Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảng bộ thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.46 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế làng nghề ở Việt Nam đã ra đời và tồn tại lâu đời trong lịch
sử và là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Trải qua những
thăng trầm của lịch sử, có lúc phát triển thuận lợi hoặc khó khăn, song
kinh tế làng nghề đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế
nói chung và thay đổi diện mạo các làng nghề nói riêng. Trong suốt chiều
dài lịch sử các triều đại phong kiến đã quan tâm và tạo điều kiện cho
nhiều làng nghề phát triển, cung cấp hàng hoá, dịch vụ không những cho
thị trường trong nước mà còn cung cấp cho thị trường quốc tế. Sự tồn tại
và phát triển của các làng nghề đã góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn nói
riêng và trong phạm vi cả nước nói chung. Kinh tế làng nghề không chỉ
góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển mà còn góp phần giữ gìn,
phát triển và lan tỏa những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc Việt
Nam, được giao thoa tiếp biến với văn hóa các nước trên thế giới.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, luôn được biết đến không
những là nơi đã sản sinh và lưu giữ những làn điệu dân ca quan họ đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại mà
còn là nơi có các làng nghề thủ công nổi tiếng. Vì vậy, tỉnh Bắc Ninh còn được
người xưa gọi với danh xưng là vùng đất trăm nghề. Từ năm 2004 tỉnh Bắc
Ninh chính thức trở thành một trong tám tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc lại là địa phương giáp với thủ đô Hà Nội. Đây là một lợi thế to lớn để
kinh tế tỉnh Bắc Ninh phát triển, đặc biệt là sự phát triển của các làng nghề
truyền thống. Trong những năm gần đây, tỉnh Bắc Ninh đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, định hình vị thế mới trong nền kinh tế
đất nước nhất là điểm sáng về phát triển công nghiệp, tỉnh Bắc Ninh đang

3



chuyển mình mạnh mẽ với những bước đi dài về CNH, HĐH phấn đấu trở
thành một trong những tỉnh đầu tiên trong cả nước là tỉnh công nghiệp. Cùng
với sự phát triển của ngành công nghiệp là sự khôi phục và phát triển các làng
nghề (bao gồm làng nghề truyền thống và làng nghề mới) trên địa bàn tỉnh.
Thị xã Từ Sơn là một địa phương có nhiều làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Theo thống kê, hiện hay trên địa bàn thị xã có 18
làng nghề trong đó có 9 làng nghề truyền thống. Mặt khác, thị xã Từ Sơn có
những thế mạnh riêng về điều kiện tự nhiên, xã hội để các làng nghề được
khôi phục và phát triển. Trong những năm (2008 - 2015), Đảng bộ thị xã đã
quán triệt chủ trương của trên và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo
phát triển kinh tế làng nghề. Vì vậy, các làng nghề trong địa bàn thị xã
những năm qua đã có sự phát triển nhanh và bền vững, góp phần không nhỏ
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thị xã và của tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển kinh tế các làng nghề của thị xã cũng còn nhiều
những hạn chế. Nhiều vấn đề mới nảy sinh hết sức phức tạp đòi hỏi phải có
các giải pháp tháo gỡ phù hợp và kịp thời.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Từ Sơn về phát triển kinh tế làng
nghề trong những năm (2008 - 2015), nhằm khẳng định thành công, hạn chế và đúc
kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh
đạo hiện nay và những năm tiếp theo là việc làm cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Với lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đảng bộ thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề từ năm 2008 đến năm
2015” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển các làng nghề là một trong những hướng đi quan trọng nhằm
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và góp phần thực hiện thắng lợi sự

4



nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Vì vậy, đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức, cá nhân. Cho đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau
được phân thành các nhóm sau:
* Nhóm công trình đề cập đến làng nghề trên phạm vi cả nước
Mai Thế Hởn (1999), “Tình hình phát triển làng nghề ở một số nước
châu Á và kinh nghiệm cần quan tâm đối với Việt Nam”, Tạp chí Những vấn
đề kinh tế thế giới, tháng 6[42]; Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công
truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội[73]. Tác giả đã giới thiệu
về lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết nghề, thủ
pháp nghệ thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ công truyền
thống Việt Nam;
Ngoài ra, còn một số tài liệu như: Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đình Phan
(2005), “Phát triển cụm công nghiệp làng nghề trong quá trình hội nhập”, Tạp
chí Khu công nghiệp Việt Nam, số 2[53]; Hoàng Hải, Nguyễn Hữu Thắng
(2006), “Phát triển làng nghề nông thôn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 7[38]; Đoàn Tất Thắng
(2005), “Phát triển làng nghề, giải quyết việc làm ở nông thôn”, Tạp chí
Thương mại, số 44[61]; Trương Minh Hằng (2006), “Làng nghề truyền thống
với việc bảo tồn các giá trị văn hóa nghề”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 4[39]; Dương Thị Minh (2007), “Làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng
với việc giữ gìn phát huy giá trị văn hóa dân tộc”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 6[49]. Các bài viết trên tập trung nghiên cứu phát triển làng nghề trong mối
quan hệ với bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc dân tộc, giải quyết việc làm,
phát triển du lịch gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
Hoàng Đức Nhuận - Nguyễn Hải Yến - Hoàng Lan Anh (2009), Hỏi đáp
về làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội[51].
Cuốn sách góp phần tìm hiểu lịch sử và những giá trị của các làng nghề


5


truyền thống mà các thế hệ người Việt Nam đã dày công vun đắp;
Nguyễn Hữu Thắng (2010), Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề thủ công nhằm đẩy mạnh xuất khấu hàng thủ công mỹ nghệ trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Ngoại
thương[62]. Luận án đã đánh giá, làm rõ thực trạng sản xuất và xuất khấu
hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua, đề xuất chính sách, giải pháp
phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh hàng thủ công
mỹ nghệ xuất khẩu;
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiến (2012), “Phát triển làng nghề theo hướng bền
vững ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới”, Tạp chí Phát
triển và hội nhập, số 4[40]. Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp
và phân tích những đóng góp của làng nghề đối với kinhh tế - xã hội bên
cạnh đó làm rõ những thách thức và đưa ra những giải pháp nhằm phát triển
làng nghề bền vững;
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa (2012), Tổng
tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội[72]. Bộ sách gồm 6 tập, cung cấp nhiều thông tin về nghề và làng nghề
dân gian Việt Nam.
* Nhóm công trình đề cập đến làng nghề của các vùng,
miền và địa phương.
Phạm Minh Đức, Lê Thị Nghệ, Nguyễn Văn Thăng (2000), Nghiên cứu,
đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
nhằm nâng cao và đa dạng hóa thu nhập cho hộ gia đình ở khu vực nông thôn
đồng bằng sông Hồng, Báo cáo khoa học, Viện Kinh tế nông nghiệp, Hà Nội
[33]; Phạm Vân Đình, Đinh Văn Hiến, Nguyễn Phượng Lê (2000), Nghiên
cứu những vấn đề cần giải quyết trong phát triển làng nghề truyền thống ở
vùng đất cổ Kinh Bắc, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội[32];

Tiến sĩ Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển các làng nghề

6


trong quá trình CNH, HĐH, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội[55], Tác gíả đã đề
cập khá đầy đủ từ lý luận đến thực trạng của làng nghề: từ đặc điểm, khái
niệm, con đường và điều kiện hình thành làng nghề, tập trung vào một số làng
nghề ở một số tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội với các quan điểm, giải pháp
và phương hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH, HĐH;
Cùng với hướng này còn có cuốn sách của Tiến sĩ Mai Thế Hởn, Giáo sư,
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Hòa; Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Phúc (2003), Phát
triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,
Nxb CTQG, Hà Nội[43]; Đặc biệt phải kể đến đề tài: Nghiên cứu về quy
hoạch phát triển làng nghề thủ công theo hướng công nghiệp hóa nông thôn ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn hợp tác cùng với tổ chức JICA của Nhật Bản (2002)[6], đã điều tra
nghiên cứu tổng thể các vấn đề có liên quan đến làng nghề thủ công nước ta
về tình hình phân bố, điều kiện kinh tế - xã hội của làng nghề, nghiên cứu
đánh giá 12 mặt hàng thủ công của làng nghề Việt Nam (về nguyên liệu, thị
trường, công nghệ, lao động...). Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống
Nông nghiệp (CASRAD), Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam
(PHANO) và Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp (IRD) về Nghiên cứu quá trình
đô thị hóa và phát triển công nghiệp nông thôn ở Việt Nam, từ năm 2003 đã
tiến hành nghiên cứu dự án: “Động lực phát triển của các làng nghề, công
nghiệp hóa và đô thị hóa ở các vùng nông thôn của đồng bằng sông Hồng”.
Dự án này nhằm nghiên cứu sự phát triển các hoạt động TTCN trong các làng
nghề ở vùng đồng bằng sông Hồng tìm ra giải pháp tốt để phát triển kinh tế và
giảm sự di dân từ nông thôn ra các thành phố lớn; Bộ Thương mại (2003),
Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các

làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ thời kỳ đến năm 2010[11]; Về đề tài khoa học:
Học viện Tài chính (2004), Hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi
phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vừng đồng bằng sông Hồng[37];

7


Lê Mạnh Hùng (2005), Định hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu
nhằm phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội[44];
Nguyễn Vãn Chiến (2005), “Làng nghề nước ta, những khó khăn, hạn chế
trong quá trình phát triển”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 5[14];
Hoàng Thế Anh (2005), “Vai trò chính quyền địa phương trong phát triển
kinh tế khu chuyên doanh gốm sứ Phong Khê (Trung Quốc) và Bát Tràng (Việt
Nam)”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 6[2]; Đỗ Quang Dũng (2006),
Phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn ở Hà Tây, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh[35]. Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng từ đó xác
định rõ những mặt tích cực, hạn chế trong việc phát triển làng nghề ở tỉnh Hà
Tây. Đề xuất những giải pháp phù hợp dưới góc độ quản lý nhà nước nhằm
phát triển làng nghề ở tỉnh Hà Tây gắn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp;
Vũ Trường Giang (2006), “Phát huy những lợi thế truyền thống trong xây
dựng thương hiệu làng nghề ở đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, số 15[36]; Nguyễn Vĩnh Thanh (2007), “Phát triển
thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 4[64]. Các bài viết này tập trung nghiên cứu các nhân
tô ảnh hưởng và từng giải pháp cụ thể để phát triển làng nghề;
Mai Thanh Cúc (2007), “Mô hình kinh tế - tổ chức sản xuất làng nghề ở
Hà Tây”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 1[19]; Hoàng Mai, Phú Túc (2007),
“Bài học về sự phát triển của một làng nghề”, Tạp chí Xưa và Nay, số 293[48];

Các công trình nghiên cứu với kết luận hết sức quan trọng, mang tính lý luận và
thực tiễn cao về thực trạng phát triển sản xuất trong các làng nghề truyền thống
cổ truyền. Đó là một bức tranh tổng thể về những nghề thủ công nổi tiếng xuất
hiện từ lâu đời cho đến ngày nay, góp phần cho thế hệ sau nhìn nhận đầy đủ về
các nghề thủ công ở Việt Nam;

8


Liên Minh (2007), “Bảo tồn và phát triển làng nghề, Thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 293[50]; Thái Quang (2007), “Khôi phục và
phát triển làng nghề Việt Nam”, Tạp chí Con số và Sự kiện, số 5[56]; Đào Thế
Anh, Nguyễn Ngọc Mai (2007), “Giải pháp để phát triển làng nghề ở đồng
bằng sông Hồng”, Tạp chí Xưa và Nay, số 293[1]. Các công trình cũng đã tập
trung làm rõ vai trò của làng nghề đối với quá trình phát triển đất nước, vùng
đồng bằng sông Hồng và các làng nghề truyền thống trong cả nước; Nguyễn
Thị Lịch (2008), Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo khôi phục và phát triển làng
nghề tiểu thủ công nghiệp từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn thạc sĩ Lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại học Quốc gia, Trung tâm Đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị[46]. Các tác giả đã đi sâu phân tích thực
trạng làng nghề về lao động, tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm,
kĩ thuật công nghệ, môi trường và đề xuất các phương hướng, giải pháp để
thúc đẩy làng nghề phát triển theo hướng CNH, HĐH;
Vũ Quốc Tuấn (2011), Làng nghề trong công cuộc phát triển đất nước,
Nxb Tri thức, Hà Nội[70]. Cuốn sách gồm những bài chọn lọc trong nhiều bài
viết, chuyên đề đã đăng báo hoặc phát biểu tại các cuộc hội thảo trong thời
gian gần đây của tác giả về làng nghề cùng những bài viết có liên quan về đổi
mới thể chế kinh tế, cải cách hành chính... là những điều kiện không thể thiếu
để bảo tồn và phát triển làng nghề. Những bài viết trong tập này có thể còn
chưa đủ sâu sắc, chưa toàn diện, song đó là những nhận thức, giải pháp tâm

huyết của tác giả về làng nghề sau nhiều năm nghiên cứu, khảo sát tại nhiều
làng nghề trong cả nước và qua tiếp thu nhiều ý kiến có giá trị của những
chuyên gia, nhà quản lý có kinh nghiệm cùng những nghệ nhân mà tác giả
được may mắn tiếp xúc.
* Nhóm công trình nghiên cứu về làng nghề của các địa phương tỉnh
Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn.
Nguyền Hữu Hoàn (2007), “Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề ở
tỉnh Bắc Ninh”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 10[41]; Trần Văn Thanh (2010),

9


Thực trạng phát triển, và những tác động kinh tế, xã hội, môi trường của các làng
nghề ở Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Địa lý, Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên[65]; Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính
sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân
[17]. Luận án đã phân tích làm rõ chính sách của Nhà nước thúc đẩy phát triển
làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2003, những kết quả, nguyên
nhân hạn chế của chính sách, qua đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển làng nghề của tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian tới. Trần Văn Chăm (2006), Tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh[12];
Hội thảo khoa học: “Các chính sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở Bắc
Ninh” được tổ chức vào ngày 18/03/2011 tại Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn tỉnh Bắc Ninh, hội thảo làm rõ các tác nhân khác nhau về các giải
pháp, chính sách đồng thời nêu ra những định hướng nghiên cứu tiếp theo trong
việc bảo tồn, phát triển làng nghề và công nghiệp nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh
trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Ngô Thị Phương Thanh (2012), Nghiên cứu phát triển làng nghề trên địa

bàn thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội[63]; Nguyễn Thị Minh Lý (2016), Sự phát triển của kinh
tế tiểu thủ công nghiệp làng Đồng Kỵ, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến năm
2015, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội[47]. Các
công trình trên đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng tồn tại từ đó đề xuất
các giải pháp, chính sách có hiệu quả để phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh nói chung và thị xã Từ Sơn nói riêng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều trình bày những vấn đề
có liên quan đến làng nghề. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy
đủ, toàn diện dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Vì vậy, đây là “ khoảng

10


trống” khoa học để tôi quyết định lựa chọn, vấn đề Đảng bộ thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề từ năm 2008 đến năm
2015 làm đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài là công trình nghiên cứu mới,
độc lập của tác giả, không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã
được công bố. Các công trình khoa học nêu trên là tư liệu tham khảo quý
trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ thị xã Từ Sơn lãnh đạo phát triển kinh tế
làng nghề từ năm 2008 đến năm 2015; đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị
vận dụng trong lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề thời gian tới
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế làng nghề trên địa
bàn Từ Sơn từ năm 2008 đến năm 2015.
Phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo phát triển kinh tế làng nghề
của Đảng bộ thị xã Từ Sơn từ năm 2008 đến năm 2015.

Nhận xét và đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ thị xã Từ
Sơn lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Từ Sơn về phát triển kinh tế
làng nghề từ năm 2008 đến năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thị xã Từ
Sơn về phát triển kinh tế làng nghề.
Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2015. Tuy nhiên, để vấn đề nghiên
cứu có tính hệ thống tác giả có sử dụng một số tư liệu có liên quan trước năm
2008 và sau năm 2015. Năm 2008 Từ Sơn được thành lập thị xã vì vậy tác giả
11


chọn mốc từ năm 2008 - 2015 làm giới hạn
Về không gian: Các làng nghề trên địa bàn thị xã Từ Sơn.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận, thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế và Nghị quyết của Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh về phát triển kinh tế làng nghề.
Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa vào kết quả nghiên cứu thực trạng và kết
quả quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế làng nghề của Đảng bộ thị xã Từ Sơn
từ năm 2008 đến năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học Lịch
sử Đảng cộng sản Việt Nam, chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic
và kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp
khác: so sánh, đồng đại, lịch đại, thống kê và phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ thị xã
Từ Sơn về phát triển kinh tế làng nghề từ năm 2008 đến năm 2015. Làm sáng
tỏ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ thị xã trong phát triển kinh tế làng nghề,
qua đó góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ thị xã về phát triển
làng nghề nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng, rút ra kinh nghiệm để vận
dụng vào trong những năm tiếp theo.
Làm tài liệu để tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập các chuyên
đề về Lịch sử Đảng nói chung và Lịch sử Đảng bộ địa phương nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

12


13


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THỊ XÃ TỪ
SƠN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ (2008 - 2015)
1.1.

Làng nghề và những yếu tố tác động đến

phát triển kinh tế làng nghề ở thị xã Từ Sơn (2008 2015)
1.1.1. Một số vấn đề về làng nghề
* Khái niệm về làng nghề
Đã có những công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề của các nhà

kinh tế, văn hoá, sử học với những quan niệm khác nhau về làng nghề.
Ở làng nghề, mặc dù vẫn có các hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng
trọt, chăn nuôi...) nhưng đã nổi trội một nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng
lớp thợ thủ công có cơ cấu tổ chức, có quy trình công nghệ nhất định, chuyên
tâm làm nghề, sống chủ yếu được bằng nghề đó với những sản phẩm thủ công
mỹ nghệ mang tính hàng hoá.
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ
các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền
thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo
kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng Tổ
nghề, và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và
gia tộc. sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ
trẻ giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình
lịch sử hình thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay
trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền thống của họ[73, tr.13].
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng: Làng nghề là làng tuy vẫn có trồng
trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ song đã nổi trội một nghề cổ truyền,
tinh xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp có
phường, có ông trùm, ông phó cả… Cùng một số thợ và phó nhỏ đã chuyên

14


tâm, với quy trình công nghệ nhất định sinh ư nghệ, tử ư nghệ (nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh) sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ
công, những mặt hàng có tính mỹ nghệ, đã trở thành hàng hoá và có quan hệ
tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh. Những làng ấy ít nhiều đã nổi
danh từ lâu, trở thành di sản văn hoá dân gian[13, tr.32].
Theo Dương Bá Phượng, làng nghề là làng ở nông thôn có một (hoặc
một số) nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc

lập[55, tr.47]. Bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái quát: làng nghề là những
làng sống bằng hoặc chủ yếu nghề thủ công ở nông thôn Việt Nam[45, tr.14].
Như vậy, quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất của làng nghề cũng
như sự phân công lao động trong các làng nghề đã làm xuất hiện các ngành
nghề dịch vụ đi kèm, từ đó đã xuất hiện các làng nghề buôn bán dịch vụ. Tuy
nhiên, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng được gọi là làng nghề.
Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động của ngành nghề phi nông
nghiệp đạt đến một quy mô nào đó và mang tính ổn định. Vì vậy, khái niệm
làng nghề phải thể hiện được cả định tính và định lượng.
Từ những quan niệm trên đây, làng nghề và làng nghề truyền thống có
thể được hiểu như sau:
Làng nghề là làng ở nông thôn trên địa bàn một xã (phường), có các
hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp (bao gồm các ngành TTCN và dịch vụ)
kinh doanh độc lập và đạt tới một tỉ lệ nhất về lao động làm nghề cũng như thu
nhập từ nghề so với tổng số lao động và thu nhập của làng.
Làng nghề truyền thống là làng có nghề cổ truyền, tinh xảo, được hình
thành từ lâu đời, tồn tại và phát triển đến ngày nay. Trong làng có các nghệ
nhân và các gia đình chuyên làm nghề, có cùng Tổ nghề, với những sản phẩm

15


mang tính mỹ nghệ, độc đáo, đã trở thành hàng hoá mang đậm nét văn hoá
đặc sắc địa phương.
* Khái niệm kinh tế làng nghề
Cùng với sự phát triển của làng nghề là sự phát triển của kinh tế
làng nghề. Kinh tế làng nghề phát triển cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lúc đầu, kinh tế làng nghề
ra đời chỉ đóng vai trò là nghề phụ, phục vụ cho phát triển nông nghiệp và
tiêu dùng của chính hộ gia đình sản xuất nghề. Về sau, khi phân công lao

động xã hội phát triển, kinh tế hàng hoá phát triển, thì kinh tế làng nghề
cũng được phát triển theo. Lúc này, sản xuất nghề không chỉ là nghề phụ mà
ở nhiều làng đã trở thành nghề chính, thu hút đại đa số lao động trong làng
và đem lại thu nhập chủ yếu cho dân cư trong làng. Cùng với đó, các hoạt
động dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế làng nghề cũng phát triển theo.
Theo nghĩa rộng kinh tế làng nghề là một đơn vị kinh tế trong nền
kinh tế quốc gia, là bộ phận của kinh tế nông thôn, theo nghĩa hẹp là sự phân
tích, đánh giá về hoạt động của các đơn vị kinh tế nghề trong các làng nghề.
Một số nhà lý luận cho rằng kinh tế làng nghề gồm phạm trù kinh tế
và phạm trù làng nghề như kinh tế nông nghiệp, kinh tế hộ, kinh tế trang
trại…kinh tế làng nghề là sự vận dụng các chỉ tiêu luận chứng để xem xét,
đánh giá làng nghề, trong đó xem xét mức độ và hiệu quả sử dụng các nguồn
lực đầu vào của các loại hình kinh tế trong làng nghề.
Từ những quan niệm trên và kết quả khảo cứu của đề tài luận văn, có
thể hiểu về khái niệm kinh tế làng nghề như sau: Kinh tế làng nghề là một
bộ phận của nền kinh tế quốc dân, phát triển gắn liền với sự phát triển
của làng nghề, sử dụng các nguồn lực trong và ngoài làng để sản xuất,
kinh doanh dịch vụ, tạo thu nhập chủ yếu cho người làm nghề.
* Khái niệm phát triển kinh tế làng nghề

16


Dưới góc độ kinh tế chính trị, phát triển kinh tế làng nghề bao gồm
cả phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong phát triển lực
lượng sản xuất ở các làng nghề thì phát triển công cụ sản xuất dựa trên
trình độ khoa học công nghệ hiện đại là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, làm thay đổi năng suất, chất lượng sản phẩm làng nghề. Cùng với
áp dụng công nghệ tiên tiến phải đổi mới, nâng cao công nghệ truyền
thống, giữ gìn bí quyết công nghệ làng nghề.

Cùng với phát triển lực lượng sản xuất là quá trình hoàn thiện quan
hệ sản xuất trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Trong
đó thực hiện nhiều hình thức sở hữu, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể dưới
nhiều hình thức; từng bước liên doanh liên kết hình thành sở hữu hợp
tác, nhất là hợp tác xã làng nghề. Đổi mới tổ chức quản lý kinh tế làng
nghề cả ở tầm vĩ mô và vi mô sao cho phù hợp với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm kinh tế làng nghề. Thực hiện
đa dạng hoá các hình thức phân phối, đảm bảo lợi ích chính đáng cho
chủ sở hữu và người lao động.
Chủ thể tham gia phát triển kinh tế làng nghề liên quan đến nhiều
đối tượng: hỗ trợ của Nhà nước, chính quyền địa phương, của nước ngoài;
sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của làng và từng hộ gia đình, người lao
động... Trong đó, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của làng và từng hộ gia
đình, người lao động là nhân tố quyết định.
Để phát triển kinh tế làng nghề đòi hỏi phải có những điều kiện tiền
đề nhất định, trong đó nhận thức đúng đắn của người dân, đặc biệt là của
cán bộ lãnh đạo, chính quyền các cấp, các ngành luôn là yếu tố quan trọng
trước tiên. Bởi vì, nhận thức bao giờ cũng là cơ sở của hoạt động thực
tiễn, có nhận thức đúng mới tích cực chủ động khai thác tiềm năng thế
mạnh của mình, tìm cách khắc phục khó khăn để mở mang ngành nghề
truyền thống, du nhập nghề mới vào địa phương. Thực tiễn đã chứng

17


minh, ở đâu nhân dân, cán bộ nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của
kinh tế làng nghề, tiềm năng thế mạnh của địa phương, chủ động tích cực
tìm kiếm ngành nghề, tìm kiếm thị trường, giải quyết những vấn đề vướng
mắc, nảy sinh thì kinh tế làng nghề được phát triển. Ngược lại, ở đâu cán
bộ và nhân dân thờ ơ với phát triển kinh tế làng nghề thì làng nghề không

những không phát triển mà còn bị mai một.
Từ những cơ sở khoa học trên, có thể hiểu về phát triển kinh tế làng
nghề là: Phát triển kinh tế làng nghề là tổng thể các biện pháp thúc đẩy
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kinh tế làng nghề phát triển,
nhằm mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế các làng
nghề.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Từ Sơn tác động
đến sự phát triển kinh tế làng nghề
* Điều kiện tự nhiên
Huyện Từ Sơn được thành lập năm 1999, trên cơ sở tách huyện Tiên
Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn. Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính
phủ ban hành nghị định thành lập thị xã Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ
sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Từ Sơn. Từ Sơn nằm trong
vùng châu thổ sông Hồng, ở phía Nam tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Từ Sơn gồm 7
phường và 5 xã). Diện tích tự nhiên là 61,3 km 2 đứng thứ tám và mật độ dân
số cao nhất trong toàn tỉnh. Theo số liệu thống kê đến năm 2008, dân số có đến
31 tháng 12 là 133.209 người, mật độ dân số là 2.172 người/km2. Từ Sơn là cửa
ngõ phía Bắc và cách thủ đô Hà Nội 18 Km. Trên địa bàn có Quốc lộ 1A, 1B và
tuyến đường sắt chạy qua. Những tuyến đường này đều là huyết mạch giao
thông quan trọng từ Hà Nội lên biên giới Lạng Sơn, biên giới Quảng Ninh. Nằm
dọc theo hai bên Quốc lộ 1A có các làng chuyên sản xuất thép (Châu Khê, Trịnh
Xá), đồ gỗ nội thất (Đồng Kỵ, Hương Mạc, Phù Khê).

18


Về địa giới hành chính: phía Bắc giáp huyện Yên Phong, với dòng sông
Ngũ Huyện Khê làm ranh giới; phía Đông giáp huyện Tiên Du; phía Tây giáp
huyện Đông Anh (Hà Nội); Phía Nam giáp quận Gia Lâm (Hà Nội). thị xã Từ
Sơn có vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao thông vận tải phục vụ cho phát triển

kinh tế nói chung và vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm của các làng nghề
nói riêng. Nhìn chung, địa hình thuận lợi như vậy rất tốt cho các làng nghề ở Từ
Sơn thuận tiện tiếp cận với các thị trường trong nước, trong khu vực và thị trường
quốc tế[71, tr.2].
Thị xã Từ Sơn có địa hình bằng phẳng. Cấu tạo địa tầng chủ yếu là đất
sét pha có cường độ chịu lực khá và ổn định, đáp ứng nhu cầu xây dựng các
công trình. Các xã có làng nghề như Đồng Quang, Phù Khê, Hương Mạc,
Châu Khê…thì diện tích đất có hạn nên chủ yếu sử dụng làm mặt bằng sản
xuất làm nghề, đất sản xuất nông nghiệp rất ít. Do nằm trong vùng đồng
bằng sông Hồng nên khí hậu thời tiết của Từ Sơn mang đặc điểm chung của
khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với hai mùa rõ rệt. Mùa khô lạnh bắt
đầu từ tháng 11 năm trước kết thúc vào tháng 4 năm sau, mùa mưa nóng
bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Ngoài ra ở Từ Sơn vào các tháng mùa Hạ
còn bị ảnh hưởng của gió bão kèm theo mưa lớn kéo dài nhiều ngày gây
ngập úng cho một số vùng trũng của thị xã, gây không ít khó khăn cho sản
xuất và đời sống của dân cư. Vào mùa Đông đôi khi có sương muối xuất
hiện làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. các làng nghề và ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt các sản phẩm mộc mỹ nghệ. Từ Sơn
không có các sông lớn chảy qua, chỉ có sông Ngũ Huyện Khê chảy qua,
rộng từ 100 - 150m với lưu lượng nước vừa phải và nhiều sông nhỏ, kênh
rạch đáp ứng đủ nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và sản xuất của các
làng nghề.
* Điều kiện kinh tế - xã hội

19


Dân số và tỷ lệ gia tăng dân số ở thị xã Từ Sơn tăng nhanh, khác với
tình hình phát triển dân số nước ta quy mô dân số tăng trong khi tỷ lệ gia tăng
tự nhiên có xu hướng giảm. Với đặc điểm dân số như trên, Từ Sơn có nguồn

lao động dồi dào, tăng nhanh, dân số trong độ tuổi lao động là 79.746 người
chiếm 60,8% trong tổng số dân, là thế mạnh trong quá trình phát triển kinh tế
cũng như phát triển sản xuất kinh doanh các làng nghề. Tuy nhiên, với quy
mô và tỷ lệ gia tăng dân số nhanh sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế,
xã hội và môi trường.
Năm 2008, tỷ lệ thị dân của Từ Sơn là 26,4%, tỷ lệ dân số sống ở nông
thôn chiếm phần lớn tỷ lệ 73,6%[20, tr.2]. Đây là nguồn lao động dồi dào
cung cấp cho hoạt động sản xuất của các làng nghề, nhưng cũng là sức ép lớn
đến giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn.
Chất lượng nguồn nhân lực của Từ Sơn vẫn còn thấp, dân số chưa qua
đào tạo nghề là 88199 người chiếm 84,7%, dân số qua đào tạo nghề sơ cấp là
2373 người chiếm 2,3%, dân số qua đào tạo nghề trung cấp và trung học
chuyên nghiệp là 6030 người chiếm 5,8%, còn dân số qua cao đẳng nghề, cao
đẳng, đại học và trên đại học là 7545 người chiếm 7,2% trong tổng số. Như
vậy, tổng số dân được đào tạo ở tất cả các trình độ mới chỉ chiếm 15,3%, điều
này phản ánh đa số lao động ở Từ Sơn phù hợp với các công việc đòi hỏi về
sức khoẻ là chính. Vì vậy, Từ Sơn vừa phải lựa chọn phát triển các ngành
nghề sử dụng nhiều lao động, đồng thời phải xây dựng chiến lược đào tạo,
nâng cao trình độ cho người lao động. Đây cũng là đặc điểm chung của các
đơn vị hành chính trong tỉnh Bắc Ninh.
Miền đất Kinh Bắc xưa là vùng đất địa linh nhân kiệt, có nền văn hóa
phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa nghệ
thuật đặc sắc. Theo thống kê hiện nay, toàn thị xã hiện có gần 200 di tích lịch
sử văn hóa, trong đó có 80 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, cấp tỉnh, cùng
hàng trăm tài liệu và hiện vật, cổ vật có giá trị khai thác nhằm phát huy truyền

20


thống và phát triển du lịch. Tiêu biểu như : cụm di tích lịch sử văn hóa Đền

Đô, nơi thờ 8 vị vua triều Lý, được xếp hạng cấp Quốc gia, đình làng Đình
Bảng, đình chùa Đồng Kỵ, chùa Tiêu - Tương Giang, đền Đầm…Ngoài ra,
trên địa bàn thị xã còn có một hệ thống các nhà tưởng niệm như: Nhà tưởng
niệm cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ ở xã Phù Khê. Khu lưu niệm đồng chí
Ngô Gia Tự ở xã Tam Sơn. Nhà cụ Đám Thi (phường Đình Bảng) là nơi năm
1945 Thường vụ Trung ương Đảng họp và đề ra chỉ thị quan trọng “Nhật,
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đó là mệnh lệnh đặc biệt quan
trọng để Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến tới Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành công, năm 1979 ngôi nhà đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá.
Trong tương lai không xa, Từ Sơn sẽ quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn
tạo và phát huy giá trị các khu di tích gắn với phát triển du lịch. Gắn liền với
các cụm di tích, các nhà tưởng niệm trên, các di tích lịch sử văn hoá trên địa
bàn thị xã là 49 lễ hội truyền thống, nơi hội tụ các sinh hoạt văn hoá tiêu biểu
của nhân dân, phản ánh khá rõ nét con người, truyền thống, phong tục, tập
quán mà thông qua đó bày tỏ lời cảm ơn đối với trời, đất, thần, nước, người
có công với làng, với đất nước và cầu mong có được cuộc sống ấm no, hạnh
phúc được các địa phương trong thị xã tổ chức, bắt đầu từ hội rước pháo
Đồng Kỵ vào ngày 4 tháng Giêng âm lịch tiếp đến là lễ hội các thôn làng vào
dịp đầu xuân và các tháng trong năm.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tình hình kinh tế - xã hội của thị xã
Từ Sơn cũng như nhiều địa phương khác trong tỉnh, hạn chế lớn nhất là nguồn
lao động ở khu vực nông thôn chất lượng chưa cao, trình độ văn hóa và
chuyên môn thấp. Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm là chủ yếu, lực lượng lao động chủ yếu được hướng dẫn, đào tạo tại
chỗ, truyền nghề theo kinh nghiệm, lớp nghệ nhân lão thành ngày càng ít đi.

21


Thực tế đó gây không ít khó khăn cho việc phục hồi và lưu giữ những bí

quyết và kỹ thuật tinh xảo của các làng nghề ở Từ Sơn.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Từ Sơn đã tác động
không nhỏ tới việc phát triển kinh tế nói chung và phát triển làng nghề nói
riêng về cả mặt tích cực và hạn chế. Do đó, đòi hỏi Đảng bộ thị xã Từ Sơn
cần phải có chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng để phát huy những thế
mạnh, khắc phục những mặt hạn chế của thị xã, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển làng nghề nhanh và bền vững.
1.1.2. Thực trạng làng nghề của thị xã Từ Sơn trước năm 2008
* Ưu điểm và nguyên nhân
Từ Sơn là trung tâm công nghiệp và là điểm sáng về phát triển công
nghiệp của tỉnh Bắc Ninh, làng nghề ở Từ Sơn cũng như ở Bắc Ninh đã tồn
tại và phát triển lâu dài trong lịch sử. Cũng như làng nghề nước ta nói chung,
làng nghề tỉnh Bắc Ninh nói riêng, làng nghề ở Từ Sơn cũng biến động thăng
trầm cùng với lịch sử đất nước. Qua các tài liệu và phỏng vấn các đồng chí
cán bộ chủ chốt ở các xã phường trên địa bàn nghiên cứu, tác giả đã có cái
nhìn khái quát về sự hình thành và phát triển làng nghề ở Từ Sơn. Làng nghề
ở Từ Sơn bao gồm làng nghề truyền thống và làng nghề mới (theo tiêu chí của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
Một là, các làng nghề được quan tâm khôi phục và phát triển khá ổn định
Các làng nghề khác trong tỉnh và làng nghề ở Từ Sơn nói chung rơi vào
hoàn cảnh hết sức khó khăn, chỉ sau khi đất nước đổi mới chuyển sang kinh tế
thị trường, khuyến khích các tổ chức, các thành phần kinh tế tự do phát triển
thì các làng nghề ở Từ Sơn đã có sự hồi phục và phát triển mạnh mẽ. Các làng
nghề đã đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá nông thôn
Từ Sơn. Các làng nghề ở Từ Sơn đều hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, trong đó 11 làng nghề đang phát triển tốt, 7 làng nghề phát triển trung
bình, không có làng nghề nào kém phát triển cần phải khôi phục. Những năm

22



trước 2000 tình hình kinh tế - xã hội của Từ Sơn sút giảm, đã có tác động
không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề, sản xuất kinh
doanh phải cắt giảm, lao động không có việc làm, sức tiêu thụ trên thị trường
giảm sút. Tuy nhiên, đến giữa năm 2005 hoạt động sản xuất kinh doanh của
các làng nghề đã sôi động trở lại. Khung cảnh tấp nập tại các làng nghề người
đi làm, người đi mua nguyên liệu, khách thăm quan mua hàng, những chiếc ô
tô tải ở các tỉnh nối đuôi nhau vào nhập hàng, tiếng máy cưa, may bào, máy
đánh bóng, máy cán thép…
Hai là, quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ không ngừng được mở rộng
Xu hướng hiện nay ở các làng nghề Từ Sơn các hộ sản xuất kinh doanh
mặc dù vẫn còn một tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp nhất định, song các hộ đã
thoát ly khỏi đồng ruộng và tập trung chủ yếu vào nghề sản xuất kinh doanh.
Về thị trường tiêu thụ các sản phẩm làng nghề ở Từ Sơn có sự thay đổi. Trước
đây, thời bao cấp một số sản phẩm bị hạn chế sản xuất do nhà nước nắm giữ,
chỉ có các sản phẩm dệt là có đầu ra ổn định do nằm trong hợp tác xã. Các sản
phẩm phục vụ nhu cầu trong nước.
Từ sau đổi mới cùng với những thay đổi trong sản xuất kinh doanh của
các làng nghề thì sản phẩm của các làng nghề Từ Sơn đã tạo được thị trường
tiêu thụ khá rộng lớn, chất lượng các sản phẩm làng nghề từng bước được
nâng cao, tuỳ theo nhóm sản phẩm mà thị trường có sự khác nhau. Nhóm sản
phẩm gỗ mỹ nghệ đã tạo lập được thị trường tiêu thụ rộng lớn cả trong và
ngoài nước, sản phẩm được xuất khẩu đi các thị trường Trung Quốc, Nhật
Bản, thị trường các nước châu Âu, Bắc Mỹ. Sản phẩm sắt thép được tiêu thụ
chủ yếu ở thị trường trong nước và thị trường Lào, các sản phẩm còn lại chủ
yếu đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và địa phương.
Ba là, sản xuất gắn với bảo vệ môi trường được quan tâm đúng mức
Thời gian trước khi thành lập thị xã Từ Sơn tại các làng nghề cũng đã
chú ý tới vấn đề môi trường trong quá trình sản xuất. Các cơ sở sản xuất trong


23


các CCN được thuê với diện tích khá lớn so với diện tích tại các làng nghề,
trong các CCN đã quy hoạch phân lô, làm đường giao thông, hệ thống cấp
thoát nước, phân phối điện, nơi tập kết chất thải. Nên nhìn chung ở các CCN
tình hình môi trường đã được cải thiện và hạn chế được mức độ ô nhiễm so
với tại các làng nghề, hoạt động của các làng nghề đã đi vào ổn định. Trong
thập niên đầu thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ các làng nghề ở Từ Sơn đã
có những tác động tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất xã hội
trên địa bàn. Song bên cạnh đó, sự phát triển này cũng đã nảy sinh những vấn
đề cần quan tâm giải quyết ngay.
Nguyên nhân ưu điểm
Việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên và sự quan
tâm chỉ đạo của Thị ủy, UBND thị xã làm cho kinh tế làng nghề tăng trưởng
mạnh, phát triển các CCN, nghề truyền thống được duy trì phát triển, đã nhân
cấy thêm nhiều làng nghề mới. Sự phát triển tập trung của các làng nghề là cơ
sở cho việc hình thành các tiểu vùng nghề trong tương lai, nhất là khi phần
lớn các làng nghề ở đây đã phát triển vượt ra khỏi phạm vi làng để trở thành
các xã nghề.
Từ năm 2000 - 2005, nhờ có một loạt chính sách ưu tiên phát triển
ngành nghề và khôi phục các làng nghề của huyện Từ Sơn, một số làng nghề
đã có sự phát triển vượt bậc. Các công ty, doanh nghiệp tư nhân đã có vai trò
đáng kể trong việc tham gia tiêu thụ sản phẩm làng nghề, trong khi vai trò của
các hợp tác xã và doanh nghiệp Nhà nước còn chưa rõ ràng.
* Hạn chế và nguyên nhân
Làng nghề ở thị xã Từ Sơn có sự phát triển khá nhanh và đóng góp nhất
định vào sự nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Bắc Ninh,
nhưng vẫn còn biểu hiện một số hạn chế sau:
Thứ nhất, sự tăng trưởng, phát triển của các làng nghề và CCN làng

nghề chưa có cơ sở vững chắc, chưa bền vững

24


Sự phát triển của các làng nghề đã góp phần quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế các địa phương ở Từ Sơn theo hướng công nghiệp hoá.
Tuy nhiên, cũng như các sản phẩm công nghiệp, các sản phẩm làng nghề chịu
tác động mạnh mẽ của những biến động trên thị trường cả trong và ngoài nước.
Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm cho các
làng nghề, CCN làng nghề rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhiều cơ sở thua
lỗ dẫn tới phá sản, sản xuất đình trệ, sản phẩm tồn đọng không tiêu thụ được…
đã làm cho kinh tế khó khăn, tăng trưởng chậm lại. Nếu không được sự hỗ trợ
kịp thời của Nhà nước về vốn, thị trường tiêu thụ thì các cơ sở sản xuất tại các
làng nghề đã sụp đổ thành những mảng lớn.
Thứ hai, công tác bảo đảm an toàn trong sản xuất chưa được
quan tâm đúng mức
Thời điểm từ năm 2000 đến cuối năm 2007, việc giáo dục về an toàn lao
động ở các làng nghề Từ Sơn rất hạn chế, tình trạng xảy ra tai nạn lao động đáng
báo động ở các làng nghề sắt thép. Do tính chất công việc làm việc trong môi
trường nặng nhọc, độc hại với các trang thiết bị máy móc và nguyên nhiên liêu,
sản phẩm có khối lượng lớn, rất dễ xảy ra tai nạn lao động, theo thống kê không
chính thức hàng năm ở Châu Khê xảy ra hàng chục vụ tai nạn lao động, có một số
vụ dẫn đến tử vong. Khi xảy ra tai nạn lao động người lao động bị thiệt thòi rất lớn
do không được ký hợp đồng lao động, không được đóng bảo hiểm.
Thứ ba, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng
Sức khoẻ và tuổi thọ của người dân ở các làng nghề: Bệnh tật gia tăng,
tuổi thọ người dân suy giảm, theo các kết quả đến hết năm 2005 nghiên cứu
cho thấy, tuổi thọ trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm
đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn quốc và so với các làng

không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp hơn 5 đến 10 năm. Tại làng nghề
Châu Khê tỷ lệ người mắc các bệnh liên quan đến ô nhiễm rất cao. Trên 60%
dân cư trong vùng có các triệu chứng bệnh liên quan đến thần kinh, hô hấp,
25


bệnh ngoài da, điếc. Một điểm đáng lưu ý là tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm người
tham gia sản xuất và không tham gia sản xuất là tương đương [10, tr.4]. Theo
số liệu thống kê của trạm y tế Châu Khê có 40% số người đến khám bị mắc
các chứng ngạt mũi, giảm nghe, khô, đau họng, khản giọng, hơn 40% mắc các
bệnh về da, 5% mắc các bệnh về mắt. Việc định lượng trong nghiên cứu tìm
hiểu về vấn đề môi trường các làng nghề ở Từ Sơn hết sức khó khăn. Trong
đề tài, tác giả tìm hiểu về vấn đề này theo định tính, và sử dụng các kết quả
nghiên cứu phân tích môi trường làng nghề của các ban ngành. Những tác
động về môi trường làng nghề có thể cảm nhận bằng quan sát trực tiếp và
phỏng vấn những người lao động tại các làng nghề.
Thứ tư, chưa chú trọng đúng mức đến công tác đào tạo và nâng cao
tay nghề công tác cho người lao động
Trong trước những năm 2008 ở các làng nghề do nhu cầu mở rộng sản
xuất, diện tích đất nông nghiệp vốn đã hạn hẹp ngày càng bị thu nhỏ do chuyển
đổi mục đích sử dụng đất. Trong quá trình này các lao động làm nông nghiệp
đã không được sử dụng hết, bởi vì các doanh nghiệp không tuyển dụng những
lao động trên 35 tuổi chưa qua bồi dưỡng, đào tạo nghề, như vậy sẽ làm “thừa
ra” một tỷ lệ lao động không có việc làm và cũng rất ít cơ hội được đào tạo và
học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp, dẫn tới lãng phí sức lao động.
Nguyên nhân hạn chế
Chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, khả
năng, trình độ quản lí của các doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất còn hạn chế.
Nhiều làng nghề đã đầu tư vào máy móc thiết bị sản xuất như: Làng Đa Hội, đầu
tư hơn 700 máy móc thiết bị công nghệ mới cho sản xuất; Làng Đồng Kỵ, Phù

Khê đầu tư cho hơn 400 máy đục, trạm, khắc… Nhưng nhìn chung tốc độ còn
chậm, địa bàn còn chưa được mở rộng, chủng loại mẫu mã còn chưa phong phú,
đa dạng, nhiều mặt hàng còn đơn điệu, chất lượng còn chưa cao, công nghệ thiết
bị còn lạc hậu chủ yếu là thủ công, nên giá trị sản phẩm thấp.

26


Thị trường tiêu thụ thì còn gặp nhiều khó khăn, thông tin kinh tế còn
nhiều bất cập. Sản phẩm làm ra nhiều nhưng thị trường tiêu thụ quá hẹp.
Công việc tiếp thị còn yếu kém, chưa đủ khả năng mở rộng thị trường.
Tuy các làng nghề có sự phát triển nhưng sự phát triển chưa thực sự
vững chắc, công nghệ còn nhiều lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp. Việc xây
dựng các khu, CCN - làng nghề còn chậm.
1.1.3. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh về phát triển kinh tế làng nghề trong thời kỳ mới
* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội X (2006) của Đảng với mục tiêu:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển phấn đấu đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Trước những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn về phát triển làng nghề Đảng chỉ rõ mục tiêu: “Phát triển các
khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung,
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành
nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao [29, tr89].
Về phát triển hình thức tổ chức kinh doanh trong các làng nghề cần:
“phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và

vừa; phát triển bền vững các làng nghề. Tạo mọi thuận lợi cho kinh tế hộ phát
triển.” [29, tr194].
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu:
Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu
nhập; khuyến khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao

27


×