữ văn còn là vấn đề gặp không ít khó khăn, trở ngại
đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy học
với việc sử dụng BĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với
các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên mới chỉ
dừng lại ở việc sử dụng BĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay
Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

4

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thôi. Họ
chưa mạnh dạn đưa Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Họ
chưa phát huy được tính phổ biến và đa năng của Sơ đồ tư duy. Do đó, chưa phát
huy một cách đầy đủ công dụng của BĐTD trong quá trình dạy học môn Ngữ văn
3. Các giải pháp
3.1. Bản đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức

hoạt động vẽ BĐTD trên lớp và những tiện ích:
* Để sử dụng một cách có hiệu quả BĐTD trong quá trình dạy học, trước
hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:
a. Khái niệm:
Bản đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map)
là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi,

đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh,
chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi
em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do
đó, việc lập Bản đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
b. Cấu tạo:
Ở giữa bản đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề.
Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm
rõ chủ đề.
Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi
ý chính.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, BĐTD là một bức tranh tổng thể, một

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

5

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó.

c. Các bước thiết kế một BĐTD:

Để thiết kế một BĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm
rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

6

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu
hút sự chú ý của mắt, như vậy BĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên

dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần
thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết,
tô màu...
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã
chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho
học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
e. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ
Văn:
Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

7

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG



Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa
có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết
bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến
thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển
được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc
sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay
kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có
thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo BĐTD trong quá trình dạy học sẽ
gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình. Vì vậy sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ BĐTD vừa lôi
cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi
đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy
được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một
cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các
nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi,
hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội
dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
Bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào tất cả các

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

8

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến
thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa
kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15
phút.
Bản đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung.
Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng
cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần
mềm Bản đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật
chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử
dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng Bản đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
3.2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn:
1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức
của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để

các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó
học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cáhc dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: Qua Đèo Ngang (Môn Ngữ văn lớp 7), sau phần đọc và
tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 4 nhánh
chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ
thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

9

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
+ Bố cục của văn bản: học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính ( Bức
tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính
gợi mở (cảnh Đèo Ngang được miêu tả trong không gian và thời gian nào, trong không
gian đó cảnh vật hiện lên như thế nào?, ...)
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy văn bản: Qua Đèo Ngang - Ngữ văn 7
- Ví dụ 2: Khi học bài “ Câu rút gọn” ( Môn Ngữ văn lớp 7), đầu giờ giáo viên
cho từ khoá “ Rút gọn câu” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý
cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh
con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước
lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm
lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích

hứng thú học tập của học sinh.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

10

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy bài “Câu rút gọn” - Ngữ Văn 7
- Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức
sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự
hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi
bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ
giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Khi dạy phần từ và từ loại Tiếng Việt, giáo viên tổ chức cho học sinh
vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có một tập BĐTD về các từ loại tiếng Việt đã
học ở lớp 7: từ xét về cấu tạo: từ ghép, từ láy, từ xét về nghĩa: đại từ, quan hệ từ, từ
xét theo nguồn gốc: Từ Hán Việt…. đến bài “Ôn tập Tiếng Việt”, học sinh có thể dễ
dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có.
Sau khi có một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh
khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung … Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh
khác và ghi thêm các chú thích… rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện, nâng
cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế


11

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy bài “Ôn tập Tiếng Việt”- Ngữ văn 7
2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy
lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước
bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa… hoặc để tư duy
một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức,
kĩ năng ghi chép.
- Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát
triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập.
3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn
* BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã
quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách
hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức
Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

12


GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ
học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
* BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì
vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm
năng của bộ não.
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc
(xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác”
nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh
và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
a, Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học
sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội
dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong
trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo phát động.
b, Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương
pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính
chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự
linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức
thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
c, Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có

những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD
trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng
cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn,
hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài,
tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng
cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng
Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

13

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học
tiếng Việt.
d, Thực tế kết quả kiểm tra hết học kỳ I năm học 2017 - 2018 cho thấy môn Ngữ
văn khối 7, 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường nói chung đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
- Môn Ngữ văn 7 đạt 89% trên trung bình, trong đó 4,5% điểm 9, 10
- Môn Ngữ văn 8 đạt 95 % trên trung bình, trong đó 4,5 điểm 9, 10.
Đó là những kết quả rất khả thi nhờ áp dụng phương pháp dạy học bằng
BĐTD trong dạy học Ngữ văn.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

14

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG



Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
MỘT SỐ BẢN ĐỒ TƯ DUY DO HỌC SINH THỰC HIỆN

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

15

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

16

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

17

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018


Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

18

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

19

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

20

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế


21

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

22

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

23

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018

III. KẾT LUẬN
Tóm lại, việc vận dụng BĐTD trong dạy học, kiểm tra, đánh giá sẽ dần hình thành cho
HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn
đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với

học sinh ở cấp THCS hiện nay. Vì vậy, việc tăng cường sử dụng BĐTD trong quá trình dạy
học nói chung, trong đó có dạy học Ngữ văn là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp ứng yêu
cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý đồng nghiệp !
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN !
Người viết

LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế

24

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2017 - 2018
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản đồ Tư duy trong công việc – Tony Buzan – NXB Lao động – Xã
hội.
2. www.mind-map.com.
3. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy; Bản đồ tư duy – công cụ hiệu quả
hỗ trợ dạy học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục&Thời đại, số 147
ngày 14/9/2010.
4. Sách giáo khoa Ngữ Văn 7, 8, Nhà xuất bản giáo dục 2014.

Trường THCS Trần Cao Vân – Tp Huế


25

GV thực hiện : LÊ NGUYỄN THANH PHƯƠNG


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×