Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 124 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì cuộc sống bình yên, hạnh
phúc của nhân dân, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã hiến dâng tuổi
thanh xuân, sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc, dũng cảm chiến đấu, anh dũng hy
sinh hoặc mang thương tật suốt đời. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ - ông bà, cha
mẹ, người vợ, người chồng, người con, người cháu, anh chị em mãi mãi
không bao giờ được gặp lại những người thân yêu nhất của mình.
Thấm nhuần đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng
cây” và thấu hiểu sâu sắc giá trị của sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh
hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến công tác TB, GĐLS và NCCVCM, Người chỉ rõ:
“Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ
quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải
thương yêu và giúp đỡ họ” [34, tr.372].
Hơn 70 năm qua, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
Ðảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác TB,
GĐLS và NCCVCM và tổ chức vận động toàn dân tích cực tham gia các phong
trào “Ðền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ
và người có công với cách mạng”. Nhiều chủ trương của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về ưu đãi đối với người có công đã được ban hành; đối
tượng hưởng chính sách ưu đãi được mở rộng, các chế độ ưu đãi từng bước
được bổ sung, hoàn thiện, thể hiện sự trân trọng, biết ơn, chăm lo của Ðảng,
Nhà nước và nhân dân ta.
Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc thường xuyên quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt chính sách đối với
TB, GĐLS và NCCVCM. Tuy nhiên, do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại
cùng với những bất cập trong chỉ đạo, điều hành, quản lý… việc thực hiện
3



chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Ở một số cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương, đơn vị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chế độ, chính
sách đối với người có công chưa thật sự được quan tâm, chú trọng. Đời sống
của một số gia đình người có công vẫn còn nhiều khó khăn; công tác hỗ trợ nhà
ở, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm chưa được chu đáo;
nhiều liệt sĩ chưa tìm được hài cốt, chưa xác định được danh tính; nhiều hồ sơ
người có công tồn đọng chưa được xử lý…
Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM từ năm 2001 đến năm
2010 để đánh giá đúng những kết quả, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, đúc kết
một số kinh nghiệm làm cơ sở cho việc đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo
thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM của tỉnh trong giai
đoạn mới là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và
người có công với cách mạng từ năm 2001 đến năm 2010” làm luận văn
thạc sĩ, ngành Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò và thực trạng thực hiện chính sách đối với
TB, GĐLS và NCCVCM trong cả nước nói chung, từng địa phương nói riêng,
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, với những góc độ tiếp cận và phạm vi
khác nhau. Có thể chia thành các nhóm:
* Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề chung
về thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình
liệt sĩ và người có công với cách mạng trên phạm vi cả
nước
Trần Đình Hoan (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý
4



việc thực hiện, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả trình bày những vấn đề lý luận
và phương pháp luận nghiên cứu vận dụng chính sách xã hội và đổi mới cơ
chế quản lý thực hiện. Từ việc đánh giá khái quát thực trạng một số vấn đề xã
hội và chính sách xã hội, tác giả nêu lên quan điểm cơ bản của một số chính
sách xã hội đã được thể chế hoá và từng bước đưa vào cuộc sống như: phát
triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, bảo hiểm xã
hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi người có công với nước; Nguyễn Thị Thanh
(2004), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện một số chính sách xã
hội trong thời kỳ 1991 - 2001, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án nghiên cứu một cách
có hệ thống vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc thực
hiện các chính sách xã hội từ 1991 - 2001, khẳng định những thành tựu, hạn
chế và đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện
các chính sách xã hội; Nguyễn Thị Hằng (2005), “Tiếp tục thực hiện tốt hơn
nữa chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có
công với cách mạng”, Tạp chí Cộng sản, số 7-2005. Tác giả nêu những nét
khái quát thành tựu đạt được trong việc thực hiện ưu đãi xã hội đối với TB,
GĐLS và NCCVCM trong 10 năm từ 1995 đến 2005, qua đó đúc kết những
kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách ưu
đãi xã hội; Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), “Nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu
quả chính sách an sinh xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số 7-2008. Tác giả trình
bày chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, nêu lên những thành
tựu đạt được cũng như khó khăn và thách thức đối với chính sách an sinh xã
hội; Đào Văn Dũng (2008), “Chính sách chăm sóc người có công - Thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí Tuyên giáo, số 7 năm 2008. Tác giả trình bày hệ thống
những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người có
công, nêu lên thực trạng những tồn tại cần khắc phục và đưa ra những giải
pháp phát triển; Bùi Hồng Lĩnh (2008), “Kết quả thực hiện Pháp lệnh ưu đãi

5


người có công với cách mạng những năm vừa qua và nhiệm vụ, giải pháp
trong thời gian tới”, Tạp chí Thông tin cải cách nền hành chính Nhà nước, Bộ
Nội vụ, số 7. Tác giả khái quát lại kết quả đạt được sau 3 năm thực hiện Pháp
lệnh ưu đãi đối với người có công ngày 29-6-2005 (sửa đổi), nêu lên một số
tồn tại, vướng mắc và đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát triển; Phạm Đức Kiên
(2011), Đảng lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện chính sách xã
hội từ năm 1991 đến 2006, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án nêu
bật đường lối, quan điểm của Đảng, quá trình tổ chức thực hiện, kết quả cũng
như kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế kết hợp
với thực hiện chính sách xã hội; gợi mở những vấn đề mang tính lý luận và
thực tiễn cho quá trình lãnh đạo của Đảng về vấn đề này ở cả trước mắt và lâu
dài.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thực hiện chính
sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có
công với cách mạng ở các vùng, miền, địa phương
Phạm Quang Nghị (2007), “Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương
binh, gia đình liệt sĩ, người có công”, Tạp chí Cộng sản, số 7-2007. Tác giả đã
tóm lược thành tựu trong công tác thương binh, liệt sĩ và người có công với
cách mạng trong thành phố Hà Nội trên các mặt như: Thực hiện chính sách,
chăm sóc người có công, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, mộ liệt sĩ.
Trịnh Đình Dũng (2007), “Vĩnh phúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, gắn với từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, Tạp chí
Cộng sản, số 2-2007. Tác giả đã khái lược lại, sau 10 năm xây dựng và phát
triển, Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện về phát
triển kinh tế - xã hội. Kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng cao, GDP tăng
16,84%, chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH. Đồng thời các lĩnh vực

văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, kết hợp hài hòa với tăng trưởng kinh tế.
6


Phùng Quang Thanh (2007), “Quân đội nhân dân phấn đấu thực hiện tốt
hơn nữa công tác thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội”, Tạp
chí Quốc phòng toàn dân, số 7-2007. Tác giả điểm lại những nét chính trong
60 năm thực hiện công tác TBLS và NCCVCM của Đảng và Nhà nước, nêu
lên sự đóng góp của quân đội vào thành tích chung đó. Đặc biệt, tác giả đã chỉ
rõ phương hướng nhằm thực hiện tốt hơn nữa chính sách đối với thương binh,
liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”.
Vũ Hữu Luận (2010), “Nâng cao hiệu quả công tác thương binh, liệt sĩ,
chính sách hậu phương quân đội”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7-2010.
Tác giả nêu bật những thành tựu của ngành chính sách quân đội từ 2006-2010,
chỉ ra vị trí, vai trò của ngành chính sách quân đội trong quá trình thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với TBLS và NCCVCM.
Phạm Văn Hồ (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội ở Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án trình bày hệ thống chủ trương, chính sách của
Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn có tính đặc thù ở Tây
Nguyên thời kỳ đổi mới; quá trình vận dụng sáng tạo của Đảng bộ các tỉnh
Tây Nguyên trong thực hiện chính sách xã hội của Đảng; đúc kết một số kinh
nghiệm về quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở Tây Nguyên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy các công trình trên chưa đề cập trực tiếp quá trình Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM,
song đây là nguồn tư liệu quý, phong phú, có giá trị lí luận, thực tiễn tin cậy
để tác giả nghiên cứu, kế thừa trong xây dựng và hoàn thành luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện chính sách
đối với TB, GĐLS và NCCVCM từ năm 2001 đến năm 2010; đúc rút kinh
7


nghiệm có thể vận dụng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM ở tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc về thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM từ năm
2001 đến năm 2010.
Hai là, hệ thống hóa và phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và
NCCVCM từ năm 2001 đến năm 2010.
Ba là, nhận xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc
kết một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện
chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM từ năm 2001 đến năm 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động lãnh đạo thực hiện chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những yếu tố tác động, chủ trương và sự chỉ
đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện chính sách TB, GĐLS và
NCCVCM.
Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010. Tuy nhiên, để làm rõ yếu tố
tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện chính sách
đối với TB, GĐLS và NCCVCM thì luận văn có đề cập tới vấn đề này trước
năm 2001 và sau năm 2010.

Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

8


Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã
hội và chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM.
* Cơ sở thực tiễn
Gồm toàn bộ hoạt động lãnh đạo thực hiện chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2001 đến năm 2010
và những báo cáo đánh giá, tổng kết về công tác này của tỉnh Vĩnh Phúc.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgíc. Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như:
thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần hệ thống hóa chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo thực hiện
chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ
năm 2001 đến năm 2010.
Những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM, có thể vận dụng góp
phần nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này ở tỉnh trong những năm tới.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, chỉ đạo thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM nói chung
và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục.

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH, GIA ĐÌNH LIỆT
SĨ VÀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG (2001 - 2005)

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc về thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và
người có công với cách mạng (2001 - 2005)
1.1.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng
* Vị trí, vai trò của chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và
người có công với cách mạng.
- Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hiện chính sách đối với thương binh,
gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến
TB, LS và NCCVCM. Trong thư gửi Ban Thường trực tổ chức ngày thương
binh toàn quốc đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Thương binh là
những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm
yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những
người con anh dũng ấy” [32, tr.204].
Từ ngày 27/7/1947, cứ đến tháng 7 hằng năm, dù bận trăm công nghìn
việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên gửi thư thăm hỏi động viên
thương binh, bệnh binh, GĐLS. Đồng thời, nhắc nhở Đảng, Chính phủ và

nhân dân nâng cao trách nhiệm hơn nữa đối với công tác “Đền ơn đáp nghĩa”.
Theo Người, ý nghĩa sâu sắc của công tác này là sự trân trọng, biết ơn đối với
những người có công với độc lập, tự do của Tổ quốc, chứ không phải là sự gia
ơn, làm phúc. Vì vậy, “bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và
10


giúp đỡ họ” [34, tr.372]. Người cũng nhấn mạnh rằng, muốn làm tốt công việc
“Đền ơn đáp nghĩa”, một mặt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải trân trọng,
biết ơn đối với TB, GĐLS, mặt khác, anh em thương binh, bệnh binh, thân
nhân liệt sĩ cũng không được tự ty, công thần, ỷ lại, mà phải phát huy truyền
thống, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, vượt lên khó khăn để tiếp tục
sống và cống hiến cho xã hội. Người chân thành động viên thương binh, bệnh
binh “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên
người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người
chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận” [32, tr.584].
Để công tác đền ơn đáp nghĩa trở thành phong trào quần chúng sâu
rộng, có ý nghĩa thiết thực; ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 20 về chế độ “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”;
ngày 03/10/1947, Người ký Sắc lệnh số 101 thành lập Sở, Ty Thương binh,
cựu binh ở khu, tỉnh và đến ngày 16/12/1952, Người ký Sắc lệnh số 129 đặt ra
Bằng “Bảng vàng danh dự” và Bằng “Gia đình vẻ vang” để thưởng cho các
gia đình chiến sĩ có nhiều người tòng quân hoặc hy sinh trong kháng chiến
chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Bên cạnh đó, Người cũng ký nhiều lệnh để
tặng, truy tặng các danh hiệu Anh hùng, Huân chương, Huy chương cho các
thương binh, liệt sĩ, đồng thời đôn đốc việc tổ chức thực hiện. Đặc biệt, với
những cán bộ chuyên trách làm công tác thương binh xã hội.
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ và người có công với cách mạng.
Ngày từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu lần

thứ VI của Đảng chỉ rõ, phải thực hiện tốt chính sách đối với TB, GĐLS và
NCCVCM. Đến Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người
có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách
nhiệm của toàn dân” [25, tr.95].
11


Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng, cùng với quá trình đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,
công tác TB, GĐLS và NCCVCM được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Đặc
biệt, việc ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và
gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người
có công giúp đỡ cách mạng, đã đưa công tác TB, GĐLS và NCCVCM bước
sang giai đoạn mới. Theo đó, hệ thống chính sách có nhiều bổ sung, sửa đổi
cơ bản. Nhiều vấn đề bất hợp lý do lịch sử để lại cũng như vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế và những tồn đọng về chính sách sau
chiến tranh, như vấn đề xác nhận liệt sĩ, thương binh; chính sách ưu đãi đối
với thanh niên xung phong, những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học; chính sách ưu đãi về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cải
thiện nhà ở, chế độ trợ cấp đối với một số đối tượng người có công với cách
mạng được các cấp, các ngành quan tâm, giải quyết hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ:
“Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những
người có công với đất nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít
nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú” [27, tr.115]. Nghị
quyết Đại hội VIII đi vào cuộc sống, các cấp, các ngành, các đoàn thể chính
trị, xã hội từ Trung ương tới địa phương đã làm tốt công tác chăm sóc TB,
GĐLS và NCCVCM, qua đó góp phần tạo được sự phát triển hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.

Để khắc phục những khó khăn, bất cập trong cuộc sống của một bộ
phận người có công, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ kháng chiến;
khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh việc tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ;
thúc đẩy phong trào đền ơn đáp nghĩa ở một số địa phương, ngày 14-12-1996,
Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 09-CT/TW về việc mở đợt vận động kỷ niệm 50
năm Ngày thương binh, liệt sĩ. Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, các cấp ủy
12


Đảng và chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chế độ,
chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; tiếp tục đẩy
mạnh xã hội hóa việc chăm sóc TB, GĐLS và NCCVCM, phụng dưỡng Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng… Như vậy, một lần nữa có thể khẳng định, qua các
thời kỳ lịch sử việc thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM là
nội dung cơ bản, bộ phận hữu cơ của đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước.
- Thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có
công với cách mạng là cơ sở, điều kiện góp phần giải quyết tốt các vấn đề
kinh tế - xã hội và các vấn đề phát triển bền vững của tỉnh Vĩnh Phúc
Thương binh, GĐLS và NCCVCM là một bộ phận yếu thế trong xã
hội, bởi họ đã cống hiến sức lực, một phần thân thể, tuổi thanh xuân của mình
cho đất nước, vì vậy hoàn cảnh, đời sống vật chất và tinh thần của họ đa phần
rất khó khăn, nhất là trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế chuyển sang vận
hành theo quy luật của nền kinh tế thị trường, nẩy sinh nhiều khó khăn mới,
nhất là trong lĩnh vực lao động, việc làm, thu nhập, nhà ở... Tỉnh Vĩnh Phúc là
một tỉnh có số lượng TB, GĐLS và NCCVCM khá nhiều, chiếm trên 9% dân
số toàn tỉnh [5, tr.1]. Việc giải quyết tốt các chính sách đối với TB, GĐLS và
NCCVCM có một ý nghĩa hết sức quan trọng không những về chính trị mà
còn tạo ra môi trường KT - XH lành mạnh, góp phần ổn định chính trị, an
ninh trật tự xã hội.

Xét về ý nghĩa chính trị, TB, GĐLS và NCCVCM phải được Nhà nước
và xã hội ghi nhận công lao và có chính sách đãi ngộ, đó là đạo lý truyền thống
của dân tộc, uống nước nhớ nguồn, không những thế hệ hôm nay mà con cháu
mai sau ghi nhớ công ơn của những anh hùng liệt sĩ, thương bệnh binh, đã hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc vì nền độc lập tự do của đất nước.
Xét dưới góc độ KT - XH, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của TB,
GĐLS và NCCVCM, là nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trong sự
13


nghiệp phát triển KT - XH của tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện mục tiêu CNH,
HĐH; thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế bền
vững trong những năm tới.
Như vậy, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công
là một trong những nhiệm vụ để thực hiện công bằng xã hội. Việc nâng cao đời
sống kinh tế, đời sống tinh thần đối với TB, GĐLS và NCCVCM là trách
nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội; là cơ sở, điều kiện góp phần giải quyết các
vấn đề KT - XH và vấn đề phát triển bền vững của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và
toàn xã hội nói chung trong thời gian tới.
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
Điều kiện tự nhiên
Vĩnh Phúc nằm ở cửa ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, thuộc vùng
châu thổ sông Hồng. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía
Nam giáp tỉnh Hà Tây trước đây nay là Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ,
phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tính từ ngày 01 tháng 8 năm 2008, sau khi
chuyển huyện Mê Linh về Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là
1.231 km2, dân số gần 1,006 triệu người. Có 19 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban Nhân dân Tỉnh (không tính Ban quản lý các Khu công nghiệp; Văn phòng
Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân Tỉnh). Có 137 xã, phường, thị
trấn thuộc 9 đơn vị hành chính gồm: thành phố Vĩnh Yên (là trung tâm kinh tế,

chính trị, văn hóa của Tỉnh), thị xã Phúc Yên và 7 huyện là Bình Xuyên, Yên
Lạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Tam đảo, Lập Thạch và Sông Lô…
Quá trình phát triển KT - XH của đất nước trong các năm qua đã tạo
cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý kinh tế, tỉnh đã trở thành một
bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc.
Đồng thời,sự phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia
liên quan đã đưa Vĩnh Phúc xích gần hơn với các trung tâm kinh tế, công
nghiệp và những thành phố lớn của quốc gia và quốc tế thuộc hành lang kinh
14


tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, QL2 Việt Trì - Hà Giang Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV
thành phố Hà Nội...
Điều kiện về kinh tế - xã hội
Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ giao
lưu KT - XH giữa trung du, miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong cơ
chế kinh tế mới, nền kinh tế của Tỉnh phát triển và có mức tăng trưởng khá.
Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, GDP Vĩnh Phúc tăng trưởng bình quân
15,2% /năm, trong đó: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 5,23%/năm; công
nghiệp, xây dựng tăng 19,71%/năm; dịch vụ tăng 15,04%/ năm. Nhìn chung,
tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao trong số các tỉnh đồng bằng sông Hồng
và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc, tăng gấp 2 lần so với tốc độ trung bình
của cả nước.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, GDP bình quân đầu
người trong tỉnh cũng tăng bình quân 15,3%/năm, mục tiêu Đại hội lần thứ
XIII (2001 - 2005) là trên 10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm
2005, tỉnh có cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng: 52,2%, dịch vụ: 26,6%,
nông nghiệp: 21,2%. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 515 USD, mục
tiêu Đại hội lần thứ XIII (2001 - 2005) là 350 USD [22, tr.11]. Như vậy, xét

về GDP/người, Vĩnh Phúc có điểm xuất phát khá thuận lợi so với nhiều tỉnh
trong cả nước.

15


Người dân Vĩnh Phúc có truyền thống yêu nước, hiếu học, cần cù, chịu
khó, thấm nhuần đạo lý “uống nước nhớ nguồn” ... Truyền thống đó, trong
nhiều năm qua đã là động lực cơ bản cho sự phát triển KT - XH, đồng thời
cũng là cơ sở quan trọng cho tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm đến công tác
bảo đảm an sinh xã hội. Bằng những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực,
hệ thống chính sách an sinh xã hội ngày càng đồng bộ, hoàn thiện; đời sống
vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao; an sinh xã
hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, cận nghèo và đặc biệt
tỉnh thường xuyên thực hiện đầy đủ chính sách ưu đãi, quan tâm và chăm lo
cho 138.000 NCCVCM, trong đó có 1.500 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 269
cán bộ lão thành cách mạng, 573 cán bộ tiền khởi nghĩa, gần 10.000 thương,
bệnh binh, hơn 15.000 liệt sĩ, 4.700 người trực tiếp tham gia kháng chiến và
con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học, 810 người hoạt động kháng chiến bị
địch bắt tù đày, 22 Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, hơn
80.000 người tham gia hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc được Đảng,
Nhà nước ghi nhận công lao và tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến
các loại…thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc đến nay
đã trở thành việc làm thường xuyên của các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Nhờ đó, gia đình chính sách, người có công trên địa bàn tỉnh đã có mức sống
bằng hoặc tốt hơn so với cộng đồng…
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và KT - XH nói trên đã đem lại cho Vĩnh
Phúc những lợi thế khá lớn trong thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và
NCCVCM. Nhất là lợi thế về thu nhập GDP/người, Vĩnh Phúc có điểm xuất
phát khá thuận lợi so với nhiều tỉnh trong cả nước.

* Chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện chính sách đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng (2001 - 2005)
- Mục tiêu, phương hướng
Tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và 10 năm
16


thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH (1991- 2000) , trên cơ
sở những những kết quả đã đạt được về thực hiện chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM. Tiếp nối tinh thần yêu nước, phát huy đạo lý và
truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam “uống nước nhớ nguồn; ăn quả
nhớ người trồng cây”, “đền ơn đáp nghĩa”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng xác định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách
và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính
sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người
dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá
nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên” [28, tr.301].
Mục tiêu, phương hướng trên thể hiện trách nhiệm và tình cảm của
Đảng đối với TB, GĐLS và NCCVCM, đồng thời là cơ sở để các cấp, các
ngành phát huy sức mạnh tổng hợp, chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống TB,
GĐLS và NCCVCM, phát huy năng lực của các đối tượng chính sách trong
hoàn cảnh mới, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như để nâng cao hiệu
quả trong quá trình thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM,
ngày 01/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Số: 08-CT/TW, Về
việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ,
người có công với cách mạng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong giai
đoạn mới, Ban Bí thư quyết định lấy năm 2002, là năm đẩy mạnh công tác
chăm sóc TB, GĐLS và NCCVCM.

- Mục tiêu cụ thể
Thực hiện mục tiêu, phương hướng do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX và một trong những nội dung của Chỉ thị số 08-CT/TW, ngày 30-52002, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 12/2002/CT-TTg Về việc đẩy mạnh
công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách
mạng. Trong đó, xác định các mục tiêu cụ thể là:
17


Hoàn thành cơ bản công tác xác nhận đối với đối tượng là người có
công trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến; chi trả trợ cấp đối với
người hoạt động kháng chiến trước ngày 31 tháng 12 năm 2002.
Xây dựng kế hoạch đến năm 2005 và hàng năm về công tác tìm kiếm,
quy tập hài cốt liệt sĩ trong nước và hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện
quốc tế ở nước ngoài về nước.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện Chương trình tuyên truyền, phổ biến
chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực người có công
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Uỷ ban nhân dân các cấp: Triển khai việc tổng kết 6 năm thực hiện Pháp
lệnh ưu đãi người có công theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội. Xây dựng mục tiêu, chương trình hành động cụ thể và
thiết thực hỗ trợ về tinh thần và vật chất đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ và người có công với cách mạng; có chính sách ưu tiên đào tạo nghề
nghiệp, sắp xếp việc làm cho con em các gia đình thuộc diện chính sách.
Phối hợp với mặt trận Tổ quốc cùng cấp đẩy mạnh việc vận động toàn xã
hội tham gia ủng hộ xây dựng “Quỹ Đền ơn đáp nghĩa” [52, tr.1-2].
- Về giải pháp: Chỉ thị Số: 08-CT/TW, Về việc tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng
và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong giai đoạn mới, chỉ rõ:
Một là, tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các cấp, các ngành, cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách, quy định của

Đảng và Nhà nước, truyền thống của dân tộc và những thành quả của công tác
TB, GĐLS và NCCVCM 55 năm qua. Tiến hành sơ kết việc thực hiện Pháp
lệnh người có công trong 6 năm qua kể từ khi được ban hành; trên cơ sở đó
từng địa phương, đơn vị xây dựng chương trình hành động cụ thể để làm tốt
hơn công tác TB, GĐLS và NCCVCM theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
18


Hai là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện đúng, đầy đủ, chu đáo các chế độ, chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh các
tiêu cực trong việc thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM.
Ba là, giải quyết dứt điểm những tồn đọng về công tác thương binh, liệt
sĩ và người có công trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Đẩy mạnh
cuộc vận động toàn dân tham gia ủng hộ xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”
để có nguồn lực góp phần chăm sóc tốt hơn TB, GĐLS và NCCVCM.
Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với
TB, GĐLS và NCCVCM; chính sách đối với những người tham gia kháng
chiến nay còn mang di chứng nặng nề cho bản thân và gia đình.
Năm là, quan tâm dạy nghề, tạo việc làm, giúp đỡ những gia đình chính
sách đang gặp khó khăn về đời sống, phát triển sản xuất kinh doanh; chăm lo
giáo dục, đào tạo con em của người có công, con liệt sĩ, con thương binh,
bệnh binh.
Sáu là, các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng uỷ trực thuộc Trung ương và cấp uỷ Đảng các cấp có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị làm tốt công tác
thương binh, liệt sĩ và người có công, tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 55
năm Ngày thương binh, liệt sĩ bằng những hình thức phong phú, sinh động, cụ
thể, thiết thực, có chất lượng, tránh hình thức, lãng phí [1, tr.2-3].

* Thực trạng tình hình thực hiện chính sách đối với thương binh, gia
đình liệt sĩ và người có công với cách mạng ở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 2001
- Ưu điểm
Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể
nhân dân ở địa phương về chủ trương thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS
và NCCVCM của Đảng và Nhà nước được nâng lên một bước. Tỉnh ủy,
HĐND tỉnh đã không ngừng tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc các
19


nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về chính sách đối với TB, GĐLS và
NCCVCM. Kịp thời thể chế hóa thành nghị quyết, chương trình hành động
bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất nhằm thực hiện tốt chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM ở địa phương. Trong từng giai đoạn và nhiệm vụ cụ thể,
UBND tỉnh đã có kế hoạch, tổ chức chỉ đạo sâu sát, có hiệu quả đối với các
sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể địa phương nhằm tạo
mọi điều kiện thuận lợi, tập trung phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần đối với TB, GĐLS và NCCVCM trong Tỉnh.
Thứ hai, công tác giải quyết tồn đọng sau chiến tranh và công tác xác
nhận chế độ cho NCCVCM được triển khai thực hiện theo đúng kế hoạch và
đã đạt được kết quả khá tốt, hồ sơ xét duyệt bảo đảm theo yêu cầu, dân chủ,
công khai, minh bạch.
Thứ ba, việc triển khai thực hiện các chế độ chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM được quan tâm chỉ đạo thực hiện đúng đối tượng, đúng
chế độ, đảm bảo kịp thời, tận tay người hưởng, hàng năm nguồn trợ cấp rất
lớn và không ngừng tăng cả quy mô đối tượng, cả về tổng nguồn. Chỉ tính
riêng từ năm 1997 đến năm 2000, việc thực hiện chế độ ưu đãi NCCVCM đã
tăng hơn 3 lần, nếu năm 1997, tổng số thụ hưởng trợ cấp là hơn 7.826 người thì
đến cuối năm 2000 là 23.082 người. “Công tác cứu trợ, bảo trợ xã hội và chính
sách đối với người có công với nước được thực hiện tốt” [21, tr.30].

Thứ tư, cùng với trợ cấp của ngân sách Nhà nước, Đảng bộ, UBND
tỉnh đã huy động được sự tham gia của các tổ chức KT - XH vào việc chăm
sóc sức khoẻ, cải thiện đời sống tinh thần cho TB, GĐLS và NCCVCM.
Hàng năm đã chi trên 1,6 tỷ đồng cho công tác điều trị điều dưỡng, phục hồi
chức năng đối với TB và NCCVCM. Thực hiện ưu đãi đối với các đối tượng
TB, GĐLS và NCCVCM và con em họ trong việc học tập ở các trường trong
và ngoài công lập, tạo điều kiện để thương bệnh binh và con em của họ nâng
cao trình độ học vấn và chuyên môn có điều kiện, cơ hội tìm kiếm việc làm,
20


nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động
Phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc bố mẹ liệt sĩ, đỡ đầu con
liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phát động..., mức phụng dưỡng thấp
nhất là 200.000 đồng/Mẹ/tháng, cao nhất là 400.000 đồng/Mẹ/tháng. Tổng
nguồn kinh phí phụng dưỡng hàng năm trên 1,2 tỷ đồng.
Ngoài ra, hàng năm nhân dịp kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7 và
các dịp lễ, Tết, tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động bằng các việc làm cụ thể, thiết
thực tỏ lòng tri ân đối với sự hy sinh, mất mát của các TB, GĐLS và NCCVCM.
- Hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách
đối với TB, GĐLS và NCCVCM vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Thứ nhất, việc xác nhận đối tượng TB, liệt sĩ và NCCVCM theo Pháp
lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng của
Ủy Ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 08 năm 1994 và Nghị
định số 28/CP ngày 29-4-1995 còn nhiều vướng mắc, dẫn đến công tác xác nhận
đối tượng TB, liệt sĩ và NCCVCM vẫn còn có nhiều trường hợp chưa giải quyết
được, cụ thể như: thủ tục xác nhận, công nhận liệt sĩ trong 6 trường hợp đã nêu
trong Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,

thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 08 năm
1994 và Nghị định số 28/CP ngày 29-4-1995 thì chỉ có 3 trường hợp là không có
vướng mắc gì còn lại 3 trường hợp đều có vướng mắc, đó là:
Trường hợp thứ nhất: Đối với những người hy sinh trong kháng chiến
bảo vệ Tổ quốc từ 31/12/1994 trở về trước.
Những vướng mắc: Giấy chứng nhận của hai người biết trường hợp hy
sinh, nhiều trường hợp xác nhận không đúng sự thực và nhiều trường hợp không
có ai còn sống để xác nhận về trường hợp đã hy sinh; Biên bản họp hội đồng xác
21


nhận mang tính hình thức, chưa minh bạch, thiếu căn cứ; Quy định yêu cầu cần
giấy xác nhận đối với trường hợp hy sinh là thực sự không cần thiết.
Trường hợp thứ hai: Đối với thương binh chết vì vết thương tái phát
Những vướng mắc: Việc xác định vết thương tái phát: cần quy định cụ
thể thế nào là vết thương tái phát; Trường hợp thương binh chết tại gia đình
do vết thương tái phát.
Trường hợp thứ ba: Đối với người mất tin, mất tích
Những vướng mắc: Đơn trình bày của gia đình kèm theo các giấy
chứng nhận của người cùng trực tiếp làm nhiệm vụ ( nếu có) không cần thiết
vì có kết luận của ban chỉ huy quan sự hoặc công an huyện hoặc đơn vị quản
lý trực tiếp người đó trước khi mất tích đã đủ căn cứ xác định; Biên bản họp
của tập thể hội đòng xác nhận xã không cần thiết vì chỉ có thẻ xác nhận đến
thời điểm hiện tại họ không có mặt tại địa phương.
Thứ hai, đời sống của một bộ phận không nhỏ TB, GĐLS và
NCCVCM còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo là TB, GĐLS và NCCVCM
vẫn còn cao, khoảng trên 40% hộ có công cách mạng nhà ở thuộc loại tạm bợ,
nhất là ở xã miền núi, bởi ngoài trợ cấp ưu đãi, thì gia đình TB, GĐLS và
NCCVCM ở những vùng này không có nguồn thu đáng kể.

Thứ ba, công tác duy tu, sửa chữa mộ, nghĩa trang liệt sĩ, mới chỉ thực
hiện được yêu cầu chống xuống cấp, chưa đảm bảo được yêu cầu bền, đẹp;
nhiều xã, huyện mới được chia tách chưa có nghĩa trang liệt sĩ, nhưng chưa
xây dựng được nhà bia ghi tên liệt sĩ để làm nơi tưởng niệm các anh hùng liệt
sĩ; đối tượng chính sách khó khăn đặc biệt về nhà ở chưa được hỗ trợ còn lớn.
Thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công trước năm 2001
đã và đang đặt nhiều yêu cầu bức thiết đối với sự lãnh đạo của các cấp uỷ,
chính quyền trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong việc xác định chủ trương, chỉ
đạo thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM một cách quyết liệt
và cụ thể hơn nữa, nhằm góp phần nâng cao đời sống mọi mặt đối với NCC.
22


1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về thực hiện chính
sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng
(2001 - 2005)
* Mục tiêu, phương hướng
Quán triệt đường lối, quan điểm, mục tiêu thực hiện chính sách đối với
TB, GĐLS và NCCVCM của Đảng, trên cơ sở tình hình thực tiễn địa phương,
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII (3/2001) xác định mục
tiêu, phương hướng thực hiện chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM là:
“Tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào đền ơn đáp
nghĩa, đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Thực hiện tốt chính sách
đối với người có công với nước” [21, tr.69].
Mục tiêu, phương hướng trên thể hiện sự đãi ngộ đặc biệt của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đối với TB, GĐLS và NCCVCM ở
tỉnh, thể hiện trách nhiệm và là sự ghi nhận, tôn vinh những cống hiến của
TB, GĐLS và NCCVCM đối với đất nước nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng. Mục tiêu, phương hướng đó không chỉ mang tính chính trị, KT - XH
mà còn mang tính nhân văn sâu sắc. Đó là sự thể hiện những truyền thống đạo

lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm, ý
thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên để cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp gìn
giữ, xây dựng và phát triển quê hương, đất nước, bảo vệ những giá trị tốt đẹp,
những thành quả to lớn mà ông cha ta đã ra sức gìn giữ. Đồng thời, thể hiện
được trách nhiệm của toàn tỉnh trong việc thực hiện “đền ơn đáp nghĩa” đối
với TB, GĐLS và NCCVCM. Vì vậy, quán triệt thực hiện tốt mục tiêu,
phương hướng trên có ý nghĩa rất quan trọng, thực hiện tốt nó sẽ góp phần
vào sự ổn định xã hội, giữ vững thể chế và thúc đẩy KT - XH phát triển.
* Mục tiêu cụ thể
Quán triệt mục tiêu, phương hướng do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIII (3/2001) xác định, quá trình tổ chức thực hiện Tỉnh ủy, UBND
23


tỉnh, từng bước cụ thể hóa thành các mục tiêu cụ thể về thực hiện chính sách
đối với TB, GĐLS và NCCVCM như sau:
Tập trung giải quyết tồn đọng xác nhận liệt sĩ theo Thông tư số
14/LĐTBXH ngày 11/8/2002 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Triển khai thực hiện Nghị định số 102/NĐ-CP ngày 11/12/2002 của
Chính phủ “Quy định chế độ trợ cấp đối với bệnh binh hoặc CNVC
nghỉ việc hưởng chế độ mất sức lao động đồng thời là thương binh,
người hưởng chính sách như thương binh”. [61, tr.8].
Phấn đấu hoàn thành cơ bản việc giải quyết trợ cấp một lần đối với thân
nhân người có công đã từ trần trước ngày 01/01/1995.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện 5 chương trình chăm sóc thương binh, gia
đình liệt sĩ, người có công, chú trọng giúp đỡ các gia đình chính sách
gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là gia đình neo đơn, già yếu,
thuộc diện hộ nghèo.
Xóa hộ chính sách thuộc diện hộ nghèo [61, tr.6].
* Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

Để tập trung thực hiện tốt phương hướng và các mục tiêu cụ thể nêu
trên, Đảng bộ tỉnh xác định cần thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ,
giải pháp:
Một là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy về thực hiện chính
sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân trong tỉnh [61, tr.9].
Một trong những nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện
chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM thời gian trước năm 2001 là
nắm chưa vững các chỉ thị, hướng dẫn của trên về nội dung này, nên việc
triển khai còn lúng túng, bất cập, thiếu đồng bộ. Bởi vậy, cấp uỷ, chính
quyền các địa phương, cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy
24


mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhân
dân nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa, giá trị to lớn, ý nghĩa nhân văn
của việc thực hiện công tác chính sách nói chung, công tác TB, GĐLS và
NCCVCM nói riêng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Đồng thời, tiếp tục
quán triệt, nâng cao nhận thức, nắm vững nội dung, yêu cầu của các chỉ thị,
hướng dẫn về công tác chính sách, nhất là Chỉ thị số 08/CTTW, ngày 01
tháng 3 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương; Nghị định số 69/2003/NĐCP, ngày 13 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ… tăng cường bám nắm cơ sở
để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề cần giải quyết trong thực
hiện chính sách.
Hai là, thực hiện kịp thời, chu đáo các chế độ, chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM [61, tr.9].
Chủ động xử lý các tình huống, thực hiện đúng, đủ chế độ, chu đáo các
chính sách và kịp thời đối với TB, GĐLS và NCCVCM. Tiếp tục quán triệt và
thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh về việc thực hiện hỗ
trợ đối với TB, GĐLS và NCCVCM, tạo điều kiện để họ phấn đấu và trưởng

thành; đẩy nhanh tiến độ xác nhận người có công. Thường xuyên làm tốt công
tác kiểm tra, rút kinh nghiệm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện
chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM; tập trung rà soát đánh giá thực
trạng công tác xác lập hồ sơ, giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến
tranh; giải quyết, khắc phục kịp thời việc xác lập hồ sơ thương binh sai sót
sau thanh tra, kiểm tra; phổ biến nhân rộng cách làm hay, ý tưởng sáng tạo,
khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; phát huy dân chủ, công bằng, công
khai, minh bạch. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, biện pháp thích hợp,
huy động sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong thực hiện chế độ,
chính sách đối với TB, GĐLS và NCCVCM.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh sâu rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
[61, tr.10].
25


Các cấp cần triển khai đồng bộ các giải pháp để đưa phong trào “Đền
ơn đáp nghĩa” phát triển sâu rộng hơn nữa trong các tầng lớp nhân dân. Để
công tác chăm sóc TB, GĐLS và NCCVCM và phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa” ngày càng có hiệu quả, các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan, các lực lượng trong tỉnh, thực hiện đúng, đủ, chu đáo; tiếp tục quan
tâm hỗ trợ thương bệnh binh nặng, người có công có hoàn cảnh khó khăn;
thân nhân liệt sĩ đang công tác ở địa phương, không để xảy ra tiêu cực trong
thực hiện chính sách. Đề xuất chủ trương và thực hiện tốt các hoạt động
công tác chính sách nhân dịp Kỷ niệm 55 năm ngày Thương binh, liệt sĩ
(27/7/1947-27/7/2002).
1.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo thực hiện chính sách đối với
thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng (2001 - 2005)
1.2.1. Chỉ đạo công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động
Để thực hiện tốt các mục tiêu đã xác định về chính sách đối với TB,
GĐLS và NCCVCM, Tỉnh ủy, UBND tỉnh thường xuyên quan tâm chỉ đạo

công tác tuyên truyền, vận động nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Ngày 27 tháng 3 năm
2002, Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 10/CT-TU về việc Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với thương binh, liệt sĩ - người có công và phong trào “Đền ơn
đáp nghĩa” giai đoạn mới, Chỉ thị yêu cầu: “Tăng cường công tác tuyên
truyền, cổ động, nêu gương điển hình các cá nhân và tập thể chấp hành tốt
chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công” [61, tr.2]. Ngày 26 tháng 4
năm 2002, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 689/KH-UB Về việc tổ chức Kỷ
niệm 55 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2002), trong đó nhấn
mạnh, tập trung “Tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân dân ý nghĩa
ngày Thương binh, liệt sĩ, những thành quả to lớn về công tác Thương binh,
liệt sĩ” [68, tr.2].
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, cấp ủy, chính quyền các
26


cấp đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, văn
bản luật của Quốc hội, chính sách của Chính phủ và của Tỉnh về công tác TB,
GĐLS và NCCVCM, đặc biệt là làm rõ các nội dung sửa đổi của các pháp
lệnh: Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng, Pháp lệnh số 08/PL-UBTVQH 10, ngày 01 tháng 12 năm 1998,
Về sửa đổi Điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ
và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến,
người có công giúp đỡ cách mạng, Pháp lệnh số 19/2000/PL-UBTVQH10,
ngày 14 tháng 02 năm 2000, Pháp lệnh sửa đổi Điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi
người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh,
người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, Pháp lệnh
số 01/2002/PL-UBTVQH11, ngày 04 tháng 10 năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi
Điều 22 và Điều 23 của Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ

và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến,
người có công giúp đỡ cách mạng. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng mục đích, ý nghĩa
của công tác TB, GĐLS và NCCVCM và Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”;
bảo đảm công tác này phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, đạt hiệu quả thiết
thực. Công tác giáo dục, tuyên truyền đã tập trung làm cho mọi đối tượng,
nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp có nhận thức đầy đủ các quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đối với TB,
GĐLS và NCCVCM, truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân
tộc; tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là các đối tượng được thụ hưởng
chính sách; thực tiễn tình hình KT - XH của đất nước, địa phương mình.
Hàng năm Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã chủ động biên soạn Đề cương,
đồng thời hướng dẫn chủ đề, nội dung và chỉ đạo Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát
thanh - Truyền hình tỉnh phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
27


×