Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảng bộ tỉnh quảng bình lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.84 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam, góp phần thúc đẩy thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng. Mục tiêu của CSXH là nhằm xây dựng và phát triển con người,
đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành mạnh hóa xã hội
và tạo ra động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa XI) chỉ rõ: “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan
trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi
giai đoạn phát triển” [25, tr.68].
Hơn 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm xây
dựng và tổ chức thực hiện các CSXH. Thông qua CSXH mà quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bảo đảm ngày càng đầy đủ, hoàn
thiện hơn, góp phần tạo động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng nước Việt
Nam XHCN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Quảng Bình là địa phương phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của
chiến tranh, cũng là địa phương luôn phải đối phó với thiên tai khắc nghiệt,
bão lũ. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới,
Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Quảng Bình đã tập trung mọi nỗ lực giải quyết
các vấn đề về CSXH và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, do
hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng với những bất cập trong chỉ đạo, điều
hành, quản lý… việc thực hiện CSXH của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Một số
mặt yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục như vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; giảm nghèo chưa bền
vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao; chất lượng giáo dục chưa đồng
đều giữa miền núi với miền xuôi, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; công
tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập; hệ thống chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế
3



cho nhân dân miền núi còn thiếu thốn; phát triển kinh tế chưa kết hợp tốt với
giải quyết các vấn đề xã hội...
Do tầm quan trọng của CSXH cũng như tính phức tạp, nhạy cảm trong
giải quyết vấn đề này, từ khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới đến nay, đã
có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về CSXH và sự lãnh đạo của
Đảng cũng như Đảng bộ các địa phương về thực hiện CSXH ở các cấp độ và
phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách độc lập, có hệ thống về Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện
CSXH dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh
đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010” làm luận văn
thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhóm công trình nghiên cứu chung về chính sách xã hội ở Việt Nam
Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải
pháp, Nxb CTQG, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề cập đến một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, mối quan hệ của CSXH với sự chuyển đổi cơ cấu xã hội
trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một số kinh nghiệm và giải
pháp về CSXH đối với các vấn đề dân số, lao động và việc làm; Chu Tiến
Quang (2001), Việc làm ở nông thôn - Thực trạng và giải pháp, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề lý luận về lao động
và việc làm ở nông thôn nước ta, việc làm phi nông nghiệp trong nông thôn,
việc di chuyển lao động và tìm kiếm việc làm, những định hướng và giải pháp
tạo việc làm cho lao động nông thôn và kinh nghiệm giải quyết các vấn đề
trên của một số nước trong khu vực; Mai Ngọc Cường (2006), Chính sách xã
hội nông thôn: kinh nghiệm Cộng hoà Liên bang Đức và thực tiễn Việt Nam,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình đã đề cập đến một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về thực hiện CSXH ở nông thôn; phân tích các nguyên nhân,
4



thành tựu và hạn chế, đưa ra các quan điểm và giải pháp đối với một số
CSXH chủ yếu: vấn đề việc làm, vấn đề phân hoá giàu nghèo và công bằng xã
hội... ở nông thôn nước ta trong điều kiện đổi mới. Công trình đề cập đến
phân tầng xã hội ở nông thôn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và đưa
ra các quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề công bằng xã hội ở nông thôn;
Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), “Nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả chính
sách an sinh xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số 7-2008. Tác giả trình bày chính
sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, nêu lên những thành tựu đạt được
cũng như khó khăn và thách thức đối với chính sách an sinh xã hội; Mai Ngọc
Cường (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về đặc điểm,
mục tiêu, nguyên tắc và quá trình thực hiện CSXH, cũng như hệ thống các
CSXH phổ biến ở các nước và những nội dung có khả năng ứng dụng ở Việt
Nam. Đồng thời, các tác giả đã đề cập đến thực trạng, thành tựu, hạn chế của
CSXH ở Việt Nam dưới nhiều lĩnh vực như: chính sách giảm nghèo; chính
sách tạo việc làm... Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra những giải pháp và một số
khuyến nghị về xây dựng hệ thống CSXH ở Việt Nam trong những năm tới.
Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách xã hội ở các địa phương
Phạm Quang Nghị (2007), “Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương
binh, gia đình liệt sĩ, người có công”, Tạp chí Cộng sản, số 7-2007. Tác giả đã
tóm lược những thành tựu trong công tác thương binh, liệt sĩ và người có
công với cách mạng trong thành phố Hà Nội trên các mặt như: Thực hiện
chính sách, chăm sóc người có công, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc nghĩa trang liệt
sĩ, mộ liệt sĩ. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp để Hà Nội làm tốt hơn
nữa công tác thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công; Phạm Văn Hồ
(2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở Tây
Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

5


Luận án đã trình bày hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng về lãnh đạo
thực hiện CSXH trên địa bàn có tính đặc thù ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới.
Từ đó, tác giả đã nêu lên quá trình vận dụng sáng tạo của Đảng bộ các tỉnh
Tây Nguyên trong thực hiện CSXH của Đảng; bước đầu đúc kết một số kinh
nghiệm về quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện CSXH ở Tây Nguyên thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH; Nguyễn Thị Mai Chi (2014), Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở các huyện miền núi từ năm 2001 đến
năm 2010, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện CTQG
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án đánh giá một cách khách quan những thành
tựu, hạn chế, đồng thời đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực
hiện CSXH ở các huyện miền núi của Đảng bộ tỉnh Nghệ An từ năm 2001
đến năm 2010. Qua đó, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
bộ tỉnh Nghệ An về thực hiện CSXH đối với các huyện miền núi ở tỉnh.v.v.
Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách xã hội ở tỉnh Quảng Bình
Trương Bảo Thanh (2002), Xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng nghèo đói ở tỉnh Quảng
Bình, chỉ ra các nguyên nhân sâu xa dẫn đến nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình, từ
đó đề ra các giải pháp nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình; Phan
Nam (2013), Đánh giá công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn theo chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế Huế. Luận văn nêu
rõ, đào tạo nghề cho lao động nông thôn vẫn luôn là một trong những CSXH
lớn và là nhiệm vụ quan trọng. Đồng thời, luận văn chỉ rõ công tác dạy nghề
nói chung và dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn nói riêng của tỉnh
Quảng Bình vẫn chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, luận văn đã đề xuất một số giải pháp

6


nhằm tăng cường năng lực hoạt động các cơ sở dạy nghề, nâng cao chất lượng
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm ổn định lâu dài ở tỉnh
Quảng Bình; Phan Văn Cầu (2014), Giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ở tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn hệ thống hóa và góp phần làm rõ nội hàm của vấn
đề việc làm nói chung và việc làm của người lao động nông thôn nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn tỉnh Quảng Bình từ 2008 đến năm 2013, chỉ rõ những thành
tựu, hạn chế trong vấn đề này và nguyên nhân của nó. Đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn tỉnh Quảng Bình đến năm 2020; UBND tỉnh Quảng Bình và
Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2014), “Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc
gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và phát triển”. Nxb Chính trị - Hành
chính. Cuốn sách là tuyển tập các bài viết của các nhà khoa học trên mọi miền
Tổ quốc và ở Quảng Bình viết về quá trình hình thành và phát triển vùng đất
và tỉnh Quảng Bình, những chuyển biến cơ bản về KT - XH Quảng Bình
trong thực hiện đường lối đổi mới. Các bài viết đã khái quát tình hình KT XH của tỉnh và vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh trong thời gian qua đã có
nhiều chuyển biến. Cùng với việc mở mang phát triển các chương trình phát
triển kinh tế trọng điểm, đa dạng hoá ngành nghề, loại hình kinh tế, tỉnh đã ban
hành chính sách tạo môi trường để người lao động tự tạo việc làm. Tuy nhiên,
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động vẫn còn nhiều khó khăn, cần phải tiếp
tục tăng cường. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất các giải pháp đưa Quảng
Bình phát triển nhanh và bền vững.
Những công trình khoa học trên đã đề cập ở những góc độ khác nhau
về cả phương diện lý luận, thực tiễn trong thực hiện CSXH ở Việt Nam nói
chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng. Song, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống trong thời gian cụ thể về quá

7


trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện CSXH từ năm 2001 đến
năm 2010. Vì thế, đề tài tác giả lựa chọn là vấn đề mới, không trùng lặp với
các công trình đã nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện CSXH từ
năm 2001 đến năm 2010, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm nhằm góp
phần thực hiện có hiệu quả CSXH ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình về CSXH từ năm 2001 đến năm 2010.
Hệ thống hóa, phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình về thực hiện CSXH từ năm 2001 đến năm 2010.
Nhận xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết
một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện
CSXH từ năm 2001 đến năm 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo thực hiện CSXH của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình về thực hiện CSXH từ năm 2001 đến năm 2010, trên bốn lĩnh
vực cơ bản là: Giải quyết việc làm; xóa đói giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa và
chính sách DS - KHHGĐ.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010. Tuy nhiên, để làm rõ yếu
tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về thực hiện CSXH
thì luận văn có đề cập tới vấn đề này trước năm 2001 và sau năm 2010.

- Về không gian: Tập trung nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Quảng Bình
8


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CSXH.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa vào các văn kiện nghị quyết, các báo cáo tổng kết của Đảng
bộ, của chính quyền các cấp; các số liệu có liên quan đến việc thực hiện CSXH
của tỉnh Quảng Bình được công bố trong niên giám thống kê, trong công trình,
đề tài, đề án, các bài báo khoa học… có liên quan đến hoạt động lãnh đạo thực
hiện CSXH của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình từ năm 2001 đến năm 2010.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành lịch sử,
trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc. Ngoài ra,
đề tài còn kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, phân tích,
tổng hợp... để làm sáng tỏ các nội dung có liên quan.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần vào việc tổng kết công tác CSXH của Đảng trong thời kỳ đổi
mới (qua thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Bình).
Những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo
thực hiện CSXH (2001 - 2010), góp phần phục vụ quá trình thực hiện CSXH
ở địa phương trong những năm tiếp theo.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy Lịch sử Đảng, lịch sử Đảng bộ địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục.


9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG
BÌNH
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI (2001 - 2005)

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình về thực hiện chính sách xã hội (2001 - 2005)
1.1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình về thực hiện chính sách xã hội
* Vị trí, vai trò của chính sách xã hội
Một là, CSXH XHCN là vì con người, do con người và bảo
đảm quyền con người.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chỉ có cách mạng XHCN
mới xóa bỏ được chế độ người bóc lột người, xóa bỏ áp bức, bất công và xóa
bỏ nghèo nàn, lạc hậu. CNXH là một xã hội tất cả “vì con người” và “do con
người”, coi con người là chủ thể của xã hội, là mục tiêu và động lực sáng tạo
của mọi tiến bộ xã hội. Vì vậy, CSXH XHCN luôn quan tâm đến con người
một cách toàn diện, nhằm phát huy cao độ nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, từ nâng cao tính tích cực lao động, tính tích cực chính trị
- xã hội, đến việc góp phần xây dựng con người mới, lối sống mới.
Chính sách xã hội và quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Thực hiện tốt CSXH là một trong những bảo đảm quan trọng về quyền
con người ở Việt Nam. Bởi lẽ, quyền con người luôn gắn bó mật thiết với các
quyền cơ bản của dân tộc, với quyền công dân; phụ thuộc vào các điều kiện
phát triển KT - XH, lịch sử, văn hóa dân tộc. Đảng xác định: “Chăm lo cho
con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả mọi người; tôn trọng

và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết
tham gia” [21, tr.34]. Thực hiện CSXH chính là quá trình cụ thể hóa quyền con
người đã được ghi nhận và bảo vệ trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước
10


cũng như các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Thông qua CSXH mà quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bảo đảm ngày càng đầy
đủ, hoàn thiện hơn, góp phần tạo động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng
nước Việt Nam XHCN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hai là, CSXH bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người
Mục tiêu cơ bản của CSXH là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện
cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội,
không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt
đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Do đó, dưới CNXH, CSXH luôn
được áp dụng với tất cả các lĩnh vực trong xã hội: “Chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc” [19,
tr.86]. Chính vì vậy, việc nhận thức và thực hiện đúng CSXH là tạo ra động
lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp phát triển KT - XH, thúc đẩy quá trình cách
mạng XHCN. Con người được thỏa mãn nhu cầu và lợi ích chính đáng của
mình, sẽ hoạt động tích cực sáng tạo, thúc đẩy tiến bộ xã hội. CSXH đúng đắn
sẽ khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nhân dân lao động, nâng cao tính
tích cực lao động và tính tích cực chính trị - xã hội của con người, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đã khẳng định: “Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, CSXH có
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân
tố quan trọng để phát triển sản xuất” [19, tr.86].
Ba là, CSXH phù hợp là động lực phát triển kinh tế bền vững.
Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện CSXH,

nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế. CSXH
đúng đắn không những có tác dụng tích cực điều tiết các hoạt động kinh tế,
khơi dậy và phát huy được mọi tiềm năng của nhân dân lao động, mà còn tác
động to lớn đến việc hoàn thiện các quan hệ chính trị - xã hội lành mạnh. Việc
11


thực hiện các CSXH chính là đầu tư vào nguồn lực con người. Con người vừa
là chủ thể sáng tạo, vừa là đối tượng phục vụ của sản xuất. CSXH, như giáo
dục, y tế, bảo hiểm... giúp cho con người có tri thức, có sức khỏe, có cuộc
sống yên lành... sẽ làm tăng tính tích cực, sáng tạo, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách nâng cao thu nhập không những cải
thiện mức sống của những người yếu thế mà còn kích cầu khả năng thanh
toán, từ đó đẩy mạnh sản xuất.
Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là giành độc lập cho Tổ quốc, đem lại
tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Giải phóng dân tộc luôn gắn liền với
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Do đó, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, đây là quan điểm định hướng cho sự phát triển của đất
nước. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản
xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người
đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Bốn là, thực hiện CSXH phản ánh bản chất của CNXH.
Chính sách xã hội dưới CNXH khác về chất so với CSXH trong các xã
hội do giai cấp bóc lột thống trị. Sự khác nhau đó được quy định bởi bản chất
của chế độ xã hội và xét đến cùng là cơ sở kinh tế. Bước sang thời kỳ mới,
nước ta đang thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng
và Nhà nước luôn chú trọng xây dựng mục tiêu, quan điểm, nội dung, giải
pháp thiết thực để thực hiện CSXH trong điều kiện mới, tiếp tục thể hiện rõ

hơn bản chất CNXH. Mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã
chỉ rõ: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính
sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”
[19, tr.86]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng, cùng với
làm rõ những đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng,
12


Đảng xác định phương hướng thực hiện “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn phát triển mọi tiềm năng sáng tạo của nhân
dân trong xây dựng xã hội chủ nghĩa” [20, tr.13]. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII (1996) của Đảng đã bổ sung một quan điểm quan trọng là “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển” [21, tr.13]. Như vậy, trải qua các thời
kỳ lịch sử, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực
hiện CSXH luôn phản ánh sâu sắc bản chất của CNXH ở nước ta.
* Chủ trương của Đảng về chính sách xã hội (2001 - 2005).
Mục tiêu, phương hướng:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) của Đảng xác định mục
tiêu, phương hướng CSXH là: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào
phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực
hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp
pháp” [21, tr.104].
Phương hướng giải quyết các CSXH được Đảng xác định: “Các chính
sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của
chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia
của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội” [21, tr.108].
Mục tiêu cụ thể:
Về giải quyết việc làm: Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải

quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định mục tiêu giải quyết việc làm là:
“Trong 5 năm tới, tập trung tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5
triệu người, bình quân trên 1,5 triệu người/năm” [21, tr.298]. Giải quyết
CSXH phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định

13


hướng XHCN, chú trọng phát triển thị trường lao động với “nhiều giải pháp
tạo ra nhiều việc làm mới” [21, tr.105].
Về công tác xóa đói, giảm nghèo: Là chủ trương, quyết sách lớn của
Đảng, Nhà nước Việt Nam, đó cũng là một nội dung quan trọng của CSXH
phản ánh bản chất XHCN. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
xác định chỉ tiêu XĐGN giai đoạn 2001 - 2005 là: “Cơ bản xóa hộ đói, giảm
tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% vào năm 2005” [21, tr.29]. Bằng nguồn lực của
Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, trợ giúp
đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản
phẩm, tiếp tục tăng nguồn vốn XĐGN, mở rộng các hình thức tín dụng trợ
giúp người nghèo phát triển sản xuất, kinh doanh…
Về thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người và gia đình có công:
Để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện tốt hơn nữa chủ trương của
Đảng đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng, khắc phục
những khó khăn, bất cập trong cuộc sống của một bộ phận người có công,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ kháng chiến; khắc phục hậu quả
chiến tranh, đẩy mạnh việc tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ; thúc đẩy phong
trào đền ơn đáp nghĩa ở một số địa phương, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng xác định mục tiêu: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính
sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình
chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với

người dân địa phương” [21, tr.301].
Về công tác DS - KHHGĐ: Bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI,
khi mức sinh đã tiệm cận mức sinh thay thế (trung bình mỗi phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ có 2,1 con), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng
xác định chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất
lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển KT - XH. Nâng cao chất
lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình; giải
14


quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát
triển nguồn nhân lực. Đồng thời, “Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con
người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng
1,1%” [21, tr.160].
Giải pháp:
Một là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách Nhà nước về CSXH thành cơ chế, chính sách, luật pháp.
Hai là, tăng đầu tư cho thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu về
việc làm, giảm nghèo và dân số.
Ba là, phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp
trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành thực hiện CSXH.
Bốn là, nghiên cứu, đánh giá và cảnh báo những tác động của việc hội
nhập kinh tế quốc tế đến thực hiện các CSXH.
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình
Điều kiện tự nhiên
Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung bộ Việt Nam với diện tích tự
nhiên 8.065,27 km2, phía Đông có bờ biển dài 116,04 km, có vịnh và cảng
Hòn La, cảng Gianh, cảng Nhật Lệ; có chung biên giới với nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào 201,87 km ở phía Tây, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Hà Tĩnh
với chiều dài địa giới 136,5 km, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị với địa giới

78,8 km. Trên địa bàn Quảng Bình có quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh,
đường sắt Bắc Nam. Các quốc lộ 12A, đường xuyên Á và tỉnh lộ TL10, TL11,
TL16 và TL20 chạy từ Đông sang Tây gián tiếp hoặc trực tiếp qua cửa khẩu
Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác nối liền với nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào.
Địa hình Quảng Bình nhìn chung khá phức tạp, hẹp và thấp dần từ phía
Tây sang phía Đông. Phía Tây là sườn Đông của dãy Trường Sơn hùng vĩ với
hàng loạt các đỉnh núi cao trên 1.000 m. Càng về phía Đông, địa hình thấp
dần, nhưng do hẹp chiều ngang nên độ dốc tương đối lớn. Vùng đồi mở rộng
15


với nhiều nhánh núi tiến ra sát biển đã làm thu hẹp một phần đáng kể diện tích
của đồng bằng duyên hải.
Quảng Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, luôn bị tác
động bởi khí hậu của phía Bắc, phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, với lượng mưa trung bình từ 1.600
- 2.800 mm/năm, thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11. Mùa khô
từ tháng 4 đến tháng 8, ba tháng có nhiệt độ cao nhất là các tháng 6, 7, 8,
nhiệt độ cao nhất lên đến 41,60C. Nhiệt độ trung bình trong năm của Quảng
Bình tăng dần từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông. Cân bằng bức xạ đạt 70 80 kcal/cm2. Số giờ nắng bình quân năm khoảng 1.700 - 2.000 giờ.
Nhìn chung, Quảng Bình có điều kiện tự nhiên khá khắc nghiệt. Tuy lợi
thế của vùng là thuận lợi thông thương với hai miền Bắc - Nam, nguồn tài
nguyên đa dạng, mức độ khai thác chưa cao (đất chưa sử dụng; sông, thác
chưa làm hồ chứa, thủy điện; khoáng sản mới khai thác bước đầu...), nhất là
tiềm năng về du lịch (Khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng). Nhưng, nơi đây
cũng gặp phải nhiều khó khăn trong phát triển KT - XH. Đặc biệt, những tác
động do con người tạo ra như việc khai thác rừng quá mức, phá rừng làm rẫy
bừa bãi dẫn đến môi trường sinh thái bị phá vỡ, khí hậu vốn có phần khắc
nghiệt tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu (bão, lũ lụt…), đất đai bị thoái

hóa nghiêm trọng là những thách thức to lớn đối với quá trình phát triển bền
vững. Do đó, đòi hỏi trong chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh nói chung,
thực hiện CSXH nói riêng phải giải quyết bài toán làm sao khai thác có hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, nhưng đồng thời phải khắc phục những khắc
nghiệt của tự nhiên; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực
hiện CSXH và giữ gìn, tái tạo, bảo vệ môi trường tự nhiên.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Mặc dù đã đạt được thành tích quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế, “Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm (1996 - 2000) đạt 8,2%.
16


Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân 5,3%/năm, công
nghiệp tăng 17,2%/năm, dịch vụ tăng 7%/năm. Tổng sản phẩm nội tỉnh
(GDP) bình quân đầu người gấp 1,3 lần so với năm 1995” [2, tr.18]. Song,
nền kinh tế tỉnh Quảng Bình vẫn là nền kinh tế sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên, hiệu quả thấp, thiếu tính bền vững. Ở các xã
vùng cao, vùng sâu, biên giới, sản xuất tự cung tự cấp là phổ biến, thậm chí
một số nơi như đồng bào dân tộc Rục còn tình trạng kinh tế hái lượm. Các cơ
sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ có quy mô nhỏ bé, ở vùng miền
núi, vùng biên giới hầu như không có.
Dân số Quảng Bình năm 2000 là 807.787 người, đến năm 2005 là
850.650 người, mật độ dân số bình quân 105 người/km². Dân cư phân bố
không đều, 85,5% sống ở vùng nông thôn và 14,5% sống ở thành thị. Dân số
của tỉnh Quảng Bình tính theo mức tăng dân số tự nhiên bình quân hằng năm
cả thời kỳ 2001 - 2005 là 1,43% [39, tr.6].
Quảng Bình có nguồn lao động với 380.306 người, phần lớn lao động
chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Lực lượng lao động qua
đào tạo là 53.295 người, chiếm tỷ lệ 14%. Lao động qua đào tạo nghề chủ yếu
được phân bổ trong lĩnh vực sản xuất vật chất như: các ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, khai khoáng, chế biến nông lâm thuỷ

sản và ngành dịch vụ, du lịch, phục vụ cộng đồng. Về cán bộ khoa học và
công nghệ, toàn tỉnh Quảng Bình có trên 10.720 cán bộ khoa học kỹ thuật có
trình độ đại học và cao đẳng [39, tr.6].
Quảng Bình là một trong những tỉnh có nhiều đối tượng người có công
với cách mạng, toàn tỉnh có gần 14,5 vạn người có công (chiếm gần 17% dân
số), trong đó: có trên 13.600 liệt sỹ, gần 2 vạn thương bệnh binh, 387 Bà mẹ
Việt Nam anh hùng, 6.300 người hưởng chế độ tham gia kháng chiến và con
đẻ bị nhiễm chất độc hóa học; gần 1.000 người hoạt động cách mạng, hoạt
động kháng chiến bị địch bắt, tù đày; hơn 10 vạn đối tượng tham gia kháng
chiến được tặng thưởng huân huy chương [41, tr.6].
17


Nhìn một cách tổng thể, tỉnh Quảng Bình là địa bàn chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh và đối ngoại
của khu vực Trung Trung Bộ; có tiềm năng lớn về quỹ đất và tài nguyên rừng,
khoáng sản để phát triển và mở rộng sản xuất nông, lâm nghiệp, khai thác
khoáng sản gắn với công nghiệp chế biến trên quy mô lớn. Nhân dân Quảng
Bình có truyền thống đoàn kết, yêu nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và chính quyền các cấp. Song, do hậu quả chiến tranh và chịu sự tác động lớn
của điều kiện tự nhiên, thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ. Tỉnh
Quảng Bình vẫn còn trong tình trạng khó khăn, lạc hậu, đặc biệt là các xã
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tiềm năng đất đai, con người khá phong
phú nhưng kết cấu hạ tầng yếu kém, thị trường chưa phát triển. Trình độ dân
trí thấp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn lao
động thấp, môi trường đầu tư không thuận lợi. Tài nguyên rừng, đất rừng bị
khai thác kiệt quệ, môi trường sinh thái đang bị đe dọa nghiêm trọng. Mức
sống của nhân dân tuy đã được cải thiện, nhưng mới tập trung ở vùng thị trấn,
thị xã. Để Quảng Bình phát triển bền vững, đòi hỏi trong quá trình lãnh đạo
thực hiện CSXH, Đảng bộ tỉnh phải căn cứ vào những đặc điểm về tự nhiên,

KT - XH nhằm phát huy những lợi thế vốn có, hạn chế đến mức thấp nhất
những trở lực, đưa ra các quyết sách đúng đắn. Tiến hành thực hiện CSXH
thông qua các chính sách cụ thể như: giải quyết việc làm, XĐGN, chính sách
đối với người và gia đình có công, chính sách DS - KHHGĐ... nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế đồng thời từng bước thực hiện
CSXH, đảm bảo vì sự phát triển của con người.
* Tình hình thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh Quảng
Bình trước năm 2001
Ưu điểm
Quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
CSXH, từ năm 1986 đến năm 2000, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Bình đã có
18


nhiều nghị quyết, quyết định cụ thể hóa phù hợp với thực tiễn địa phương. Xác
định rõ là phải gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, tăng
trưởng kinh tế phải luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Ngay trong Đại
hội Đảng bộ lần thứ XII (1996) của tỉnh đã đề ra tư tưởng chỉ đạo “giải quyết
tốt các mối quan hệ kinh tế và xã hội; kinh tế và quốc phòng, an ninh; coi trọng
tính thống nhất hiệu quả kinh tế - xã hội, lợi ích kinh tế là động lực tinh thần
trong mọi lĩnh vực hoạt động, trong từng địa phương cơ sở…” [1; tr. 43].
Quá trình tổ chức thực hiện, do nhận thức rõ tính chất, đặc điểm thời kỳ
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN nên Đảng bộ, UBND tỉnh thường xuyên
quan tâm, gắn chặt hoạt động lãnh đạo của các tổ chức đảng với chỉ đạo của
chính quyền từ cấp tỉnh đến huyện và xã, tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của
các tổ chức, đơn vị và các doanh nghiệp nên đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên các mặt: lao động việc làm, XĐGN, đền ơn đáp nghĩa, công tác DS
- KHHGĐ... Cụ thể:
Về giải quyết việc làm, xác định đây là một nội dung cơ bản của CSXH,

là cơ sở tiền đề để thực hiện có hiệu quả các CSXH khác, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XII (1996) đã xác định: “Trên cơ sở sản
xuất và mở rộng dịch vụ hàng năm tạo việc làm cho 1,3 - 1,5 vạn lao động”
[1; tr.46]. Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp đồng
bộ, trong đó có việc khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút nguồn lực tại
chỗ, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông, lâm nghiệp, góp phần thúc
đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Thực hiện
chủ trương khuyến khích, thu hút đầu tư đã thúc đẩy công nghiệp phát triển
nhanh, nâng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Bên cạnh đó,
tỉnh còn đa dạng hóa và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động,
thường xuyên chú trọng tới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với
người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp, rà soát
19


nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Đồng thời,
khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh
khi tuyển dụng lao động ưu tiên tuyển lao động tại chỗ và người địa phương.
Tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương và của nước ngoài đầu tư mở rộng
sản xuất góp phần quan trọng vào phân công lại lao động và tạo việc làm cho
hàng chục vạn người. Việc dạy nghề, truyền nghề phát triển đa dạng, nâng cao
một bước về trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Hợp tác xã
nông nghiệp từng bước đổi mới nội dung hoạt động, hướng vào xây dựng kế
hoạch, hướng dẫn kỹ thuật, làm dịch vụ. Kinh tế hộ gia đình sau khi chuyển
giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài đã có thêm động lực mới, nhiều hộ
huy động vốn, ứng dụng khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý đầu tư mở
rộng sản xuất, kinh doanh tạo nhiều công việc ổn định.
Đánh giá việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm, Đại hội Đại
biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIII (2001), nêu rõ: “Giải quyết việc
làm cho người lao động có nhiều cố gắng… Trong 5 năm đã giải quyết việc

làm cho gần 7,2 vạn lao động” [2; tr.25].
Về công tác xóa đói, giảm nghèo, với tinh thần vì người nghèo, vì đời
sống cộng đồng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo công tác XĐGN với quyết tâm “Xây dựng và thực hiện bằng được
chương trình xóa đói, giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2000 không còn hộ đói,
giảm nhanh hộ nghèo” [1, tr.102]. Cùng với cách làm đa dạng và thực hiện
đồng bộ các chương trình, dự án giảm nghèo, như: Huy động mọi nguồn lực
như nguồn vốn, lao động, hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề trong công
tác giảm nghèo; chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực,
hiệu quả nhằm đa dạng hóa thu nhập; phát triển kinh tế trang trại, hỗ trợ dạy
nghề miễn phí cho người nghèo gắn với việc làm; cung cấp dịch vụ khuyến
nông - lâm - ngư miễn phí cho người nghèo làm nông nghiệp; phát triển thị
trường lao động, động viên người lao động tự tạo việc làm; khuyến khích nhà
20


đầu tư phát triển vào nông nghiệp để tạo thêm việc làm mới cho người dân địa
phương; tích cực tham gia thị trường lao động trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu lao động; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo nghề và chủ động giải quyết
việc làm. Bên cạnh đó, chương trình xoá mái nhà tạm cho hộ nghèo được thực
hiện nghiêm túc, giúp một số hộ nghèo ổn định chỗ ở, yên tâm làm ăn, tập
trung đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập ổn định để vươn lên xoá
đói, giảm nghèo. Nhờ đó, “đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Bình
quân mỗi năm giảm 3% số hộ đói nghèo, đưa tỷ lệ số hộ đói nghèo từ 36,4%
năm 1995 xuống còn 20,3% năm 2000” [2, tr.25].
Về chính sách ưu đãi xã hội đối với người và gia đình có công, thực
hiện các quyết định, hướng dẫn của BLĐ - TB & XH, tỉnh Quảng Bình tích
cực điều tra số người bị chết trong thời gian chiến tranh là liệt sỹ. Giải quyết
trợ cấp thường xuyên cho thanh niên xung phong, du kích chống Pháp và
chống Mỹ, người bị bắt tù đầy và hoạt động tiền khởi nghĩa. Phong trào

chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người mất sức lao động, người bị
nhiễm chất độc hóa học do đế quốc Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt
Nam và Phong trào tặng sổ tiết kiệm, xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng
và chăm sóc Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tu bổ nâng cấp nghĩa trang, xây
dựng đài tưởng niệm các liệt sỹ, các công trình phúc lợi khác được các
ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội và toàn dân nhiệt tình
hưởng ứng. Đặc biệt, trong đợt phát động nhân Kỷ niệm lần thứ 50 năm
Ngày Thương binh, liệt sỹ. Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đã huy động được
“1.246.619.566 đồng, kết quả đó đã góp phần hỗ trợ hơn 300 gia đình chính
sách tu sửa nhà cửa, làm mới 178 ngôi nhà tình nghĩa, lập và tặng 6500 sổ
tiết kiệm” [40, tr.3]. Các đối tượng CSXH được quan tâm giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống; các hoạt động nhân đạo từ thiện, bảo
trợ người tàn tật, trẻ mồ côi, người già cô đơn và những người gặp rủi ro
được mở rộng, góp phần giảm bớt khó khăn cho nhiều gia đình. “Phong trào
21


đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được các ngành, đoàn thể
địa phương và nhân dân hưởng ứng…” [1, tr.23].
Về công tác DS - KHHGĐ, được coi là một bộ phận của chiến lược
phát triển KT - XH của tỉnh, là nền tảng quan trọng để nâng cao chất lượng
nguồn lực con người. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ
XII đã xác định: “Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình quốc gia về y tế
chăm sóc sức khỏe cộng đồng và bồi dưỡng thể chất cao cho nhân dân. Tập
trung mọi nỗ lực giảm tỷ lệ phát triển dân số hàng năm 0,8-1%.” [1, tr.102].
Do đó, công tác truyền thông, nhất là mô hình truyền thông nhóm tại địa bàn
dân cư, hướng đến đối tượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được chú trọng.
Ngành dân số tỉnh đã lồng ghép phối hợp các hội đoàn thể, nhất là Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh triển khai tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân về các
vấn đề: chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh con;

không sinh con thứ 3, không lựa chọn giới tính khi sinh con... Ngoài đẩy
mạnh truyền thông thay đổi hành vi người dân, hằng năm, ngành dân số tỉnh
tổ chức chiến dịch truyền thông lồng ghép với chăm sóc sức khoẻ sinh sản
nhằm nâng cao sự hiểu biết cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, vận
động thực hiện tốt công tác DS - KHHGĐ. “Việc tuyên truyền, vận động giáo
dục truyền thông về dân số - kế hoạch hóa gia đình được triển khai kịp thời và
hoạt động có hiệu quả, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên từ 2,17% năm 1996
xuống 1,43% năm 2000” [2, tr.26].
- Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện CSXH
của tỉnh Quảng Bình trong những năm 1986 - 2000 còn bộc lộ những hạn chế,
thiếu sót sau:
Về giải quyết việc làm, mặc dù hằng năm tỉnh đã tạo việc làm cho 1,3 1,5 vạn lao động, song tình trạng “Lao động thiếu việc làm còn nhiều” [2,
tr.39], là vấn đề bức xúc. Việc tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về định
hướng nghề nghiệp thiếu thường xuyên, chưa coi trọng việc học nghề, nâng
22


cao tay nghề cho người lao động. Số cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp trên địa
bàn khả năng thu hút lao động còn thấp. Mối quan hệ, phối hợp giữa các cơ sở
đào tạo với các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo,
giải quyết việc làm còn hạn chế. Ngành nghề đào tạo còn đơn điệu, chưa thực
sự chú trọng tìm hiểu nhu cầu của các địa phương, các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế để tổ chức đào tạo nghề theo đơn đặt hàng, có địa chỉ,
theo nhu cầu của người sử dụng, nhất là các nghề có yêu cầu cao về kỹ thuật
như: cơ khí, tự động hóa, dịch vụ khách sạn cao cấp... Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chậm; sản xuất nông nghiệp phân tán,
manh mún, chủ yếu vẫn độc canh cây lúa và mang nặng tính tự cấp, tự túc.
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ở nông
thôn còn ít; lao động dư thừa nhiều, chủ yếu là lao động thủ công, trình độ

thấp, phần lớn chưa qua đào tạo.
Về công tác xóa đói, giảm nghèo, ở một số địa phương cách làm còn
đơn giản, chưa thực sự coi công tác XĐGN là một hoạt động lãnh đạo quan
trọng của mình, chưa có hướng đi lâu dài, chưa tạo được sự chuyển biến tích
cực trong sự phát triển đời sống xã hội, “tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao” [2, tr.39].
Công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động còn hạn chế, chưa khơi dậy và phát
huy được truyền thống đoàn kết “tương thân, tương ái” của đồng bào trong
tỉnh. Nguồn lực vật chất huy động cho người nghèo chưa được quản lý chặt
chẽ, chưa sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng. Việc xóa nhà ở tạm, nhà ở
dột nát cho hộ nghèo triển khai còn chậm. Theo Báo cáo tóm tắt Dự án giảm
nghèo tỉnh Quảng Bình, cho đến năm 2001 toàn tỉnh “có 43.293 hộ nghèo đói,
chiếm tỷ lệ 25,06%. Có đến 61/153 xã có tỷ lệ nghèo đói trên 40% trở lên.
Đặc biệt là ở vùng miền núi, rẻo cao mức sống dân cư còn thấp, hàng năm
còn thiếu đói 4 - 5 tháng” [76, tr.5]. Hầu hết số hộ nghèo không có khả năng
vươn lên cải thiện đời sống vật chất, rất cần sự trợ giúp của cộng đồng.
23


Về chính sách ưu đãi xã hội đối với người và gia đình có công, ở một
số địa phương, việc quán triệt, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách đối với
người và gia đình có công chưa được quan tâm đúng mức. Công tác thông tin,
tuyên truyền sâu rộng về các chế độ, chính sách thương binh, liệt sỹ trong mọi
tầng lớp nhân dân chưa thường xuyên. Một số nội dung chính sách chưa được
giải quyết kịp thời, tiến độ còn chậm, có việc để tồn đọng kéo dài gây bức
xúc. Đời sống một số gia đình đối tượng chính sách người có công còn khó
khăn. Phong trào chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ chưa gắn liền với sự
phát triển KT - XH. Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đầu tư chưa hiệu quả, việc thăm
hỏi, tặng quà cho gia đình chính sách không thường xuyên, có nơi chỉ mang ý
nghĩa thủ tục. Việc thực hiện Đề án “xóa nhà dột nát” cho đối tượng chính
sách gặp khó khăn về kinh phí. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại về chế

độ, chính sách tuy làm tích cực song một số vụ việc khó khăn phức tạp còn để
kéo dài; năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ làm công tác chính
sách còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Việc tổng hợp báo cáo định kỳ của
các đơn vị cơ sở ở một số nơi chưa đáp ứng với yêu cầu.
Về công tác DS - KHHGĐ, ở tỉnh mới tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ
sinh, ít chú trọng đến chất lượng dân số, cơ cấu phân bổ dân cư. “Tỷ lệ tăng
dân số còn cao 2,59% (chỉ tiêu Đại hội đề ra 2%)” [1, tr.26]. Kết quả giảm
sinh không vững chắc, mức sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có chiều hướng
gia tăng, nhất là ở các địa phương có nhiều đồng bào theo Đạo Thiên chúa,
dân tộc ít người. Một số ít cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước
không gương mẫu thực hiện công tác DS - KHHGĐ.
Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân: Quảng Bình là
một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, thiên tai khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng thấp,
thiếu sức thu hút đầu tư phát triển và hội nhập; một số cán bộ, đảng viên nhận
thức chưa thật sự sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo

24


của cấp ủy Đảng, quản lý và điều hành của chính quyền, của các ngành, các
cấp có mặt còn lúng túng, thiếu năng động [2, tr.44].
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về thực hiện chính
sách xã hội (2001 - 2005)
* Mục tiêu chung
Trên cơ sở đường lối, quan điểm, mục tiêu CSXH của Đảng và tình hình
thực tiễn địa phương, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIII
(01/2001) xác định mục tiêu chung của CSXH là:
Tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, khả năng hội nhập của nền kinh tế, tạo sự chuyển biến tiến bộ các
lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, giải quyết việc làm; cơ

bản xoá hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, ổn định và nâng cao đời sống
nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh [2; tr.51].
Mục tiêu chung thực hiện CSXH của tỉnh là gắn phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, tạo sự chuyển biến tiến bộ các lĩnh vực giải
quyết việc làm; cơ bản xoá hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, ổn định và nâng cao
đời sống nhân dân, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững,
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công, bảo vệ những giá trị văn
hóa, truyền thống tốt đẹp của địa phương.
Đây là bước kế thừa, đồng thời cũng là tiếp tục khẳng định tính đúng
đắn về mục tiêu CSXH mà sau một nhiệm kỳ triển khai tổ chức thực hiện, tại
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XII (1996) đã rút ra bài
học kinh nghiệm là: “Phát triển kinh tế phải gắn liền với giải quyết đúng đắn
các vấn đề văn hóa - xã hội, thực hiện công bằng xã hội…, vì vậy đã tạo ra
động lực mới thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị” [1,
tr.43]. Mục tiêu này xác định, phải tập trung phát triển kinh tế một nhiệm vụ
25


trọng tâm. Đồng thời, thực hiện tốt các CSXH bảo đảm cho sự phát triển bền
vững nền kinh tế.
* Chủ trương giải quyết các vấn đề cụ thể:
Về giải quyết việc làm: “Phấn đấu hàng năm tạo thêm việc làm cho 1,5 1,6 vạn lao động” [2, tr.79]. Phát triển mạnh kinh tế hàng hóa, mở rộng kinh tế
đối ngoại, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư sản
xuất, dịch vụ, mở mang ngành nghề kết hợp với phân bố lại lao động và dân cư
để khai thác hợp lý tài nguyên trong tỉnh; đồng thời xúc tiến tích cực xuất khẩu
lao động. Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp,
xây dựng, thương mại và dịch vụ; giảm tỷ trọng trong các ngành sản xuất nông
nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, cung ứng lao động cho tỉnh ngoài,
xuất khẩu lao động. Thành lập trung tâm đào tạo, cung ứng, giới thiệu việc làm

và xuất khẩu lao động. Tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới, bảo đảm việc làm
cho người lao động có nhu cầu việc làm. Từng bước bảo đảm việc làm ổn định,
có thu nhập cao và an toàn lao động.
Về xóa đói, giảm nghèo: Đẩy mạnh xã hội hóa công tác XĐGN, kết
hợp chương trình XĐGN với các chương trình phát triển KT - XH với mục
tiêu: “đến năm 2005 cơ bản xóa hộ đói, giảm hộ nghèo bình quân hàng năm
từ 4 - 5% theo tiêu chuẩn mới” [2, tr.78]. Phát huy sức mạnh tổng hợp, trong
đó coi trọng yếu tố tự lực vươn lên của hộ nghèo để cải thiện một bước về
việc làm, ăn, ở, mặc, chữa bệnh, học tập đối với hộ nghèo, người nghèo. “Xóa
đói giảm nghèo phải trở thành một bộ phận cấu thành trong kế hoạch phát
triển KT - XH các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Tăng đáng kể đầu tư cho miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng có hoàn cảnh khó khăn, trước hết ưu tiên đầu tư cho
70 xã hiện có 40% hộ nghèo đói trở lên” [2, tr.78]. Hạn chế đến mức thấp
nhất hộ tái nghèo.

26


Về chính sách ưu đãi xã hội đối với người và gia đình có công: Vận
động toàn dân tích cực tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn… để “Chăm lo thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội đối
với cán bộ lão thành, tiền khởi nghĩa, người có công với cách mạng, giúp
đỡ, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, bảo đảm ổn định và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
cho các đối tượng chính sách phù hợp với khả năng của tỉnh và mỗi địa
phương” [2, tr.79].
Về công tác DS - KHHGĐ: là tỉnh có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng
năm còn cao, nhất là ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít
người và vùng đồng bào có đạo, Tỉnh xác định cần phải đẩy mạnh thực hiện
xã hội hóa công tác DS - KHHGĐ, gắn với việc nâng cao chất lượng dịch vụ

kế hoạch hóa gia đình nhằm thực hiện mục tiêu công tác DS - KHHGĐ là:
“Đảm bảo giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm 0,9 - 1%, đến năm 2005 đạt
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên khoảng 1,1 - 1,2%. Từng bước giải quyết có trọng
điểm về chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư” [2, tr.79]. Nâng
cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực góp phần vào sự nghiệp phát
triển KT - XH bền vững của tỉnh. Thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm
của các thành viên trong gia đình.
* Nhiệm vụ và giải pháp
Một là, tăng cường huy động mọi nguồn lực, tập trung đầu tư cho thực
hiện các CSXH [74, tr.8].
Nguồn lực để thực hiện CSXH ở tỉnh bao gồm sức mạnh chính trị tinh
thần, cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính, trong đó nguồn lực tài chính là chủ
đạo. Đó là ngân sách Nhà nước (Trung ương và địa phương); sự đóng góp của
các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức nghề nghiệp; các nhà tài
trợ; tổ chức nhân đạo ở địa phương, trong nước và nước ngoài... Để huy động
27


×