Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảng bộ tỉnh bắc ninh lãnh đạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.84 KB, 106 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành
Chính trị quốc gia
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cụm công nghiệp
Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)
Hội đồng nhân dân
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
BCH
CTQG
CNH, HĐH
CCN
ĐTNN
FDI
HĐND
KCN
KT - XH
UBND


MỤC LỤC
Trang
3



MỞ ĐẦU

Chương 1: CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BẮC NINH VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (2005 - 2010)

10

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ
tỉnh Bắc Ninh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(2005 - 2010)
1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (2005 - 2010)

10
28

Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (2011 - 2015)

40

2.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (2011 - 2015)
2.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo đẩy mạnh thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (2011 - 2015)
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (2005 - 2015)
3.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh
đạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (2005 - 2015)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

40
52
69
69
82
97
99
107


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một thuật ngữ xuất hiện vào cuối
thế kỷ XIX và được sử dụng phổ biến trong vài thập niên gần đây. Với tư cách
là một hình thức quan trọng và chủ yếu của ĐTNN, FDI được hiểu là việc nhà
đầu tư ở một nước đưa vốn (tiền hoặc tài sản) vào quốc gia khác để được
quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó với mục tiêu tăng cao các lợi ích của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
có vai trò quan trọng trong bổ sung nguồn vốn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường
quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách nhà nước,

phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm. Đến những năm 90 của
thế kỷ XX, FDI đã trở thành một xu thế mạnh mẽ, mở ra cơ hội lớn cho nhiều
nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Nhận thức sâu
sắc tính tất yếu khách quan về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
nói chung, thu hút ĐTNN nói riêng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) chủ trương công bố chính sách ĐTNN vào Việt Nam dưới nhiều
hình thức. Đầu tháng 12 năm 1987, lần đầu tiên Luật Đầu tư nước ngoài của
Việt Nam được công bố với nhiều chính sách ưu đãi. Đó là cơ sở pháp lý quan
trọng để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, đồng thời
ĐTNN nhất là FDI cũng từng bước khẳng định vị trí, vai trò đối với sự phát
triển KT - XH trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương.
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có nhiều
lợi thế về điều kiện tự nhiên - xã hội để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Sau khi tái lập Tỉnh, đặc biệt là những năm đầu của thế kỷ XXI, dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, FDI vào Tỉnh phát triển nhanh về số lượng
và mang lại hiệu quả KT - XH cao, đưa Bắc Ninh trở thành điểm sáng và là
một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về thu hút FDI. Tuy nhiên, quá trình
thu hút FDI ở tỉnh Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, môi trường đầu tư
chậm được cải thiện, còn những yếu tố bất lợi và chưa theo kịp sự biến đổi
3


nhanh chóng của thực tiễn; tình trạng đầu tư nhỏ lẻ và thiếu vững chắc chưa
được khắc phục triệt để.... Những hạn chế đó đã gây nên những tác động tiêu
cực, tạo ra trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển nhanh và bền vững của
tỉnh Bắc Ninh. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu đối với Đảng bộ tỉnh cần tiếp
tục đổi mới, kịp thời ban hành những chủ trương, chính sách mới để hoàn
thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ những rào cản về cơ chế, chính sách, thủ tục
hành chính, xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, củng cố niềm tin cho các
nhà ĐTNN, tạo điều kiện để khu vực FDI ngày càng phát triển, đóng góp

nhiều hơn đối với quá trình phát triển KT - XH của địa phương.
Vì vậy, nghiên cứu thực tiễn quá trình lãnh đạo thu hút FDI của Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh trong những năm 2005 - 2015 là việc làm cần thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Do đó, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh lãnh đạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2005 đến
năm 2015” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của thu hút FDI với quá trình phát triển
KT - XH của cả nước và các địa phương nên đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này ở phạm vi, góc độ khác nhau.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thu hút FDI trên phạm vi cả nước
Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội; Lê Bộ Lĩnh (2002),
Nguyễn Trần Quế, Đào Việt Hưng, Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - Kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà
Nội; Tống Quốc Đạt (2005), Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành
kinh tế ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh;
Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế
ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Lê Xuân Bá (2006), Tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội; Nguyễn Đức Bình - Nguyễn Thường Lạng (2006), Những vấn
4


đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm
Trung Quốc và thực tiễn Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội; Nguyễn
Thị Việt Hoa (2006), Xu hướng tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cơ hội
và thách thức đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luận
án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội; Trần Thị Minh Châu

(2007), Về chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội;
Đinh Văn Ân - Nguyễn Tuệ Anh (2008), Thực hiện đầu tư trực tiếp nước
ngoài sau khi gia nhập WTO, kết quả điều tra 140 doanh nghiệp, Nxb Lao
động, Hà Nội; Đỗ Hoàng Long (2008), Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối
với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh
tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Thị Ái Liên (2011), Môi
trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Thị
Thìn (2011), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Trần Thị Tuyết Lan (2014), Đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
Các công trình trên đây đều khẳng định vị trí, vai trò của FDI đối với sự
phát triển KT - XH và tính tất yếu khách quan của việc thu hút FDI ở Việt
Nam. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã luận giải sâu sắc cơ sở
lý luận, thực tiễn, thực trạng và tác động của FDI đối với nền kinh tế Việt
Nam trong hơn 30 năm qua. Vì vậy, đây là nguồn tài liệu quý, trực tiếp cung
cấp cho tác giả những tiền đề lý luận và cơ sở thực tiễn đúng đắn trong nhận
thức về FDI ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, giúp tác giả phát triển tư duy
hệ thống, toàn diện và biện chứng trong quá trình nghiên cứu Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh lãnh đạo thu hút FDI trong những năm 2005 - 2015.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thu hút FDI ở các địa phương
Lê Thị Hương Quê (2008), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nghệ An,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Thị Ngọc
5


Mai (2010), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Thị Nga (2011), Những tác động

trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đời sống kinh tế - xã hội ở Đồng
Nai hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội; Đặng Xuân
Thùy (2011), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp ở
Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn
Quang Tạo (2013), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển
kinh tế - xã hội ở Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hà
Nội; Nguyễn Thanh Tuấn (2014), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tỉnh Ninh
Bình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội; Nguyễn
Thị Thu Huyền (2014), Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo công tác thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ năm 1997 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội; Lê Hồng Nhung (2014), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ năm 2001 đến năm 2013, Luận văn
thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội; Phạm Văn Thắng (2014), Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ năm 2001 đến năm
2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình trên đây khẳng định tính tất yếu khách quan của việc thu
hút FDI trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương. Đồng thời, đã đề
cập một số nội dung trong chủ trương, chính sách của đảng bộ, chính quyền
các địa phương về thu hút FDI trong công cuộc đổi mới. Nhìn nhận khá sâu
sắc và toàn diện về thực trạng và tác động của FDI ở các địa phương trong cả
nước hiện nay. Các tài liệu trên đã phản ánh hoạt động lãnh đạo của các đảng
bộ ở các địa phương về thu hút FDI, đây là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ
ích đối với tác giả, nhất là trong so sánh, đánh giá về chủ trương, chính sách
thu hút FDI của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh với các đảng bộ ở các địa phương
khác trong cả nước.
6



* Nhóm công trình nghiên cứu về thu hút FDI ở tỉnh Bắc Ninh
Phạm Duyên Minh (2009), Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
ở Bắc Ninh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội;
Đinh Văn Hùng (2011), Thu hút và thúc đẩy phát triển đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Nông nhiệp
I, Hà Nội; Trần Thị Ninh Hà (2013), Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại
học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên; Khổng Văn
Thắng (2013), “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Bắc Ninh”, Tạp
chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 2 (tr.28 - 34); Khổng Văn Thắng, Trịnh Bích
Toàn (2013), “Cải cách hành chính động lực thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại tỉnh Bắc Ninh”, Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, Số 27
(tr.111 - 116); Khổng Văn Thắng (2016), “Thu hút đầu tư nước ngoài của tỉnh
Bắc Ninh tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế”, Tạp
chí Thu hút đầu tư nước ngoài, Số 2 (tr.9 - 15); Khổng Văn Thắng (2017),
“Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế tỉnh Bắc Ninh”,
Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 1 (tr.100 - 107).
Các công trình trên đã làm rõ quá trình phát triển của FDI trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh. Các công trình chủ yếu đề cập đến thực trạng phát triển và
những tác động của FDI đối với sự phát triển KT - XH của Tỉnh. Trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp để đẩy mạnh thu hút FDI trên địa bàn Tỉnh trong
những năm tiếp theo. Mặc dù chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về thu hút FDI nhưng các
công trình trên là nguồn tài liệu quý, trực tiếp cung cấp cho tác giả những số
liệu thực tiễn sinh động và phong phú về thực trạng thu hút FDI của tỉnh Bắc
Ninh trong những năm qua.
Trong hơn 30 năm đổi mới, FDI đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều học giả thuộc nhiều ngành khoa học và dưới nhiều cấp độ khác
nhau. Bằng cơ sở lý luận và thực tiễn các công trình đã khẳng định vị trí, vai
trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và tính tất yếu của việc

7


đẩy mạnh thu hút FDI trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, các công trình đã đề xuất nhiều giải pháp về thu hút FDI trên
phạm vi cả nước cũng như ở một số địa phương. Tuy nhiên, xét một cách tổng
thể, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện và hệ thống về chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh trong thu hút FDI. Do đó, đề tài: “Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh
đạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2005 đến năm 2015” là một
công trình nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu
về FDI đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh về thu hút FDI trong những năm 2005 - 2015; đúc rút một số kinh
nghiệm từ quá trình lãnh đạo thu hút FDI của Đảng bộ tỉnh để vận dụng trong
thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo thu hút FDI của
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 đến năm 2015.
Phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về
thu hút FDI trong những năm 2005 - 2015.
Đánh giá ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo thu hút FDI giai đoạn
2005 - 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về thu hút FDI từ năm
2005 đến năm 2015.

* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh trong thu hút FDI.
8


Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền và xuất khẩu tư
bản, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động thu hút FDI của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh được thể
hiện trong các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Tỉnh ủy; các quyết định, đề án,
báo cáo tổng kết của UBND Tỉnh và các sở, ban, ngành có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ
yếu. Đồng thời kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về thu hút FDI
trong những năm 2005 - 2015.
Luận văn là một nguồn tư liệu để các cấp ủy Đảng, chính quyền và các
tổ chức chính trị - xã hội ở Bắc Ninh có thể tham khảo, nghiên cứu, vận dụng
trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thu hút FDI một cách tích cực, chủ
động và hiệu quả trong thời gian tiếp theo.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho lĩnh vực thu hút

FDI ở các địa phương khác.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn kết cấu gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH
VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (2005 - 2010)

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (2005 - 2010)
1.1.1. Những yếu tố tác động đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
tỉnh Bắc Ninh (2005 - 2010)
* Vị trí, vai trò của FDI đối với sự phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Ninh
Quan niệm về FDI:
Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ nghiên cứu khác nhau nên khi bàn
về FDI đã có rất nhiều quan niệm, định nghĩa được đưa ra, phổ biến và thông
dụng hơn cả là định nghĩa của các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế.
Theo quan niệm của Quỹ Tiền tệ thế giới (International Moneytary Fund IMF): FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác
(nước nhận đầu tư), không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi
đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp [16, tr.235].
Tại Việt Nam, Luật Đầu tư ban hành năm 1996 đưa ra khái niệm FDI
như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật Đầu tư tại Việt Nam” [49, tr.1].
Mặc dù Luật Đầu tư 2005 và Luật Đầu tư 2014 không đưa ra khái niệm
về FDI, tuy nhiên theo tinh thần của các luật này có thể hiểu: FDI là hình thức

do nhà ĐTNN bỏ vốn đầu tư và tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở Việt
Nam theo quy định của luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Vị trí, vai trò của FDI đối với sự phát triển KT - XH tỉnh Bắc Ninh:
Thực tiễn quá trình đổi mới đất nước cũng như quá trình phát triển KT XH của tỉnh Bắc Ninh sau khi tái lập cho thấy, kinh tế có vốn ĐTNN nói
chung, FDI nói riêng có vị trí, vai trò rất quan trọng, cụ thể như sau:
Một là, FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
10


Bắc Ninh vốn là một tỉnh thuần nông mới được tái lập, một trong
những vấn đề khó khăn nhất cho phát triển KT - XH là thiếu vốn đầu tư.
Trong điều kiện tích lũy nội bộ còn hạn chế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là
bước đi được coi là hiệu quả nhất đối với tỉnh Bắc Ninh. Thực chất của việc
làm này là tranh thủ ngoại lực để phát huy nội lực, đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế. Thông qua thu hút và sử dụng hiệu quả FDI sẽ thúc đẩy các ngành
kinh tế trên địa tỉnh Bắc Ninh phát triển nhanh hơn.
Hai là, FDI góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách
Việc thu hút và sử dụng FDI trước hết có vai trò thúc đẩy hoạt động sản
xuất, kinh doanh và tạo thu nhập. Bản thân sự hiện diện của các doanh nghiệp
FDI với tư cách là các chủ thể sản xuất - kinh doanh lớn cũng tạo nguồn thu
lớn cho ngân sách Tỉnh thông qua các loại thuế như: thuế thu nhập doanh
nghiệp, tài nguyên, giá trị gia tăng.... Đồng thời, với hiệu ứng lan tỏa, FDI
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế khác từ đó làm tăng
nguồn thu cho ngân sách Tỉnh.
Ba là, FDI góp phần mở rộng thị trường, nâng cao kim ngạch xuất khẩu
đồng thời thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Tỉnh.
Khu vực FDI phát triển, Bắc Ninh có điều kiện thuận lợi để gắn kết quá
trình sản xuất của Tỉnh với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế. Đối
tác đầu tư thường là những công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới
chi nhánh toàn cầu. Do vậy, từ thu hút FDI Bắc Ninh sẽ tiếp cận và mở rộng

thị trường xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu đồng thời thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương.
Bốn là, FDI góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH
Xu thế của FDI vào các địa phương cấp tỉnh ở các nước đang phát triển
là tập trung vào công nghiệp chế biến. Ở Bắc Ninh, FDI đã thúc đẩy công
nghiệp phát triển nhanh chóng, vượt trội so với các ngành nông nghiệp và
dịch vụ, chiếm tỷ trọng cao trong GRDP của Tỉnh. Đồng thời, công nghiệp
phát triển đã kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ và giảm tỷ trọng
11


của ngành nông nghiệp trong GRDP của Tỉnh, góp phần quan trọng vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Năm là, FDI góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
Tìm kiếm lĩnh vực và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là
mục đích của các nhà ĐTNN, do đó để thu hút FDI, Bắc Ninh buộc phải tăng
cường huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - kỹ thuật: giao thông, điện, nước, các khu, CCN... Bên cạnh đó, bản
thân FDI cũng tham gia đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật, đặc biệt là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong các khu, CCN.
Sáu là, FDI góp phần chuyển giao công nghệ theo hướng hiện đại, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Phần lớn các doanh nghiệp FDI có trình độ khoa học và công nghệ khá
hiện đại, có đội ngũ chuyên gia quản lý tốt, giàu kinh nghiệm với mô hình
quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại. Do đó, thu hút FDI vừa là
quá trình tiếp thu, sử dụng công nghệ hiện đại của thế giới vừa thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước đổi mới mô hình, phương thức quản lý hiện đại. Các
doanh nghiệp FDI góp phần tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người
lao động. Đồng thời, chính hoạt động của các doanh nghiệp FDI cũng tạo ra

“áp lực” buộc đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động phải nâng cao năng
lực và trình độ chuyên môn trong sản xuất, kinh doanh.
* Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến thu hút FDI ở tỉnh Bắc Ninh
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng, thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây
Nam giáp Thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh
Hải Dương. Trong quy hoạch, Bắc Ninh thuộc vùng Thủ đô, cách trung tâm Hà
Nội 30km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 45km, cách cảng biển Hải Phòng và
cảng biển Quảng Ninh 110 km, cách cửa khẩu Lạng Sơn - Trung Quốc 115km.
Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà
12


Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với vị trí địa kinh tế thuận lợi, Bắc Ninh có sức
cuốn hút lớn đối với các nhà đầu tư trong đó có các nhà ĐTNN.
Địa hình của tỉnh Bắc Ninh khá bằng phẳng, phần lớn là đồng bằng
chiếm tới 99,47% diện tích tự nhiên, địa hình trung du đồi núi chiếm tỷ lệ rất
nhỏ khoảng 0,53% diện tích tự nhiên toàn Tỉnh. Đây là điều kiện thuận lợi để
phát triển giao thông, một trong những yếu tố quan trọng cho phát triển KT XH nói chung và thu hút FDI nói riêng.
Về khoáng sản: Bắc Ninh là tỉnh không giàu về tài nguyên khoáng sản
và cũng ít tài nguyên rừng, tập trung chủ yếu là vật liệu xây dựng như: đất sét,
cát xây dựng và than bùn. Đây không phải yếu tố lợi thế của Bắc Ninh so với
các tỉnh khác trong khu vực, điều này đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải có chủ
trương và giải pháp thích hợp để thu hút các nhà ĐTNN.
Các yếu tố trên tạo ra lợi thế so sánh cho Bắc Ninh trong quá trình CNH,
HĐH nói chung và thu hút FDI nói riêng. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố
không thuận lợi mà Tỉnh phải khắc phục để thu hút nhiều hơn các nhà ĐTNN.
Điều kiện kinh tế - xã hội

Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính: thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn
và 6 huyện: Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình và Lương
Tài. Tổng cộng Bắc Ninh có 126 xã, phường và thị trấn. Bắc Ninh là tỉnh có
điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ thuật để thu hút FDI.
Lợi thế nổi bật của tỉnh Bắc Ninh để thu hút FDI là có hệ thống giao thông
khá hoàn chỉnh với mạng lưới giao thông bao gồm cả đường sắt, đường bộ, đường
thủy đã được hình thành từ lâu. Hơn nữa, Bắc Ninh là cửa ngõ của Thủ đô Hà
Nội, nằm trong khu vực tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh nên được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển các tuyến đường huyết
mạch: Quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn; Quốc lộ 18 nối sân bay
Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; Quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải Dương Hải Phòng và tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn. Có mạng đường
thủy sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình nối Bắc Ninh với hệ thống cảng sông
và cảng biển của vùng. Hệ thống các tuyến đường trong nội tỉnh được nâng cấp và
13


xây dựng mới đã góp phần tích cực vào việc mở rộng thông thương, khai thác
tiềm năng của Tỉnh, rút ngắn “khoảng cách” giữa Bắc Ninh với các tỉnh trong
vùng, giữa thành thị và nông thôn. Theo số liệu thống kê năm 2004, mạng lưới
giao thông đường bộ toàn Tỉnh là 4.549 km, mật độ đường 5,529km/km 2 [15,
tr.23]. Với hệ thống giao thông đa dạng, đang tiếp tục được nâng cấp, Bắc Ninh có
nhiều thuận lợi trong phát triển KT - XH nói chung và thu hút FDI nói riêng.
Về dân số: Tỉnh Bắc Ninh có nguồn nhân lực khá dồi dào. Theo số liệu
thống kê năm 2005, dân số toàn Tỉnh khoảng 991.091 người, mật độ dân số
đông khoảng 1.200 người/km2, số người trong độ tuổi lao động khoảng
563.219 người, chiếm trên 60% [15, tr.61]. Trung bình mỗi năm số người bước
vào độ tuổi lao động tăng từ 10 nghìn đến 15 nghìn người. Với quy mô dân số
và tỷ lệ lao động như trên, Bắc Ninh có nhiều tiềm năng phục vụ sự phát triển
KT - XH. Đặc biệt, trình độ dân trí Bắc Ninh khá cao, lao động có trình độ
trung học cơ sở đạt 45,5% (cao hơn mức bình quân cả nước 12,93%); lao động

có trình độ trung học phổ thông đạt 20,9% (cao hơn mức bình quân cả nước
0,9%); tỷ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và
trên đại học từ 6,3% đến 10%; có 55.780 lao động đã đào tạo nghề, tỷ lệ lao
động qua đào tạo ngày càng cao từ 21,6% (2001) lên 28% (2005). Như vậy,
Bắc Ninh là tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào, với truyền thống hiếu học và khoa
bảng, người lao động Bắc Ninh có khả năng tiếp nhận nhanh các công nghệ
hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi để hình thành một
đội ngũ lao động có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển rộng khắp, có khả năng cung
cấp những dịch vụ viễn thông, dịch vụ chuyển phát nhanh sang quốc tế và
trong nước với nhiều hình thức khác nhau đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư.
Nguồn điện được cung cấp đầy đủ cho quá trình CNH, HĐH trực tiếp
qua mạng lưới điện quốc gia (tuyến Đông Anh - Phả Lại). Có nguồn nước dồi
dào từ các sông và dưới lòng đất, nhiều nhà máy nước đã và đang đầu tư xây
dựng đảm bảo nước cho phát triển công nghiệp, đặc biệt tại các KCN, CCN
và các đô thị trong Tỉnh.
14


Hệ thống ngân hàng nhà nước và ngân hàng liên doanh có chi nhánh ở Bắc
Ninh đều có các dịch vụ ngân hàng thuận tiện như: Ngân hàng Thương mại, Ngân
hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…Nhiều
hãng bảo hiểm nổi tiếng như AIA, Prudentials, Bảo Việt, Bảo Minh… và nhiều
công ty tư vấn cũng có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Bắc Ninh.
Như vậy, với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, cơ sở hạ
tầng từng bước được cải tạo, nâng cấp đồng bộ, Bắc Ninh sẽ có nhiều tiềm
năng, lợi thế để thu hút ĐTNN, góp phần thúc đẩy KT - XH phát triển.
* Thực trạng lãnh đạo thu hút FDI của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh trước năm 2005
Quán triệt đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng, nhận thức
đúng vị trí, vai trò của FDI đối với sự phát triển KT - XH, ngay sau khi tái lập,

Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã chủ động đề ra những quyết sách để thu hút FDI. Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV (10/1997) xác định 6 mục tiêu,
nhiệm vụ lớn trong phát triển KT - XH, trong đó khẳng định: “Khai thác các
nguồn lực của các thành phần kinh tế, vận dụng các chính sách khuyến khích thu
hút vốn đầu tư trong nước, nước ngoài” [17, tr.22]. Đồng thời: “Phát triển hình
thức liên doanh, liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với kinh tế
hợp tác, kinh tế tư bản, tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài” [17, tr.23].
Quá trình tổ chức thực hiện, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh đã thường xuyên
đưa ra các chỉ đạo kiên quyết, kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển và thực tiễn
của địa phương. Do đó, hoạt động thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã
được triển khai tích cực và thu được một số kết quả quan trọng:
Về số lượng dự án và vốn đầu tư: Từ 1997 - 2000, là ba năm đầu hoạt động
thu hút FDI của Bắc Ninh, đúng vào thời điểm suy thoái của dòng vốn FDI vào
các nước đang phát triển, song Bắc Ninh có được ba tập đoàn lớn đầu tư là:
Nippon Sheet Glass - Nhật Bản, ValBoc (Jersey) - Anh và Airliquide - Pháp (Dự
án kính nổi Việt - Nhật; Dự án khí công nghiệp Bắc Việt Nam) với tổng vốn đăng
ký 142,5 triệu USD, số vốn thực hiện là 142,7 triệu USD [15, tr.148]. So với các
tỉnh lân cận, số lượng dự án FDI của Bắc Ninh là rất khiêm tốn (Hưng Yên: 5 dự
án, Vĩnh Phúc: 12 dự án, Hải Dương: 18 dự án, Bắc Giang: 31 dự án). Từ 2001 15


2004, Bắc Ninh thu hút được thêm 7 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký 19,6 triệu
USD, số vốn thực hiện 17,3 triệu USD [15, tr.148]; tuy nhiên số lượng dự án đó
vẫn ít hơn rất nhiều so với Bắc Giang (136 dự án), Vĩnh Phúc (57 dự án), Hải
Dương (32 dự án).
Về quy mô vốn đầu tư: Vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong
những năm 1997 - 2000 đạt 47,5 triệu USD/dự án (Riêng tập đoàn Nippon
Sheet Glass - Nhật Bản, vốn đầu tư đăng ký 126.000.000 USD). Giai đoạn
2001 - 2004, vốn đầu tư trung bình đạt 2,47 triệu USD/dự án [15, tr.148].
Điểm nổi bật trong thu hút FDI là nhiều dự án triển khai có hiệu quả đã tăng

vốn đăng ký, mở rộng quy mô sản xuất. Vốn bình quân của các dự án tăng
thêm cũng cao hơn nhiều so với các dự án cấp mới.
Khu vực FDI đã góp phần duy trì và đóng góp ngày càng lớn vào tăng
trưởng kinh tế của Tỉnh. Năm 1997, đóng góp của khu vực FDI mới chỉ dừng
lại ở mức khiêm tốn 0,3 tỷ đồng (chiếm 0,01% GRDP Tỉnh); đến năm 2000
đóng góp 205,7 tỷ đồng (chiếm 6,11% GRDP Tỉnh); năm 2004 đóng góp
351,6 tỷ đồng (chiếm 5,11% tổng GRDP toàn Tỉnh) [15, tr.109].
Khu vực FDI là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Tỉnh theo hướng hiện đại. Năm 1997, cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh mang
đặc thù nông nghiệp: Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 45,05%, công nghiệp
- xây dựng 23,77% và dịch vụ 31,18%; năm 2004 tỉ lệ tương ứng là (28,22% 44,69% - 27,09%) [15, tr.105]. Giá trị sản xuất khu vực FDI tăng nhanh qua
các năm: Năm 1997 mới chỉ đạt 0,7 tỷ đồng (chiếm 0.02% giá trị sản xuất của
Tỉnh); năm 2000 đạt 601,5 tỷ đồng (chiếm 9,02%); năm 2004 đạt 1.031,2 tỷ
đồng (chiếm 5,98%) [15, tr.90].
Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Bắc Ninh chủ yếu là do khu vực FDI
đóng góp. Giai đoạn 2001 - 2004, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI đạt 18,1
triệu USD, chiếm 9,33% kim ngạch xuất khẩu của cả Tỉnh. Tỷ lệ kim ngạch
xuất khẩu của khu vực FDI trong kim ngạch xuất khẩu của cả Tỉnh đã tăng
với tốc độ cao từ 0,26% (2001) lên 21,54% (2004) [15, tr.391].
16


Các dự án đầu tư FDI thu hút và tạo công ăn việc làm ổn định, năm 1997,
số lao động làm việc trong khu vực FDI mới chỉ chiếm 0,04% tổng số lao động
toàn Tỉnh. Trong những năm tiếp theo tỷ lệ này ngày càng tăng: các năm 1998 2002 là 0,1%; đến năm 2003 là 0,9%; năm 2004 là 0,8% [15, tr.69].
Khu vực FDI đã tác động lan tỏa đến các khu vực kinh tế và các lĩnh
vực của đời sống xã hội một cách rõ nét, đã khơi dậy các nguồn lực đầu tư,
thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, đồng thời thúc đẩy phát triển
nhanh các ngành dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin, tư vấn, vận tải,...
Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động lãnh đạo thu hút FDI của Đảng

bộ tỉnh trước năm 2005 còn nhiều bất cập, hạn chế cả trong hoạch định chủ
trương, chính sách và tổ chức thực hiện. Chưa có nhiều chủ trương, giải pháp
tạo bước đột phá về thu hút FDI, quá trình chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt,
mạnh mẽ. Quá trình tổ chức triển khai và thực hiện còn nhiều vướng mắc dẫn
đến hiệu quả hoạt động thu hút FDI còn thấp.
Thu hút FDI vào các ngành, lĩnh vực và theo địa bàn, khu vực còn mất
cân đối. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế
tạo chiếm tỷ trọng lớn, trong đó ngành công nghiệp điện tử chiếm tỷ trọng
chủ yếu. Tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
còn hạn chế, kết cấu hạ tầng xã hội còn rất thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập
trung tại địa bàn phía Bắc sông Đuống. Phía Nam sông Đuống, các huyện Gia
Bình, Thuận Thành và Lương Tài có số lượng dự án đầu tư không nhiều.
Các dự án FDI giai đoạn này vẫn chủ yếu là các dự án gia công, lắp
ráp, trình độ công nghệ còn lạc hậu, việc chuyển giao công nghệ hiện đại còn
hạn chế, chủ yếu là chuyển giao hàng dọc (từ công ty mẹ ở nước ngoài cho
công ty con ở Việt Nam), không có hoạt động chuyển giao công nghệ hàng
ngang (giữa khu vực ĐTNN và khu vực trong nước).
Đóng góp vào ngân sách chưa tương xứng với quy mô vốn đầu tư, suất
đầu tư cũng như diện tích chiếm đất. Một số dự án FDI hiệu quả đầu tư thấp, sử
dụng nhiều lao động phổ thông và chưa tạo ra giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ nội địa
hóa giá trị sản phẩm của một số doanh nghiệp FDI sản xuất còn thấp. Vấn đề
17


chấp hành chính sách pháp luật về đầu tư của một số chủ đầu tư còn nhiều hạn
chế: Đã xuất hiện tình trạng chuyển giá nhằm trốn thuế tại một số doanh nghiệp
ĐTNN, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Giải quyết vấn đề lao động, việc làm, đảm bảo an ninh trật tự trong khu
vực có vốn FDI còn nhiều hạn chế như tình trạng đình công, tranh chấp lao
động gây mất ổn định trật tự trong một số KCN; công tác tuyển dụng và cung

ứng lao động cho các chủ đầu tư còn gặp nhiều khó khăn; vấn đề chậm, nợ
lương, sa thải lao động, đóng bảo hiểm xã hội, y tế, chế độ thai sản… cho
người lao động của một số doanh nghiệp có vốn FDI chưa đúng quy định. Ý
thức chấp hành quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của một số chủ
đầu tư chưa cao. Một số chủ đầu tư chưa quan tâm và đầu tư thích đáng cho
công tác bảo vệ môi trường và ngăn chặn tác động xấu đến môi trường.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên là trong những năm 1997 2004, tốc độ phát triển KT - XH của Việt Nam nói chung, thu hút FDI nói riêng
chịu nhiều tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu bắt
đầu từ 1997 vẫn còn để lại những hậu quả chưa thể khắc phục. Hệ thống pháp
luật và cơ chế, chính sách về đầu tư nói chung và ĐTNN nói riêng còn nhiều bất
cập. Mặt khác, Bắc Ninh vốn là một tỉnh thuần nông, sau khi tái lập gặp rất
nhiều khó khăn: cơ sở hạ tầng yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà
đầu tư, trình độ lao động còn thấp, thiếu lao động có tay nghề và các chức danh
quản lý. Bên cạnh đó, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền và nhân dân về
FDI chưa thật đầy đủ và đúng đắn. Công tác giải phóng mặt bằng có nơi, có lúc
còn chậm đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư mới, các địa phương chưa phát
huy tính chủ động của mình. Công tác xúc tiến đầu tư chưa đa dạng, nguồn kinh
phí dành cho công tác xúc tiến đầu tư ít nên không đạt được kết quả như mong
đợi. Việc quảng bá hình ảnh của tỉnh Bắc Ninh nói chung và các KCN chưa
mạnh mẽ. Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về FDI còn mỏng,
nhất là cán bộ chuyên trách làm công tác vận động, xúc tiến thu hút ĐTNN.
Nhìn chung, trong những năm đầu mới tái lập, mặc dù đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, song hoạt động thu hút FDI của tỉnh Bắc Ninh còn
18


rất nhiều bất cập, yếu kém. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ, toàn
diện hơn nữa cả trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, trong tổ
chức thực hiện thu hút FDI của các cơ quan có liên quan và sự đồng tình, ủng
hộ của nhân dân, tạo động lực cho khu vực FDI phát triển, góp phần thúc đẩy

kinh tế địa phương phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ mới.
* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về thu hút FDI (2006 - 2010)
Bước vào thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành
xu thế tất yếu lôi cuốn tất cả các quốc gia tham gia với các mức độ khác nhau;
khoa học và công nghệ tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Những
yếu tố trên đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế nước ta.
Tháng 4/2001, Đại hội IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển
KT - XH 10 năm (2001 - 2010) với quyết tâm: Phải bằng sức mạnh tổng hợp
của đất nước, kết hợp các nguồn lực trong nước và ngoài nước, tập trung sức
phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Trên cơ sở đó Đại hội xác định:
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công
nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với
công nghệ hiện đại và tạo việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao [25, tr.289 - 290].
Chủ trương của Đảng về thu hút FDI giai đoạn 2006 - 2010 được thể
hiện đậm nét tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006). Từ
những đánh giá về thành tựu và hạn chế của việc thu hút FDI trong giai đoạn
2001- 2005, Đại hội khẳng định tầm quan trọng của nguồn lực từ bên ngoài:
“Ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực và
ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước” [27, tr.180].
Trên cơ sở phân tích những yêu cầu mới đặt ra, Đại hội đã đề ra chủ
trương: “Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất
19


khẩu, đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị

trường dịch vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý
tiên tiến..., nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế” [27, tr.181].
Từ đó, Đại hội xác định mục tiêu: “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng
vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế
giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả
nguồn FDI” [27, tr.204 - 205].
Để thực hiện được mục tiêu, phương hướng trên, Đại hội xác định
những nhiệm vụ cần tập trung giải quyết:
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính,
đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để khai
thác lợi thế của đất nước và khắc phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc
thu hút các nguồn vốn quốc tế, vốn FDI dưới nhiều hình thức, tín dụng
thương mại và các nguồn vốn quốc tế khác.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong
kinh doanh. Tạo điều kiện cho ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các
ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Thực hiện đa dạng hóa hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh
nguồn lực của các nhà ĐTNN, gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vào các
ngành, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhất là các lĩnh vực công
nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH.
Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ các hình
thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút
vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo lợi thế so sánh để thu hút
nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản
20



phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng,
số lượng và hiệu quả ĐTNN.
Đơn giản hóa thủ tục cấp phép đầu tư đối với ĐTNN; thu hẹp các lĩnh
vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng
lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐTNN đầu tư
phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế.
Thực hiện nhất quán chủ trương về phát triển kinh tế đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế, trong giai đoạn 2006 - 2010, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ngày càng đánh giá đúng tầm quan trọng của FDI và đã xác định những
quan điểm cụ thể định hướng cho việc thu hút FDI vào Việt Nam. Những
quan điểm, định hướng trên là cơ sở quan trọng, tạo tiền đề trực tiếp để Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo thu hút FDI đúng hướng và hiệu quả.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (2005 - 2010)
Nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của FDI với quá trình phát
triển KT - XH của địa phương, trong những năm 2005 - 2010, Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh đã ban hành nhiều chủ trương quan trọng về thu hút FDI. Những
chủ trương đó được thể hiện ở Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh lần thứ XVII (12/2005); Nghị quyết số 02 - NQ/TU ngày 29/5/2006 của
BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển
các KCN, CCN gắn với phát triển đô thị theo hướng hiện đại hóa; Kết luận số
65 - KL/TU ngày 10/12/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Định hướng và
các giải pháp phát triển các khu, CCN đến năm 2015.
* Quan điểm chỉ đạo
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII
(12/2005) nêu rõ:
Một là, khai thác triệt để các lợi thế so sánh, tiếp tục phát triển đồng bộ
các KCN, CCN, các khu đô thị - dân cư - dịch vụ tạo lập môi trường đầu tư

hấp dẫn, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi thu hút nhiều doanh
nghiệp nước ngoài vào đầu tư.
21


Là một tỉnh mới được tái lập nên các nguồn lực của tỉnh Bắc Ninh còn rất
hạn chế, nền tảng công nghiệp còn mỏng yếu. Muốn đẩy mạnh phát triển KT XH đòi hỏi phải có một nguồn lực rất lớn và ổn định, đặc biệt là nguồn vốn. Thực
hiện quan điểm trên sẽ cho phép tỉnh Bắc Ninh khai thác, phát huy tối đa các tiềm
năng, thế mạnh của địa phương về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để
phát triển KT - XH. Đồng thời, huy động được tiềm lực, khả năng của các thành
phần kinh tế, thu hút các nguồn vốn đầu tư nhất là FDI, tạo thành nguồn lực tổng
hợp thúc đẩy kinh tế của địa phương phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ chính sách thu hút ĐTNN theo hướng thông thoáng,
minh bạch, nâng cao chỉ số cạnh tranh, tạo sức hấp dẫn lớn với các nhà ĐTNN.
Sau khi được tái lập, với nhiều chủ trương, quyết sách được đưa ra, thu
hút ĐTNN nói chung, FDI nói riêng của Bắc Ninh đã từng bước phát triển.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm
năng, lợi thế của địa phương. Vì vậy, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ chính sách thu
hút ĐTNN, trọng tâm là cải cách hành chính, giảm bớt các khâu trung gian…
tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch sẽ là bước đột phá trong hấp
dẫn thu hút ĐTNN của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2005 - 2010.
Ba là, tạo chuyển biến căn bản trong thu hút đầu tư, ưu tiên thu hút các
dự án FDI có trình độ công nghệ cao, công nghệ sạch, mang lại nguồn thu
ngân sách cao, giải quyết nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Từ năm 1997 đến năm 2004, thu hút FDI của tỉnh Bắc Ninh đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, số lượng dự án đầu tư ở giai đoạn này
chưa nhiều, chủ yếu là dự án nhỏ, trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu,
việc chuyển giao công nghệ hiện đại còn hạn chế; đóng góp vào ngân sách
chưa tương xứng với quy mô vốn đầu tư, suất đầu tư cũng như diện tích sử
dụng đất. Do đó, quan điểm của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005 - 2010

là tạo chuyển biến căn bản trong thu hút FDI, kiên quyết không chạy theo số
lượng dự án, thành tích lấp đầy diện tích đất quy hoạch mà chú trọng đến hiệu
quả KT - XH và môi trường để phát triển nhanh nhưng phải bền vững.
22


* Mục tiêu, phương hướng
Cùng với những thành tựu to lớn của đất nước sau 20 năm đổi mới, với
những quyết sách đúng đắn, sau 5 năm (2001 - 2005): “Kinh tế - xã hội của tỉnh
Bắc Ninh đã đạt được những kết quả quan trọng, kinh tế duy trì tăng trưởng với
nhịp độ cao và phát triển tương đối toàn diện, hầu hết đều thực hiện vượt mức các
chỉ tiêu đề ra...” [19, tr.13]. Riêng năm 2005 đã cấp phép đầu tư cho 19 dự án FDI
với tổng vốn 132 triệu USD. Đã thu hút được một số nhà đầu tư lớn, thương hiệu
mạnh như: Tập đoàn Canon với 2 dự án nhà máy sản xuất máy in Laze vốn đăng
ký 130 triệu USD; Tập đoàn Mitac với dự án công nghệ cao 15 triệu USD. Đây là
động lực quan trọng để Đảng bộ và nhân dân địa phương kiên định với mục tiêu,
hướng đi đã xác định, đồng thời là cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách
trong giai đoạn tiếp theo sát đúng, hiệu quả hơn với yêu cầu của thời kỳ mới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII (12/2005) xác định mục
tiêu tổng quát đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015:
Khai thác và phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa phương, huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn
kết toàn dân, đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ
cao và bền vững hơn... Phấn đấu đến năm 2010, Bắc Ninh là tỉnh phát
triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
theo hướng hiện đại, tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong những
tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ [19, tr.39].
Từ nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát trên, Đại hội xác định phương hướng
thu hút FDI của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006 - 2010 như sau:
Tăng cường đầu tư xây dựng các KCN, CCN làng nghề hiện có… Chủ

động trong quy hoạch xây dựng hạ tầng, chuẩn bị mặt bằng để thu hút các nhà
đầu tư có uy tín phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, công
nghệ hiện đại...
Có chính sách kêu gọi thu hút ĐTNN, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, thông thoáng, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nâng cao năng lực
thẩm định, cấp phép đầu tư và dự án đầu tư đảm bảo sử dụng hiệu quả đất
công nghiệp, phát triển sản xuất và giảm thiểu mức ô nhiễm môi trường.
23


Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút ĐTNN. Ưu tiên phát triển các ngành
công nghệ cao, công nghiệp chế biến, cơ khí và công nghệ thông tin. Chú trọng
phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ nhất là nguyên liệu
từ nông lâm nghiệp, các ngành nghề truyền thống như gốm mỹ nghệ, chế biến
lương thực thực phẩm. Tăng cường thu hút ĐTNN sản xuất hàng xuất khẩu.
Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh, ngày 29/5/2006, BCH
Đảng bộ tỉnh đã ra Nghị quyết số 02 - NQ/TU về Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng
và phát triển các KCN, CCN gắn với phát triển đô thị theo hướng hiện đại
hóa. Nghị quyết khẳng định: “Khai thác triệt để các lợi thế so sánh, ..., đồng
thời tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi,
thu hút lựa chọn các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài có công nghệ tiên
tiến và đảm bảo vệ sinh môi trường” [65, tr.11 - 12].
Sau đó, ngày 10/12/2007, tại Kết luận số 65 - KL/TU của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về Định hướng và các giải pháp phát triển các khu, cụm công
nghiệp đến năm 2015, tiếp tục khẳng định: “Có chính sách ưu tiên để thu hút
các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, hiện đại, giá trị sản xuất và giá trị
xuất khẩu cao, thu nộp ngân sách lớn, giải quyết được nhiều lao động, suất
đầu tư trên đơn vị diện tích cao và đảm bảo môi trường sinh thái” [65, tr.272].
Với những phương hướng, mục tiêu đã xác định, giai đoạn 2005 - 2010
sẽ là bước tăng tốc quan trọng trong chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh

Bắc Ninh, trong đó thu hút FDI sẽ là khâu đột phá để thúc đẩy tăng trưởng
nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
* Nhiệm vụ, giải pháp
Từ những yêu cầu đối với quá trình phát triển KT - XH nói chung và
thực tiễn thu hút FDI của địa phương, giai đoạn 2005 - 2010, Văn kiện Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII (12/2005); Nghị quyết số 02
- NQ/TU ngày 29/5/2006 của BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh; Kết luận số 65 KL/TU ngày 10/12/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, xác định các nhiệm vụ
cơ bản cần tập trung để đẩy mạnh thu hút FDI như sau:
24


Một là, tiếp tục xây dựng môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng,
minh bạch
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII
(12/2005) xác định: Tiếp tục thu hút các doanh nghiệp có số vốn ĐTNN lớn
và kỹ thuật tiên tiến. Huy động các nguồn lực đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa
đầu tư và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư. Cải tiến nhanh các thủ tục hành
chính trong cấp phép đầu tư theo hướng “một cửa”, tại chỗ, thủ tục đơn giản,
nhanh gọn. Trên cơ sở chính sách, pháp luật Nhà nước, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện những cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của Tỉnh và
từng nơi nhằm thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư và điều tiết đầu tư trên địa
bàn. Đầu tư xây dựng và nâng cấp mạng lưới điện, tiếp tục đầu tư nâng cấp
các tuyến tỉnh lộ 282, 284, 295, 271, 286, 280, 281, các tuyến đường vào
KCN, CCN; các nút giao thông 270, 271, Quốc lộ 38. Nghiên cứu xây dựng
cầu Vạn Ninh để liên thông đường 282 với Quốc lộ 18 và Quốc lộ 5; xây
dựng nút giao thông nối đường 18 với tuyến đường mới song song.
Nghị quyết số 02 - NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh tiếp tục
xác định: Rà soát đánh giá việc thực hiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi
đầu tư đã ban hành, trên cơ sở đó nghiên cứu, điều chỉnh và xây dựng các
chính sách mới phù hợp, kịp thời tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch

và khả thi đối với các nhà đầu tư như: chính sách đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật, khu nhà ở, khu chung cư cho người lao động; chính sách thu hút các dự
án quy mô lớn, công nghệ cao, có nguồn thu ngân sách lớn, giải quyết nhiều
việc làm và các dự án đầu tư vào các vùng khó khăn, vùng thuần nông.
Kết luận số 65 - KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục xác định:
Tập trung đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhất là các tuyến giao thông
tỉnh lộ (280, 281, 282, 295, ...) kết nối với các tuyến quốc lộ trên địa bàn Tỉnh
và các tỉnh, thành phố lân cận, các tuyến giao thông huyết mạch trong Tỉnh.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2010 2015, tầm nhìn đến năm 2020. Trước mắt, cần tranh thủ sự hỗ trợ của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam ưu tiên đầu tư các công trình điện cho các KCN
25


×