Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảng bộ tỉnh hà nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.97 KB, 111 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hệ thống chính trị
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Quốc phòng, an ninh
Tổng thu nhập quốc nội
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
HTCT
HĐND
KT - XH
Nxb
QP, AN
GDP
UBND


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG

3



BỘ TỈNH HÀ NAM VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN (2005 2010)
1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh

11

Hà Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
(2005 - 2010)
1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ

11

chủ chốt cấp huyện (2005 - 2010)
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY

30

MẠNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP HUYỆN (2011 - 2015)
2.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về

42

xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện (2011 - 2015)
2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng đội

42

ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện (2011 - 2015)

Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây

53
64

dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện (2005 - 2015)
3.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây

64

dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện (2005 - 2015)

74

KẾT
LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

91
93
102

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành
công hay thất bại của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém". Theo Người, "Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù có tốt, dù chạy, toàn bộ máy
cũng tê liệt. Nếu cán bộ nói chung là gốc của mọi công việc thì đội ngũ cán
bộ chủ chốt là "gốc của gốc". Theo đó, công tác cán bộ là vấn đề then chốt
của nhiệm vụ then chốt, và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là cái cốt
lõi của các vấn đề then chốt.
Cán bộ và công tác cán bộ thực sự là một yêu cầu vừa cơ bản vừa bức
xúc, đòi hỏi phải được đổi mới từ quan điểm, phương pháp, chính sách và tổ
chức, chẳng những để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước hôm
nay mà còn phải chuẩn bị cho thế hệ kế tục sự nghiệp của Đảng và dân tộc
trong tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã dày
công đào tạo và rèn luyện nên các thế hệ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt vững vàng, tận tụy kế tiếp nhau đảm đương và hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ cách mạng.
Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cán bộ đi trước,
đội ngũ cán bộ ngày nay đã và đang công tác, học tập, rèn luyện, không ngừng
nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn hiện nay đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
nói riêng còn nhiều mặt hạn chế trước yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế nhất là trong chủ trương chỉ đạo của Đảng bộ, kiến
thức, năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Nhà nước…Một số cán bộ sa
sút về chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống, cục bộ địa phương, cá nhân chủ

3



nghĩa, cửa quyền, quan liêu, hách dịch, mất đoàn kết nội bộ…đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu đổi mới đối với công tác cán bộ và đội ngũ
cán bộ chủ chốt là cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đòi hỏi Đảng phải hết
sức chăm lo, xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, mà trước hết là
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện có đủ phẩm chất và năng lực để đảm
đương và thực hiện chức trách, nhiệm vụ ở từng vị trí công tác.
Tỉnh Hà Nam là một tỉnh có bề dày lịch sử, giàu truyền thống văn hiến
và cách mạng, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Năm 1997, tỉnh Hà Nam được tái lập, có 05 huyện và 01
thị xã (nay là thành phố) trực thuộc tỉnh. Trong những năm gần đây, tỉnh Hà
Nam đã và đang tiến hành việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, triển khai các dự án trọng
điểm của tỉnh và của quốc gia. Yêu cầu mới đòi hỏi tỉnh, cũng như các cấp
huyện, thành phố phải chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực, nhất là lãnh đạo, xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngang tầm với nhiệm vụ mới. Trong
những năm 2005 - 2015, Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện đạt được những thành công nhất định nhưng còn
nhiều hạn chế như trong công tác quy hoạch, xây dựng vẫn còn thiếu tính chủ
động, chưa kết hợp chặt chẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng với công tác kiểm
tra, giám sát đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện….v.v
Tình hình trên đã đặt ra nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài
đối với Đảng bộ tỉnh Hà Nam là phải đổi mới, củng cố, xây dựng nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện nhằm khai thác
tiềm năng của địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế, xã hội góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Với yêu cầu cấp bách đặt ra, từ thực tiễn tỉnh Hà Nam, tôi chọn vấn đề
“Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

4



huyện từ năm 2005 đến năm 2015” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề đội ngũ cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú
trọng, quan tâm chăm lo xây dựng nhất là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện luôn giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng và là một nội
dung trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng. Chính vì thế đề tài xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng luôn là một
trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học bắt tay nghiên cứu với hàng loạt
công trình trên nhiều bình diện khác nhau. Các công trình nghiên cứu này có
thể được chia thành các nhóm sau:
* Những công trình nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ,
cán bộ chủ chốt trên phạm vi cả nước
Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Bùi Tiến Quý (2000), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Thang Văn
Phúc, Nguyễn Minh Phương (2001), Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phú Trọng, Trần
Xuân sầm (đồng chủ biên) (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hà Đăng (2003), “Vấn đề quy
hoạch cán bộ”, Tạp chí Cộng sản, số 6; Nguyễn Hồng Phương (2004), “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dụng đội
ngũ cán bộ cơ sở trong giai đoạn mới”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 16; Trần


5


Thị Hương (2004), “Đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 9; Ngô Ngọc Thắng (2004), “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ mới”, Tạp chí giáo dục lý luận, số
8; Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Thúy (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 12; Trần Hậu Thành (2004), Nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị của đội ngũ cản bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay
(qua khảo sát ở một số tỉnh, thành phố phía Bắc nước ta), Đề tài khoa học cấp
bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Hữu Thành (2005), “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5; Bùi
Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb
Lao động, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (2005), Hệ thống chính trị cơ sở nông
thôn nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội; Nguyễn Chí Mỳ
(2005), “Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, lý luận, số 12; Nguyễn Đức Hà (2009),
“Để xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở vững mạnh”, Tạp chí Cộng
sản, số 30; Nguyễn Lan Phương (2010), “Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức cấp xã hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 42.
Đây là các công trình, đề tài nghiên cứu quan điểm, chủ trương của
Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Đồng thời, nghiên cứu yêu cầu và nội dung,
phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
* Những công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
ở các Đảng bộ địa phương và tỉnh Hà Nam
Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Phạm

Công Khâm (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và chính

6


quyền Nhà nước, Hà Nội; Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà
Nội; Trần Duy Hưng (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Vũ Trùng Vương, Hoàng Nguyên Hãn (2002),
Những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ xã, thôn của tỉnh Hà Nam;
Nguyễn Thúy Hường (2008), Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường tiểu học ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ Quản
lý giáo dục; Lê Thị Như Hoa (2010), Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp cơ
sở từ năm 1997 đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Hà Nội; Phạm
Nhất Linh (2009), Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của
Đảng bộ tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến năm 2007, Luận văn thạc sĩ Lịch
sử, Hà Nội; Trần Tiến Quân (2012), Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2001 đến năm 2010, Luận
văn thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội; Phạm Thìn (2014),
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hà Nội; Phạm Tùng Hương (2014), Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997
đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội;
Phạm Thị Tuyết Yên (2016), Đảng bộ Quận hà Đông, Thành phố Hà Nội
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường từ năm 2008 đến

năm 2015, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên đây là những công trình, đề tài nghiên cứu về quá trình lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng bộ các địa phương và riêng tỉnh
Hà Nam, các công trình đã nêu được những thành tựu, hạn chế, đồng thời rút

7


ra những kinh nghiệm có giá trị trong công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt tại các địa phương, đơn vị đó trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Các tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng đều tựu
chung một mục đích là tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ các
cấp của Đảng ở các địa phương, đơn vị. Các công trình trên đã có những đóng
góp về lý luận và thực tiễn để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng
ngày một vững mạnh thêm.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp nhất
định cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn về vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ, đây là nguồn tài liệu quí mà bản thân tôi có thể tham khảo, kế
thừa trong quá trình thực hiện viết luận văn. Trong thời gian vừa qua chưa thấy
có công trình nào nghiên cứu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện. Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2005
đến năm 2015” với mong muốn có thể nghiên cứu, tổng kết sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt góp phần
bổ sung, phát triển thêm về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, làm tài liệu tham
khảo phục vụ công tác lãnh đạo và xây dựng đội ngữ cán bộ chủ chốt cấp
huyện của Tỉnh trong tình hình mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2015; từ đó rút ra một số kinh
nghiệm có giá trị tham khảo cho hiện tại.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam trong những năm 2005 - 2015.

8


Phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2015 qua
2 giai đoạn: giai đoạn 2005 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2015.
Nhận xét đánh giá ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và rút ra một
số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện những năm 2005 - 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện.
* Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trên các vấn đề quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, quản lý, đánh giá cán bộ
chủ chốt cấp huyện.
Thời gian: Luận văn nghiên cứu khoảng trong khoảng thời gian 10 năm
(2005 - 2015). Tuy nhiên để nghiên cứu có hệ thống, luận văn có đề cập đến
một số nội dung liên quan trước và sau nội dung nói trên.
Không gian: Luận văn nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Hà Nam.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ.
* Cơ sở thực tiễn
Các nghị quyết lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam, báo cáo tổng kết,
đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thực tiễn lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ
năm 2005 đến năm 2015.

9


* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên phương pháp chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó chủ yếu dựa vào phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra
tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh… để làm rõ nội dung nghiên cứu cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần tổng kết quá trình đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2015 và
đóng góp những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện, làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà trường trong
quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN (2005 - 2010)

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện (2005 - 2010)
1.1.1. Những yếu tố tác động
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam
Hà Nam nằm ở phía Tây Nam châu thổ Sông Hồng, cửa ngõ phía
Nam Thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp Hà Nội, phía Đông giáp tỉnh Thái Bình
tỉnh Hưng Yên, phía Nam giáp tỉnh Nam Định, phía Tây và Tây Nam giáp
tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, có thế lợi trong vùng trọng điểm phát triển kinh
tế Bắc Bộ; có hệ thống giao thông thuận lợi, nằm trên trục giao thông quan
trọng xuyên Bắc Nam. Trên địa bàn tỉnh có đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ
1A, Quốc lộ 21B và Quốc lộ 38. Do vậy Hà Nam thuận lợi trong phát triển,
giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật với các tỉnh trong
vùng và trong cả nước. Là tỉnh nông nghiệp, địa hình đa dạng, chủ yếu là
vùng đồng bằng chiêm trũng, vùng đồi núi và nửa đồi núi, có nguồn tài
nguyên đá vôi trữ lượng lớn ở hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm; ngoài
sông Hồng còn có hai con sông lớn chảy qua là sông Đáy và sông Châu
Giang thường gây ra sói lở, lũ lụt. Yếu tố tự nhiên đã phân hóa mức thu
nhập của các vùng, ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống nhân dân trong phát
triển KT - XH và tạo ra nhiều khó khăn phức tạp cho lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ của cấp ủy đảng các cấp, sự đồng thuận, đoàn kết, tương trợ
của cán bộ, đảng viên.
Tỉnh Hà Nam được tái lập từ 01/01/1997, có vị trí chiến lược quan

trọng về kinh tế - xã hội và QP, AN ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ cũng như cả
nước. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 860,5 km2, dân số trung bình 834,1 nghìn
người với 05 huyện và 01 thành phố; mật độ dân số trung bình 961

11


người/km2. Điểm nổi bật của Hà Nam là hệ thống giao thông thuận lợi; có
nhiều khu công nghiệp, cơ sở đào tạo và công trình phục vụ dân sinh quy mô
lớn. Diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn phù hợp cho sản xuất nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản; ngoài ra Hà Nam còn có trữ lượng đá vôi
lớn phù hợp cho việc sản xuất vật liệu xây dựng. Các khu du lịch kinh tế
mở Tam Chúc - Ba Sao, khu công nghiệp Đồng Văn, Châu Sơn, Đại
Cương, Tây sông Đáy và một số trường Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề đóng trên địa bàn tỉnh… đã đóng góp tích cực vào quá
trình phát triển KT - XH của tỉnh. Đã có nhiều dự án đầu tư phát triển và
xây dựng cơ bản trong tỉnh đạt kết quả cao, có nhiều công trình mang ý
nghĩa xã hội và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Song, mặt trái của sự phát triển nhanh cơ sở hạ tầng là sự
mất ổn định trật tự an toàn địa bàn, do xáo trộn đời sống bộ phận nhân dân
nằm trong diện giãn dân, đền bù đất canh tác. Vấn đề đó đòi hỏi tính năng
động, nhạy cảm của HTCT, vai trò của cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ
chốt cấp huyện của tỉnh Hà Nam trong việc tổ chức và tập hợp quần chúng
thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
Trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập và phát triển sâu rộng
KT - XH của tỉnh đã có bước chuyển biến lớn.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối toàn diện,
giành thắng lợi lớn về năng suất, sản lượng lương thực và chăn nuôi. Cơ cấu
kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng chăn
nuôi, thủy sản từ 23,2% (năm 2000) lên 31,3% (năm 2005).

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, nhất là
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương, đã góp phần tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội: Công tác lập và quản
lý quy hoạch, xây dựng có tiến bộ, được các cấp, các ngành quan tâm nhiều

12


hơn; bộ mặt kiến trúc đô thị, nông thôn được đổi mới; quản lý chất lượng xây
dựng dần đi vào nề nếp. Đầu tư phát triển có chuyển biến tích cực, quy mô
tăng trưởng cao. Mạng lưới giao thông, hệ thống thủy lợi được đầu tư nâng
cấp và xây dựng tương đối đồng bộ.
Tuy nhiên sự phát triển kinh tế ở Hà Nam tính ổn định chưa đảm bảo,
chưa khai thác hiệu quả các nguồn lực để tạo bước đột phá kinh tế, sự phân
hóa giàu nghèo và chênh lệch trình độ dân cư còn cao. Giải quyết việc làm,
nhất là việc làm cho người lao động ở những nơi thu hồi đất nông nghiệp
chưa đáp ứng được yêu cầu.
Dân số Hà Nam phân bố không đều trên địa bàn. Tỷ lệ tăng dân số của
Tỉnh tương đối nhanh; sự di dân tập trung nhiều ở thành phố, thị trấn, khu công
nghiệp gây nên phức tạp tình hình. Trong tỉnh, có 03 tôn giáo: Công giáo,
Tin lành, Phật giáo; tín đồ Công giáo đang gia tăng, nguyên nhân là do một
số nhà thờ bị hư hỏng trong chiến tranh được xây dựng lại và sự chuyển về
của tín đồ từ các địa phương khác đến. Hoạt động tôn giáo, nhìn chung tuân
thủ pháp luật; quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân tôn giáo đối với HTCT ở
các cấp tiếp tục thay đổi theo hướng tích cực. Song, trong các sinh hoạt tôn
giáo của các tôn giáo ở một số nơi trên địa bàn có biểu hiện vi phạm, có thời
điểm phức tạp gây khó khăn cho Tỉnh trên phương diện thực hiện chính sách
tôn giáo, an ninh, chính trị. Đó là việc gây sức ép đòi xây dựng lại nhà thờ,
đòi đất cho nhà chùa, truyền đạo trái quy định, có chức sắc tôn giáo tư tưởng

cực đoan, bảo thủ xúi giục tín đồ gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. .. Vì
vậy, đòi hỏi vai trò, trách nhiệm, năng lực của cán bộ các cấp, các ngành nói
chung, cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng ngày càng được nâng cao, giải
quyết kịp thời mọi tâm tư, tình cảm, xây dựng tinh thần đoàn kết cùng nhau
phát triển KT - XH trên địa phương mình phụ trách.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
nền văn hóa của tỉnh Hà Nam càng phong phú đa dạng và được phát huy theo

13


hướng tích cực nằm trong tính thống nhất của văn hóa Việt Nam. Những giá trị
truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp, những thiết chế xã hội cổ truyền được giữ
vững và phát huy. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực đó thì nhiều yếu tố lạc
hậu về văn hóa xã hội ở một số địa phương có xu hướng phục hồi chính vì vậy cần
phải phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, vai trò của đội ngũ
cán bộ trong gạn đục khơi trong nền văn hóa. Do vậy, phải gắn công tác quy hoạch
cán bộ chủ chốt với các hoạt động chính trị, KT - XH và con người cụ thể ở từng
huyện; chú ý đến truyền thống, phong tục, tập quán của địa phương. Kết hợp giữa
cái chung với cái riêng để từ đó xác định nguồn, tìm người giao việc và đưa vào kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều biện pháp thiết thực.
Với thế mạnh về kinh tế, chính trị xã hội, về tài nguyên: Đất đai, rừng,
khoáng sản, Hà Nam thực sự là địa phương giàu tiềm năng có nhiều lợi thế đã và
đang được khai thác phục vụ cho việc phát triển KT - XH. Tuy nhiên, tình hình
an ninh chính trị ở một số địa phương trong một số thời điểm còn có sự bất ổn:
Do cách thức tổ chức việc đền bù, giải phóng mặt bằng chưa hợp lý, còn bất cập
trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nắm chưa chắc đặc điểm tâm lý nhân dân, chưa
phối hợp đồng bộ giữa cấp ủy đảng, giữa cán bộ chủ chốt các cấp trong lãnh đạo,
chỉ đạo nhân dân thực hiện mọi đường lối chủ trương của Tỉnh.
Trên đây là những nét cơ bản về điều kiện tự nhiên, KT - XH đã và đang ảnh

hưởng trực tiếp tới xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Hà Nam.
Những đặc điểm trên có tác động không nhỏ đến quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng của tỉnh Hà Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt và thực trạng công tác lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Hà Nam trước năm 2005
Quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Quan niệm cán bộ chủ chốt cấp huyện: là những cán bộ giữ vị trí trọng
yếu nhất trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội cấp

14


huyện, trực tiếp lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của
HTCT cấp huyện, tổ chức, động viên quần chúng tham gia tích cực thực hiện
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tại địa phương.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm: bí thư, phó bí thư Đảng bộ
huyện, chủ tịch, phó chủ tịch UBND và HĐND, chủ tịch Mặt trận Tổ quốc,
trưởng các ban, ngành trong bộ máy Đảng và chính quyền, đoàn thể của huyện.
Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
Cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh
đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể
phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là
do nhân dân giao cho, cán bộ là lực lượng tinh túy nhất của xã hội, có vị trí
vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng
của HTCT nước ta, là khâu quyết định thành công của cách mạng, là người
đưa Nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống đạt hiệu quả tốt hơn.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là người trực tiếp lĩnh hội mọi nghị
quyết, chủ trương, chính sách pháp luật của Tỉnh để triển khai và quán triệt tổ

chức chỉ đạo thực hiện đến cấp cơ sở; có vai trò quyết định trong xây dựng
chủ trương, định hướng chương trình kế hoạch phát triển toàn diện hoặc trong
phạm vi từng ngành, từng lĩnh vực ở cấp huyện; chịu trách nhiệm kiểm tra
kiểm soát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa bàn theo đúng pháp luật của
Nhà nước, đúng định hướng phát triển của Đảng.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là người lãnh đạo, đồng thời
cũng là người quản lý mọi hoạt động, đảm bảo cho bộ máy chính quyền
huyện, xã làm đúng chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm mọi nghị quyết, chủ
trương chính sách của Tỉnh được thực hiện một cách cụ thể thông suốt và có
hiệu quả đến tận cấp cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện có vai trò thiết lập, duy trì các mối
quan hệ thường xuyên giữa tỉnh với cấp cơ sở, đồng thời cán bộ chủ chốt cấp

15


huyện cũng là tấm gương sáng để cấp dưới, tập thể cơ quan, đơn vị và nhân
dân trong toàn huyện noi theo.
Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Hà Nam trước năm 2005
Quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII),
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác cán bộ cấp huyện
theo chế độ tập thể, đảm bảo dân chủ. Trên cơ sở đó, hầu hết các địa phương
trong tỉnh đã tiến hành xong công tác quy hoạch các chức danh chủ chốt của
cấp ủy, chính quyền và đoàn thể. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện của tỉnh
Hà Nam mặc dù được hình thành từ nhiều nguồn, song đã được bố trí tương
đối hợp lý ở các cấp, các ngành, đã có nhiều cố gắng nâng cao trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị, nâng cao năng lực và hiệu quả công tác, đã có
những đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước nói chung, thúc đẩy
sự phát triển mọi mặt của Tỉnh nói riêng.

Ưu điểm
Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã thực hiện tốt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
và quản lý công tác cán bộ cấp huyện theo chế độ tập thể, đảm bảo dân chủ. Thực
hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa VIII) hầu hết các đơn vị đã tiến hành xong
công tác quy hoạch các chức danh chủ chốt của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp huyện đã có
nhiều chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng, được trang bị kiến
thức, ngày càng được nâng cao trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Giới tính, độ tuổi thực hiện nghiêm cơ cấu 3 độ tuổi; khi xem xét, phê
duyệt quy hoạch thì đồng thời xem xét, bổ sung nhân sự từ nơi khác vào quy
hoạch của cấp dưới, cùng với việc xét duyệt dự kiến kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển để rèn luyện cán bộ theo quy hoạch.

16


Trình độ, năng lực: Tính đến hết năm 2004, số cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong tỉnh có trình độ đại học chuyên môn tăng gấp 3,2 lần, trình độ cử nhân,
cao cấp chính trị tăng gấp 3,5 lần so với năm 1997. Cán bộ chủ chốt đương
chức và dự nguồn của các sở, ban, ngành, đoàn thể huyện hầu hết có trình độ
đại học chuyên môn và trình độ cử nhân, cao cấp chính trị [20, tr.38].
Công tác xây dựng cán bộ chủ chốt thường xuyên chú trọng quan tâm
hơn, thiết thực đảm bảo đúng quy trình, quy định của trên cũng như điều kiện
thực tế của Tỉnh.
Quy hoạch cán bộ nhìn chung đã thực hiện theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, khách quan và công khai; kết quả quy hoạch cán bộ đã thể hiện
phương châm “động” và “mở”, một chức danh đã quy hoạch nhiều người và
một người quy hoạch vào nhiều chức danh; có rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch

những người không còn đủ tiêu chuẩn, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố
mới. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, nhiều cấp ủy, cơ quan, đơn vị đã chủ động
xây dựng kế hoạch đào tạo, bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ, chuẩn bị
đội ngũ cán bộ kế cận; thực hiện việc bổ nhiệm, giới thiệu nhân sự để bầu cử
theo quy hoạch, khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức.
Quy hoạch tạo nguồn cán bộ đã có kết quả bước đầu, có sự kế thừa,
đồng thời có bước phát triển, tạo nguồn cán bộ, góp phần khắc phục dần tình
trạng bị động, lúng túng trong công tác cán bộ.
Chất lượng cán bộ đưa vào nguồn quy hoạch có sự chuyển biến khá rõ
về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, độ tuổi, hầu hết số cán bộ được giới
thiệu dự nguồn đều có trình độ cao đẳng, đại học về chuyên môn và lý luận
chính trị cử nhân hoặc cao cấp.
Chính sách đối với cán bộ trong tỉnh nói chung, đối với cán bộ chủ chốt
cấp huyện nói riêng nhìn chung bước đầu đã được quan tâm hơn, có những
điều chỉnh căn bản về chế độ tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm…
Có được những kết quả trên là do Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quán triệt
sâu sắc Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Trung

17


ương, vận dụng sáng tạo, ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết phù hợp với
thực tiễn được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cấp ủy đảng các cấp có quyết tâm
cao, mạnh dạn thay đổi tư duy, cách làm theo hướng mở rộng dân chủ, đảm
bảo công bằng, công khai đi đôi với việc phát huy đầy đủ trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ quan tham mưu về tổ
chức cán bộ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngày càng được
củng cố đoàn kết, thống nhất, vững mạnh, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng.
Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:

Trong công tác quy hoạch cán bộ ở một số huyện còn có tình trạng
khép kín, cục bộ, bè phái, thực hiện chưa tốt việc công khai, minh bạch.
Trong luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ chưa có sự gắn kết
giữa các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể; chưa quy hoạch tổng thể dài
hạn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT từ huyện đến cơ sở.
Công tác lãnh đạo quản lý cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục cán
bộ còn lỏng lẻo, có thời điểm chưa gắn chặt vai trò, trách nhiệm của cán bộ
chủ chốt với cương vị mình đảm nhiệm.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện: có lúc, có nơi,
có thời điểm chưa gắn chặt công tác quy hoạch với bầu cử, bổ nhiệm, bố trí,
sử dụng, đề bạt cán bộ.
Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan: Trình độ lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt
cấp huyện có mặt còn hạn chế.
Yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đổi mới rộng lớn phức tạp; tác động tiêu cực,
sâu sắc từ bên ngoài và mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập….
Quy hoạch là công việc khó, nhạy cảm, động đến con người, nhưng chưa
đề cao và chưa gắn với trách nhiệm của tập thể Thường vụ cấp ủy và người
đứng đầu cơ quan đơn vị trong vấn đề này.

18


Nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của Đảng bộ, tính tích cực trong
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện còn giản đơn, thiếu sâu sát.
Các cấp ủy, người đứng đầu nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm
quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ; quyết tâm của cấp ủy và người đứng đầu
chưa cao, sự chỉ đạo và thực hiện chưa tập trung và thành nếp thường xuyên.
* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán

bộ (2005 - 2010)
Nhận thức rõ vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ, trong tiến trình đổi mới đất nước thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định trong các nghị quyết, qua các kỳ Đại hội:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
(6/1997) về “Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”. Nghị quyết xác định 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ:
Một là, xây dựng cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Hai là, xây dựng cán bộ phải quán triệt quan điểm giai cấp công nhân
của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Ba là, thường xuyên gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây
dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.
Bốn là, xây dựng cán bộ phải thông qua hoạt động thực tiễn và phong
trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo
dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trác nhiệm của
các tổ chức thành viên trong HTCT [14, tr 75-78].
Với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở
luôn có phẩm chất và năng lực, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng dựa
trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân của Đảng, thường xuyên đảm

19


bảo đủ về số lượng, cơ cấu và tổ chức, đề bạt, bổ nhiệm giao việc đúng lúc,
đúng tầm, liên tục vững vàng thay thế kịp thời khi cần thiết giữa các thế hệ
cán bộ. Nghị quyết đề ra tiêu chuẩn cho cán bộ nói chung và từng thành phần
cán bộ cụ thể nói riêng, bảo đảm nguồn cán bộ trong mỗi nhiệm kỳ có bước

phát triển khoảng 30% - 40% số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể
các cấp và cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, Nghị quyết xác
định một cách cơ bản hơn một số nhiệm vụ, giải pháp lớn về xây dựng quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phấn đấu đến năm 2020 số người có trình
độ đại học, cao đẳng trở lên bằng 4% dân số cả nước. Đồng thời xây dựng các
quy chế về công tác cán bộ, thường xuyên đổi mới và hoàn thiện hệ thống
chính sách cán bộ, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH, giữ vững
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu chiến lược cán bộ của Nghị quyết
Trung ương ba khóa VIII, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) hoàn thiện hơn về cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ. Nghị quyết xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ, giải pháp đổi mới công tác cán bộ: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của
công tác cán bộ, tạo chuyển biến cơ bản, vững chắc trong công tác cán bộ; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị, thật sự vì Đảng, vì dân, có bản lĩnh và trí tuệ” [17, tr.280]. Sự gương
mẫu của cán bộ đặc biệt là cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ cấp cao phải gương mẫu
trong lời nói và việc làm, phải đi đầu trong trong đạo đức và lối sống, thường
xuyên bảo đảm tính kế thừa và phát triển, làm tốt việc xây dựng và thực hiện
chính sách cán bộ, phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định nhiệm vụ, giải
pháp tiếp tục đổi mới công tác cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ,
có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp
vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân

20


từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định

hướng quy hoạch” [17, tr.136].
Với mục tiêu chung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, xa hoa, tham nhũng,
lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, bệnh quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, có tư duy tích cực, đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; luôn luôn
có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách làm việc
khoa học, đề cao tôn trọng tập thể, có tinh thần đoàn kết yêu thương gắn bó
với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cá
nhân những việc mình làm. Xây dựng đội ngũ cán bộ luôn có tính đồng bộ, có
tính kế thừa và phát triển, số lượng và cơ cấu hợp lý. Với nhiệm vụ quan trọng
là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến
lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị” [17,
tr.293]. Đại hội xác định đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân
mà trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Do vậy, cần phải
có kế hoạch chu đáo, cụ thể, tỉ mỉ gắn với các giải pháp đồng bộ, có hiệu lực để
thực hiện. Bên cạnh đó, Đại hội nhấn mạnh đặc biệt thường xuyên quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ vùng dân tộc thiểu số, cán bộ xuất
thân từ công nhân, từ con em những gia đình có công với cách mạng và xuất
thân từ những gia đình truyền thống, dòng họ hiếu học.
Việc quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, luôn luôn đề cao vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức trong HTCT và người lãnh đạo, chỉ huy đứng đầu tổ
chức. Kịp thời động viên, khích lệ, khen thưởng, có chính sách tôn vinh
những người có công, gương điển hình tiên tiến; có cơ chế bố trí sử dụng hợp
lý, đúng người, đúng việc phù hợp với năng lực và trình độ, cống hiến hết
mình vì nước, vì dân; thường xuyên khuyến khích những người có trình độ,
năng lực, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, nhiều sáng kiến hay và ý

21



tưởng mới. Cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp có thẩm quyền phải chủ trì và chịu
trách nhiệm về công tác tổ chức cán bộ theo đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể quyết định và xác định rõ trách nhiệm cá nhân, nhất là trách
nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Thường xuyên mở rộng phát huy dân chủ đề cao tập thể, thực hiện
công khai, minh bạch trong bố trí, sử dụng, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ; cấp ủy
các cấp coi trọng việc đánh giá, kiểm tra cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn,
sự tín nhiệm, xem xét giới thiệu để đề cử, bầu cử, hoặc bổ nhiệm cán bộ.
Công tác cán bộ phải thật khách quan, công khai, minh bạch đảm bảo những
người thực sự có đức, có tài, không phân biệt mọi tầng lớp giai cấp đồng thời
khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, bè phái, dòng họ, tham vị, cố
quyền, thiếu dân chủ, nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ.
Triển khai mạnh mẽ, đồng bộ các khâu, các bước trong đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực
hiện chính sách cán bộ đảm bảo luôn có sự đổi mới. Lấy hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực để đánh giá
cán bộ, thật khách quan, công khai minh bạch. Đối với cán bộ lãnh đạo, cán
bộ chủ trì khi đánh giá phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng phát
huy sức mạnh, tinh thần đoàn kết của tập thể, cơ quan, đơn vị, địa phương
được đảm nhiệm, phụ trách, luôn là tấm gương sáng đi đầu trong mọi công
việc; không tham nhũng, lãng phí, không quan liêu, xa dân, là người đi đầu
trong phòng và chống tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý nghiêm cán
bộ thoái hóa biến chất, không bổ nhiệm, đề bạt những người thiếu phẩm
chất và năng lực trong thực hiện nhiệm vụ đồng thời khoan dung những
người thành thật nhận, dám làm, dám chịu và sửa chữa sai lầm, khuyết
điểm. Công tác chính sách, chế độ tiền lương, Đại hội tiếp tục đề cập và
thực hiện nhất là chế độ chính sách đối với người có công, cán bộ lão thành
cách mạng và cán bộ hưu trí.


22


Đối với công tác bầu cử, Đại hội xác định phải đổi mới và hoàn thiện
chế độ bầu cử, trong bầu cử có số dư, thực hiện nghiêm quyền tiến cử và ứng cử,
luôn có các phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ đúng quy trình
đề ra. Đổi mới và thực hiện tốt quy trình bỏ phiếu tín nhiệm trong công tác cán
bộ, từ chức, thôi chức, miễn chức và cách chức đối với những cán bộ vi phạm
hoặc không hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện cơ chế đảng viên và nhân dân tham
gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ, mở rộng phân cấp quản lý đi đôi với tăng
cường kiểm tra công tác cán bộ. Bên cạnh đó thực hiện tốt các khâu, các bước
trong cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quản lý, giám sát cán bộ sau
bầu cử, bổ nhiệm và trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; các quy định, quyền
hạn, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Chính sách cán bộ được Đại hội quan tâm và thường xuyên xây dựng,
thực hiện trọng dụng, thu hút nhân tài, những người có năng lực, trình độ
chuyên môn cao vào các lĩnh vực trọng yếu. Bên cạnh đó, Đại hội tiếp tục thực
hiện chủ trương khuyến khích đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức, có
triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, làm tốt công tác chính sách, quản lý, giáo
dục, sử dụng sau khi đào tạo để cán bộ yên tâm phát huy năng lực của mình.
Trên cơ sở cụ thể hóa đường lối Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X (1/2009), kết luận về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020, một lần nữa
khẳng định tính đúng đắn trong xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, tập
trung thực hiện tốt quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp sau:
Quan điểm mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ:
Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng

đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.

23


Hai là, phải xuất phát từ chiến lược phát triển KT - XH và bảo vệ Tổ quốc, từ
yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, CNH,
HĐH đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật
thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các thành phần cán bộ, trọng dụng
nhân tài, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi
mới cơ chế, chính sách, với việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
nhân dân nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải
dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm
của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong HTCT [18, tr.271].
Một lần nữa Nghị quyết đã khẳng định cán bộ nhân tố quyết định
đến vận mệnh của đất nước, đề cao sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
truyền thống yêu nước và gắn bó mật thiết với nhân dân không phân biệt
thành phần giai cấp, tầng lớp xuất thân, người ở trong nước hay ngoài
nước. Thông qua hoạt động thực tiễn để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện

và bồi dưỡng cán bộ; đề cao phát huy vai trò của nhân dân trong phát
hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ. Chủ trương của Đảng một lần nữa
khẳng định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, đề cao vai trò
trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu.

24


Mục tiêu cần đạt được là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, cơ cấu phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển
tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của thời kỳ mới” [18, tr273].
Bên cạnh đó Hội nghị cũng đã xác định bốn nhiệm vụ trọng tâm là:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các
cấp; thực hiện việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Thứ hai, hoàn thiện, ban hành và thực hiện tốt các cơ chế, chính sách
về: Quy chế bầu cử trong Đảng; quy chế đánh giá cán bộ; quy định về
thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
công tác cán bộ; cải tiến việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ; chính sách xử
lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị;
chính sách nhà ở của cán bộ, công chức và lực lượng vữ trang; chính
sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; chính sách thu hút, tạo nguồn
cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các nhà khoa học trẻ để bổ sung
cán bộ cho các lĩnh vực công tác [18, tr.278].
Thứ ba, nghiên cứu, xây dựng và thực hiện thí điểm một số đề án: đề án
thực hiện chủ trương đại hội đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ
và bí thư, phó bí thư; đề án nhất thể hóa một số tổ chức và chức danh
lãnh đạo Đảng, chính quyền ở cấp xã, huyện, tỉnh; đề án đổi mới cách

tuyển chọn cán bộ lãnh đạo cấp vụ và cấp phòng; thực hiện chế độ thực
tập và tập sự lãnh đạo.
Thứ tư, triển khai xây dựng các đề án về: chiến lược quốc gia về nhân
tài và Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; cơ chế đảng
viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ, đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng; tiếp tục thực hiện tinh giảm biên chế gắn
với việc mở rộng thực hiện chủ trương khoán chi phí hành chính, khoán
quỹ lương trong các cơ quan hành chính [18, tr.279].

25


×