Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông quận cầu giấy, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 114 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DUC HƯỚNG
NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh ở các trường trung học phổ thông
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG

Trang
3

17
17
26
30

NGHIỆP CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN CẦU GIẤY,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
35
2.1. Vài nét về giáo dục trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội
35
2.2. Thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường
trung học phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
36
2.3. Thực trạng và nguyên nhân của thực trạng quản lý giáo dục


hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ
thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
52
Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC
SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
66
3.1. Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội 66
3.2. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
PHỤ LỤC
102

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục hướng nghiệp là một hoạt động có vai trò rất quan trọng
trong các nhà trường trung học phổ thông. Giáo dục hướng nghiệp có ảnh hưởng
rất lớn đến tương lai của mỗi học sinh, đặc biệt là học sinh trung học phổ thông.
Nếu học sinh không được định hướng hoặc tự định hướng nghề trước khi vào
đời sẽ rất dễ lúng túng trong lựa chọn nghề dẫn đến nguy cơ đi ngang, rẽ tắt tùy
tiện để tìm một chỗ dừng chân… Điều này gây ra sự lãng phí rất lớn về mặt thời

gian, tiền của không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả xã hội.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hợp tác quốc tế mang đến rất
nhiều lựa chọn nghề nghiệp, do đó học sinh có nhiều cơ hội và chắc chắn
cũng sẽ phải bối rối vì không biết đưa ra sự lựa chọn như thế nào cho chính
xác. Có hàng trăm khóa học, hàng trăm ngành nghề từ các trường đại học, cao
đẳng dạy nghề khiến học sinh rất khó lựa chọn.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc chọn ngành nghề của học sinh chủ yếu
vẫn là theo cảm tính, chọn ngành nào “hót”, chọn theo phong trào hoặc đơn
giản là dễ thi đậu… Ngành nghề trong xã hội rất phong phú, mỗi ngành nghề
đều có những yêu cầu riêng trong khi học sinh hầu như chưa có khả năng xác
định sự phù hợp tương đối giữa năng lực của bản thân với ngành nghề mình
chọn lựa; ý thức về sự ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, năng lực, tố chất,
thiên hướng, ngoại hình, năng khiếu, gia đình, điều kiện kinh tế... đối với việc
chọn nghề cũng chưa sâu sắc. Vì vậy, câu hỏi “làm gì sau khi tốt nghiệp trung
học phổ thông” luôn là câu hỏi khiến nhiều bạn học sinh lúng túng, không tìm
được câu trả lời xác đáng.
Trong thời gian quan, các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đã có một số chủ trương và giải pháp nhằm tư
vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh được triển khai trong nhiều năm
qua như: Đưa hoạt động giáo dục hướng nghiệp, chương trình bộ môn công
nghệ, chương trình nghề phổ thông vào chương trình trung học cơ sở và

3


trung học phổ thông; thực hiện chưong trình phân ban ở cấp trung học phổ
thông; trường trung cấp nghề, khống chế chỉ tiêu tuyển học sinh vào các
trường trung học phổ thông …
Tuy nhiên, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Nhiều nội dung tư vấn
hướng nghiệp chưa thực sự được quan tâm. Chất lượng giảng dạy bộ môn

Công nghệ, chất lượng hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề ở trường phổ
thông còn thấp. Hoạt động tư vấn hướng nghiệp thường được tổ chức tập
trung vào thời điểm khi gần đến kỳ thi tuyển sinh hàng năm. Đến khi đó, các
trường đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền
thông, các tổ chức chính trị - xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các
trường trung học phổ thông nhằm cung cấp một số thông tin cơ bản về trường
thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện vọng… Hơn nữa, hiện vẫn chưa có một bộ
công cụ chuẩn giúp học sinh có thể tự đánh giá năng lực, sở thích, khả năng
nghề nghiệp để trên kết quả tự đánh giá đó và sự tư vấn của giáo viên và mà
chọn ngành nghề, bậc học cho phù hợp; sự hiểu biết về nghề nghiệp mà các
em chọn cũng như những yêu cầu của nghề và sự đáp ứng yêu cầu của bản
thân đối với nghề còn rất hạn chế. Điều này đã làm cho các em có những
suy nghĩ sai lệch trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Rõ ràng,
học sinh rất cần được sự định hướng đúng, được tư vấn rõ ràng và đầy đủ
trong việc hướng nghiệp. Để làm tốt hơn nữa công tác hướng nghiệp, cần
có nghiên cứu để tìm ra những biện pháp tổ chức và quản lý giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông.
Từ những lý do cơ bản trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Hướng nghiệp học đường và nghề nghiệp đã có lịch sử ra đời và phát
triển với bề dày trên dưới 100 năm trên thế giới và trên thực tế đã trở thành

4


một lĩnh vực tác nghiệp chuyên môn và chính sách được tích hợp chặt chẽ
trong các hệ thống giáo dục, đào tạo, lao động, việc làm, dịch vụ và chính

sách của nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trong hệ thống giáo dục, giáo dục trung học phổ thông là giai đoạn học
tập chính quy cuối cùng của đa phần thanh thiếu niên học sinh. Giáo dục
trung học phổ thông không chỉ có mục tiêu chuẩn bị nguồn cho giáo dục đại
học mà cần phải chuẩn bị cho học sinh - những con người trưởng thành bước vào cuộc sống lao động xã hội kiến thức về hướng nghiệp. Họ phải được
trang bị những tri thức khoa học, kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng lao động nghề
nghiệp, năng lực sáng tạo, ý thức tổ chức kỷ luật và những phát minh nhằm
góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Trên thực tế, lĩnh vực khoa học - kỹ thuật liên tục phát triển và thay đổi, đặc
biệt là trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay, người lao động
thường không có khả năng để thích ứng kịp thời. Trong khi đó, số học sinh
phổ thông khi rời ghế nhà trường với vốn kiến thức không có cơ sở và khả
năng hội nhập vào cuộc sống lao động - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn như
vậy, đã có các nhà tư tưởng và giáo dục học tiến bộ đưa ra những hình thức
gắn giáo dục với lao động nghề nghiệp, với cuộc sống.
Vào giữa thế kỉ XIX, ở Pháp xuất hiện cuốn sách “Hướng nghiệp chọn
nghề”. Nội dung cuốn sách đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của nghề do
sự phát triển công nghiệp. Ngay khi đó, người ta đã nhận thấy tính đa dạng,
phức tạp của hệ thống nghề nghiệp, tính chuyên môn hoá vượt lên hẳn so với
giai đoạn sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, qua đó khẳng định tính
cấp thiết phải giúp đỡ thanh thiếu niên học sinh đi vào “Thế giới nghề
nghiệp” nhằm sử dụng hiệu quả lao động trẻ tuổi. Đến năm 1975, nước Pháp
tiến hành cải cách giáo dục nhằm vào hướng: tăng cường giáo dục tự nhiên và
toán học, trong đó tăng kiến thức thực hành đối với khoa học tự nhiên, đưa
giáo dục kĩ thuật vào để đảm bảo sự liên hệ giữa trường học và đời sống,
đồng thời vẫn giữa vững ý nghĩa của các môn xã hội và nhân văn, giảm bớt

5



tính hàn lâm trong việc cung cấp các kiến thức khoa học, tăng cường tỷ trọng
các kiến thức có ý nghĩa thực dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để giúp học sinh
trung học chuẩn bị đi vào đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
Năm 1996, tác giả Schmidt, J.J trong “Counseling in school: Essential
services and comprehensive, programs” và năm 1998, Roger D. Herring trong
“Counseling In schoolsMulticultural and Development” đã khuyến khích: các
giáo viên phối hợp định hướng nghề cho học sinh thông qua những bài giảng
hàng ngày trên lớp; tổ chức hoạt động tập thể hoặc các sự kiện đặc biệt như đi
dã ngoại, thăm quan các hoạt động sản xuất, lao động…. Với học sinh trung
học, có nhiều chương trình sự kiện đặc biệt giới thiệu về nghề sẽ giúp học sinh
hiểu được mối quan hệ, tương tác giữa những trải nghiệm của bản thân với
những ước mơ, khát vọng thành đạt trong tương lai.
Tác giả Magumi Nishino, với công trình “Cải cách giáo dục Nhật Bản
hướng tới thế kỉ 21” đã nghiên cứu khá sâu sắc vấn đề bồi dưỡng tri thức và
kĩ năng cơ bản của những ngành nghề cần thiết cho học sinh phổ thông. Theo
tác giả, học sinh trung học phải được: Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng cơ bản
của những ngành nghề cần thiết trong xã hội, có thái độ tôn trọng đối với lao
động và có khả năng lựa chọn nghề tương lai phù hợp với mỗi cá nhân. Từ
lâu, giáo dục Nhật Bản đã chú ý đến vấn đề hoàn thiện nội dung, hình thức
dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ năng lao động nghề
nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ thông. Trong vòng 30
năm từ 1952 - 1982 nhiều cuộc cải cách giáo dục đã được tiến hành, với mục
đích đảm bảo cho giáo dục phổ thông đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế
cụ thể của đất nước. Trong đó, nhiều biện pháp đã được áp dụng để nâng cao
trình độ đào tạo nghề nghiệp và khoa học tự nhiên trong các trường tiểu học
và trung học cơ sở.
Bài viết “Tâm lý học hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp sẽ là những phát
kiến của tương lai” trong Tạp chí Ứng xử nghề nghiệp (Vocational Behavior), của
tác giả Robert W.Lent (2001) đã chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại, hạn chế của hoạt


6


động tư vấn nghề nghiệp và giáo dục hướng nghiệp, cụ thể: Sự thiếu hiệu quả
(weakness); Lỗ hổng lớn (gaps); Sự thiếu bình đẳng (unfair); đồng thời cũng đã
kiến nghị, cần có một tầm nhìn mới cho tương lai (future vision) trong đó vai trò
của Tâm lý học hướng nghiệp là đặc biệt quan trọng. Song song với hoạt động tư
vấn nghề nghiệp cho học sinh phải thực hiện, hoàn thành 12 mục tiêu, trong đó có
những mục tiêu cụ thể của lĩnh vực tư vấn nghề nghiệp và giáo dục hướng nghiệp,
đó là: 1) Tiếp tục các nghiên cứu lý thuyết cơ bản về các khái niệm: Lựa chọn
nghề nghiệp; phát triển nghề nghiệp để tìm ra lý thuyết mới về tư vấn nghề
nghiệp, giáo dục hướng nghiệp và phân luồng hướng nghiệp; 2) Nghiên cứu mở
rộng và đưa các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán vào trong các quyết định lựa
chọn nghề nghiệp đồng thời tìm hiểu các nguyên tố đó ảnh hưởng ở mức độ như
thế nào trong phạm vi của mỗi cá nhân; 3) Nâng cao hơn nữa nhận thức về các
hoạt động bên ngoài giờ học chính khóa (tức hoạt động ngoại khóa) đối với kết
quả lựa chọn nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của các em học sinh; 4) Phát huy
sáng tạo các cách thức lượng hóa, đo đếm sự hài lòng của học sinh sau khi đưa ra
các quyết định lựa chọn nghề nghiệp; 5) Mở rộng các lĩnh vực nghề nghiệp mới
mẻ trong tương lai để tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp cho học sinh và
các cá nhân; 6) Tạo lập các cơ hội bình đẳng trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp
và tư vấn nghề nghiệp đối với từng học sinh; 7) Kết nối giữa nghiên cứu lý thuyết
cơ bản với nghiên cứu thực tiễn trong lĩnh vực tư vấn nghề nghiệp và giáo dục
hướng nghiệp.
Tại Philippin, một trong những mục tiêu giáo dục phổ thông là đào tạo
nguồn nhân lực với trình độ tay nghề cần thiết để có thể lựa chọn nghề. Chính
vì thế mà ở cấp II đã thực hiện giáo dục nghề nghiệp, và chuẩn của học sinh là
phải đạt được những kiến thức, kĩ năng, thông tin nghề nghiệp và tinh thần
làm việc tối thiểu cần thiết để có thể chọn nghề. Sang cấp III tập trung vào
một số lĩnh vực cụ thể như hướng nghiệp - dạy nghề.

Ở Thái Lan, ngay từ Tiểu học đã trang bị cho học sinh những kiến thức
cơ bản, kĩ năng tối thiểu của một số công việc nội trợ, nông nghiệp và nghề

7


thủ công. Sang cấp II đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp gắn với một
nghề trên cơ sở phù hợp với độ tuổi, sở thích, nhu cầu của mỗi học sinh, đây
là bước tiền đề cho học sinh vào cấp III. Giáo dục nghề nghiệp gắn liền với
hướng nghiệp nhằm cung cấp cho học sinh những kĩ năng nghề nghiệp, tất cả
các trường phải dạy nghề theo quy định của Bộ, học sinh đạt chuẩn sẽ được
cấp chứng chỉ nghề.
Jacques Delors, chủ tịch Uỷ ban quốc tế độc lập về giáo dục cho thế kỉ
XXI của UNESCO khi phân tích “ Những trụ cột của giáo dục” đã viết: “Học
tri thức, học làm việc, học cách chung sống và học cách tồn tại ", đó là 4 trụ
cột mà Uỷ ban đã trình bày và minh họa những nền tảng của giáo dục . Theo
tác giả vấn đề giáo dục hướng nghiệp và học nghề của học sinh phổ thông là
một căn bản không thể thiếu được trong giáo dục. Tác giả đã nhấn mạnh việc
học sinh có cơ hội phát triển năng lực của mình bằng cách tham gia các hoạt
động nghề nghiệp song song với việc học tập tri thức.
* Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
Giáo dục hướng nghiệp ở nước ta đã được tiến hành nghiên cứu và
triển khai khá sớm, từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Quyết định 126/CP
ngày 19/3/1981 của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của
công tác hướng nghiệp, nhất là hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Nghị
quyết Trung ương 2 của Đảng cộng sản Việt Nam (khoá VIII) đề ra nhiệm vụ
của ngành giáo dục cả nước là cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục
kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.
Trong những năm gần đây, các nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội học,
kinh tế học, chính trị học đã tiếp cận nhiều đến vấn đề dạy nghề phổ thông và hoạt

động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông ở các khía cạnh khác nhau.
“Đổi mới công tác hướng nghiệp cho phù hợp với kinh tế thị trường.
Quán triệt chủ trương đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh việc
củng cố và phát triển các trung tâm kỹ thuật tin học - hướng nghiệp - dạy nghề”
(Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm lao động - hướng nghiệp, Hà Nội, 1992)

8


của Giáo sư - Tiến sĩ Phạm Tất Dong. Kết quả cho thấy “Trong số những người
không kiếm ra việc làm có đến 85% là thanh niên. Trong tổng số thanh niên
đứng ngoài việc làm thì 67,4% là không biết nghề”. Trên cơ sở đó, tác giả xác
định cần: “Chú trọng việc hình thành những năng lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ
để tự tìm ra việc làm”, đồng thời: “Tiếp sau quá trình hướng nghiệp, dứt khoát
phải dạy nghề cho học sinh... đây sẽ là một nguyên tắc rất cơ bản”.
Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội; tác giả
Phạm Văn Liêm (2004): “Một số biện pháp quản lý công tác giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông trung học tại Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp Hướng nghiệp số 3 Hà Nội” đã khái quát các luận chứng lý luận và thực tiễn
cho hệ thống hướng nghiệp phổ thông và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tại
Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp số 3 Hà Nội.
Hội thảo khoa học, năm 2008, do Trường Đại học sư phạm Hà Nội chủ
trì về chủ đề “Định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột”, đã có nhiều bài viết về công tác
giáo dục hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh dân tộc, vùng cao của Trung
tâm nghiên cứu giáo dục dân tộc Bộ Giáo dục & Đào tạo và của nhiều nhà
khoa học trong nước được triển khai đã góp phần có hiệu quả dạy hướng
nghiệp phổ thông, đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương trên cả nước.
Trong luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh bổ túc trung học phổ thông tại các trung tâm giáo dục thường xuyên theo

định hướng phát triển nhân lực”, (2009), tác giả Huỳnh Thị Tam Thanh phân
tích, xem xét giáo dục hướng nghiệp trong mối quan hệ với định hướng phát
triển nguồn nhân lực. Cách tiếp cận này cho phép triển khai hoạt động giáo dục
hướng nghiệp một cách hiệu quả, có thể đi vào bản chất và gắn liền giữa hoạt
động giáo dục hướng nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng của nước ta cũng như các khu vực. Tác giả khẳng định: “Muốn phát triển
nhân lực, cần có những tác động tích cực vào quá trình giáo dục và đào tạo,

9


tuyển chọn và sử dụng lao động. Ở nhà trường trung học phổ thông, giáo dục có
tính chất tiền đề và có ảnh hưởng trực tiếp đến đầu vào của các hoạt động đào
tạo nghề, nền tảng để phát triển nguồn nhân lực cho xã hội. Bên ngoài nhà
trường, giáo dục được xem như là một hoạt động xuyên suốt từ trong suốt cả
cuộc đời đi học và tham gia sản xuất của mỗi con người, giúp học sinh củng cố
kiến thức, kỹ năng và vì thế, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”.
Tác giả Hoàng Đức với công trình: “Trong cơ chế đổi mới hiện nay vấn
đề chuẩn bị nghề nghiệp là một yêu cầu nóng bỏng của thực tế xã hội” đã
quan niệm học vấn phổ thông và học vấn nghề nghiệp có phần giao thoa ngày
càng rõ theo hướng mô đun hoá ở mức phổ thông. Phần giao thoa đó ngày
càng lớn nghĩa là công tác giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông
được tiến hành sớm và phát triển mạnh, đó là cơ sở cho việc định hướng và
phân luồng học sinh, chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Kết quả nghiên cứu của tác giả
hoàn toàn phù hợp với xu thế đổi mới của giáo dục trung học hiện nay, giáo
dục trung học đang ngày càng không còn là nền giáo dục cho một số ít người
như vào đầu thế kỷ XX, giáo dục trung học ngày nay không phải chỉ để cho
người học lên, mà còn chuẩn bị cho thanh niên đi vào thế giới lao động nghề
nghiệp, đặc biệt cho những ai chỉ có thể học hết bậc trung học.

Tác giả Đặng Danh Ánh với công trình “Giáo dục hướng nghiệp ở Việt
Nam” đã nghiên cứu, tập hợp các bài giảng, bài viết về hướng nghiệp đã công
bố ở trong nước hoặc số ít chưa công bố, đồng thời, bàn luận một số vấn đề
mới: sự nảy sinh các ngành nghề trong ba nền kinh tế (nông nghiệp, công
nghiệp, kinh tế tri thức); phân loại và mô tả các đặc điểm hoạt động nghề
nghiệp; cơ sở pháp lý hình thành hệ thống hướng nghiệp và các loại hình
hướng nghiệp ở Việt Nam; hướng nghiệp với vấn đề phân luồng và liên thông
trong hệ thống giáo dục quốc dân; …
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX-05-09: "Giáo dục phổ thông và
hướng nghiệp - nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá

10


- hiện đại hoá" đã tiến hành khảo sát học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh, cán
bộ quản lý trên phạm vi 8 tỉnh, thành phố. Theo số liệu đánh giá trên mẫu
điều tra giáo viên thì có tới 70% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông bước
vào đời không được giáo dục hướng nghiệp đầy đủ....
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập Mikhain
Vaxilevích Lômônôxop, huyện Từ Liêm, Hà Nội” của tác giả Võ Thị Mai
Hiền. Đã chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập Mikhain
Vaxilevích Lômônôxop, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đánh giá thực trạng giáo
dục hướng nghiệp và thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh trường trung học phổ thông, đề xuất hệ thống các biện pháp quản lý,
song cũng chưa đi sâu nghiên cứu giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thảo My với đề tài:“Nghiên cứu đề

xuất giải pháp hướng nghiệp cho học sinh phổ thông tại huyện Bảo Lâm,
tỉnh Lâm Đồng”. Tác giả đã làm rõ một số cơ sở lý luận về hướng nghiệp
cho học sinh phổ thông tại huyện Bảo lâm, tỉnh Lâm đồng, đánh giá thực
trạng những ưu điểm và hạn chế tồn tại của công tác hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông của huyện, trên cơ sở đó đề xuất 6 giải pháp
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông, đó là những tư liệu bổ ích cần
được kế thừa và phát triển.
Các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định vai trò quan trọng của
hoạt động hướng nghiệp của nhà trường trong việc định hướng nghề nghiệp
cho học sinh. Các công trình nghiên cứu cũng đưa ra được những thực trạng
hoạt động hướng nghiệp. Đây chính là thành tựu về cơ sở lý luận và thực tiễn
giúp cho công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường trung học phổ
thông được thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Tuy nhiên chưa có công

11


trình nào trực tiếp đề cập đến quản lý hoạt động hướng nghiệp ở các trường
trung học phổ thông trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Do đó, đề
tài tác giả lựa chọn không trùng lập với các công trình đã được công bố, đây
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đang diễn ra ở các trường trung học
phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý
giáo dục hướng nghiệp; đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh ở các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà
Nội, góp phần nâng cao nhận thức, chuẩn bị hành trang vững chắc cho các em
trên con đường lựa chọn ngành nghề trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quản lý hoạt giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục học sinh ở các trường trung học phổ thông quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

12


Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh ở 5 trường trung
học phổ thông trên địa bàn: Trung học phổ thông Cầu Giấy, Trung học phổ thông
Nguyễn Tất Thành, Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam, Trung
học phổ thông Yên Hòa, Trung học phổ thông Lý Thái Tổ.
Thời gian: Các số liệu, văn bản tổng kết được sử dụng trong luận văn từ
năm 2014 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
ở các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố. Nếu các chủ thể quản lý thực hiện đồng bộ các biện pháp

như: Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các trong nhà
trường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh; Xây dựng kế hoạch giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh phù hợp với các hoạt động chung của nhà trường;
Chỉ đạo đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh theo hướng mở, hiện đại, đa dạng hóa, linh hoạt,
liên thông giữa các khối, lớp; Phối hợp chặt chẽ các lực lượng tham gia giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh; Tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực giáo dục
hướng nghiệp cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; Đảm bảo các điều kiện
giáo dục hướng nghiệp; Thường xuyên kiểm tra, đánh giá giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh,... thì sẽ quản lý được hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về giáo dục. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu tác giả vận
dụng các quan điểm:
Quan điểm hệ thống - cấu trúc: Vấn đề được nghiên cứu một cách toàn
diện, khách quan: Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường

13


trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội được xem xét trong
mối quan hệ với các hoạt động khác trong nhà trường; thực hiện đồng bộ bốn
con đường giáo dục hướng nghiệp, giảng dạy hoạt động giáo dục hướng
nghiệp và bồi dưỡng đội ngũ tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông gắn với mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Quan điểm thực tiễn: Trên cơ sở điều tra, nghiên cứu thực tế, phân tích
để phát hiện những tồn tại trong quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp các

trường trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, từ đó đề ra
những biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp
ở các trường trung học phổ thông.
Quan điểm lịch sử, lôgic: Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của hoạt
động giáo dục hướng nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, xem xét
xu thế phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và
trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua cùng
với những thành tựu cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá những vấn
đề lý luận trong các văn bản, tài liệu, sách báo,... có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát có chủ định cách tổ
chức, tiến hành quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp, quản lý cơ sở
vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học phục vụ cho công tác giáo
dục hướng nghiệp các trường trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội nhằm thu thập thông tin về thực trạng công tác quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp.
Phương pháp đàm thoại: Tiến hành trò chuyện, phỏng vấn sâu với các
giáo viên và học sinh nhằm làm rõ hơn những thông tin thu được về hoạt

14


động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ở quận Cầu
Giấy, Thành phố Hà Nội và các vấn đề khác từ khảo sát thực tiễn được minh
họa bằng lời phát biểu, lời nói của giáo viên và học sinh trung học phổ thông.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:

Xây dựng hai loại phiếu hỏi:
1) Dành cho cán bộ quản lý, giáo viên, các lực lượng tham gia giáo dục
hướng nghiệp;
2) Dành cho học sinh trung học phổ thông nhằm khảo sát thực trạng
giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.
Số lượng khách thể khảo sát: 110 giáo viên và cán bộ quản lý; 215 học
sinh lớp 12 của 5 trường trung học phổ thông công lập: trung học phổ thông
Cầu Giấy, trung học phổ thông Nguyễn Tất Thành - Cầu Giấy, trung học phổ
thông chuyên Hà Nội - Amsterdam, trung học phổ thông Yên Hòa, trung học
phổ thông Lý Thái Tổ.
Nội dung khảo sát: tập trung làm rõ nhận thức của cán bộ, giáo viên về
vai trò của hoạt động giáo dục hướng nghiệp; thực trạng giáo dục hướng
nghiệp; thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp và sự cần thiết, tính khả thi
của các biện pháp đề xuất.
Kết quả khảo sát được tính tần suất %; gán điểm lượng hoá để phân
tích, minh hoạ cho thực trạng và rút ra kết luận cần thiết.
Phương pháp chuyên gia:
Trao đổi, xin ý kiến chuyên gia về quản lý giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông nói chung, ở quận Cầu Giấy nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Nghiên cứu các kế hoạch giáo dục hướng nghiệp, kế hoạch bài dạy giáo
dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng, giáo viên các trường trung học phổ thông
ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nhằm thu thập thông tin về quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp.

15


Sử dụng phương pháp thống kê toán học và các phương pháp bổ trợ để

xử lý, phân tích các số liệu thu được.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã khái quát hóa, hệ thống hóa lý luận về giáo dục hướng
nghiệp và quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong các nhà trường
trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, xác định được các
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục hướng nghiệp. Kết quả nghiên cứu
của luận văn làm cơ sở quan trọng cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy trong
giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
công tác hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ở quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, (8 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

16


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông
* Khái niệm giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp là khái niệm được xem xét, nghiên cứu dưới nhiều góc
độ và phương diện khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt: Hướng nghiệp là thi hành những biện pháp
nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu theo ngành và loại lao động.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: Hướng nghiệp là một hệ thống các
biện pháp giáo dục nhằm chuẩn bị cho học sinh sớm có ý thức chọn ngành
nghề vừa phù hợp với sự phân công lao động xã hội ngay từ khi còn học ở
trường phổ thông.
Từ các khái niệm trên có thể hiểu: Hướng nghiệp là các hoạt động
nhằm hỗ trợ cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp
nhất với khả năng của bản thân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực của thị
trường lao động ở cấp độ địa phương và quốc gia.
Giáo dục hướng nghiệp là khái niệm được nghiên cứu, phân tích dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả Hồ Văn Thống đưa ra quan niệm: “Giáo dục hướng nghiệp là
một hệ thống các biện pháp giáo dục của Nhà trường, gia đình, xã hội
nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ tư tưởng, tâm lý, tri thức, kỹ năng… để họ có
thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động sản xuất, vào cuộc sống… Có
thể nói ngắn gọn rằng, giáo dục hướng nghiệp là hướng dẫn cho học sinh
ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề lao động
mà sau này họ sẽ chọn”.

17


Tác giả Phạm Văn Khanh thì cho rằng: “Giáo dục hướng nghiệp là
một bộ phận của giáo dục toàn diện. Trong trường phổ thông, giáo dục
hướng nghiệp là hoạt động được thực hiện bởi giáo viên và học sinh và
được tiến hành qua nhiều hình thức giáo dục hướng nghiệp khác nhau
nhưng tập trung vào thực hiện mục đích giúp cho học sinh lựa chọn nghề
vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vừa phù hợp với nguyện
vọng, năng lực, thể lực của học sinh để các em phát huy được khả năng bản
thân trong cuộc sống nghề nghiệp”.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể nhận thấy một số

vấn đề có tính thống nhất, bao gồm:
Giáo dục hướng nghiệp được phân tích, nhìn nhận dưới góc độ của lý
thuyết hệ thống - cấu trúc. Nghĩa là giáo dục hướng nghiệp bao gồm nhiều
thành tố và các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, trọn vẹn, trong đó sự vận động và phát triển của các thành
tố tạo nên sự vận động của cả hệ thống;
Giáo dục hướng nghiệp được xem xét như một bộ phận của hệ thống lớn
hơn, đó là giáo dục toàn diện và quan hệ mật thiết với việc cung cấp, phát triển
nguồn nhân lực cho thị trường lao động, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng;
Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện bởi nhà trường, gia đình và xã
hội. Trong đó, nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng; Giáo dục hướng
nghiệp trong nhà trường được thực hiện bởi nhiều lực lượng, nhưng giáo viên
giữ vai trò chủ đạo; các lực lượng khác có vai trò phối hợp và hỗ trợ.
Từ góc độ tiếp cận trên, có thể hiểu: Giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh là những tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà trường, gia đình và
xã hội (trong đó nhà trường giữ vai trò chủ đạo) nhằm hướng dẫn và chuẩn

18


bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ giúp học sinh tự lựa chọn tiếp tục học
tập hay lựa chọn nghề nghiệp (tham gia lao động, sản xuất) phù hợp với khả
năng của bản thân, điều kiện gia đình và nhu cầu của xã hội.
* Khái niệm giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông
Trung học phổ thông là là cấp học cuối cùng của bậc phổ thông. Mục
tiêu của cấp trung học phổ thông là: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm
giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ
sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ

thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn
hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động” [32].
Trường trung học phổ thông thuộc cấp học cuối cùng của giáo dục
trung học phổ thông, thời gian học 3 năm từ lớp 10 đến hết lớp 12, là bậc học
hoàn thiện kiến thức phổ thông cho học sinh, là cấp học vừa trực tiếp tạo
nguồn cho bậc cao đẳng, đại học nói riêng vừa góp phần quan trọng vào việc
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói
chung. Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Đảng chỉ rõ mục tiêu của giáo
dục là: Phát triển con người toàn diện, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông là bước khởi đầu
quan trọng trong quá trình phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, quản lý giáo dục
hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay là quản
lý các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của quá trình giáo
dục hướng nghiệp nhằm đạt mục tiêu giáo dục hướng nghiệp.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông
được luận giải trên nền tảng lý luận chung về giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường phổ thông nói chung. Trung học phổ thông là bậc cuối trong

19


chương trình giáo dục phổ thông, sau bậc học này, học sinh sẽ quyết định lựa
chọn cho tương lai: có thể học đại học, cao đẳng, học nghề hay lao động sản
suất. Bước vào bậc cuối cấp của nhà trường phổ thông, tuổi trẻ học đường
thường có những hoài bão lớn lao gắn liền với cuộc sống tương lai của các
em. Không ít các câu hỏi đại loại như: mình sẽ làm gì?, mình chọn nghề gì?,
nghề nào hay nhất?... luôn xuất hiện trong suy nghĩ tuổi trẻ nhằm tìm kiếm
một vị trí thích hợp cho bản thân mình.
Đối với một số học sinh, việc tìm ra câu trả lời cho những vấn đề trên là

không khó lắm. Song, ở phần đông số học sinh còn lại những câu hỏi trên đặt
ra cho các em nhiều trăn trở, buộc các em phải đắn đo, suy nghĩ kỹ càng, bởi
có biết bao nghề để gửi gắm số phận của mình, có biết bao con đường để đạt
tới mục đích của cuộc sống riêng. Trước tiên cần thấy rằng việc xác định cho
mình một hướng đi, một nghề nghiệp chỉ có thể có được ở những cá nhân có
khả năng nhận thức và nhận thức một cách tự do các lĩnh vực nghề nghiệp, có
khả năng xem xét, so sánh, đánh giá những dạng khác nhau của hoạt động lao
động để đi tới một quyết định cho bản thân. Tất nhiên, sự tự lựa chọn này
không bao giờ được coi là tuyệt đối, bởi vì nó còn bị giới hạn bởi điều kiện:
kinh tế, chính trị, xã hội, năng lực bản thân...
Như vậy, lựa chọn nghề là một quá trình biểu hiện tính năng động của chủ
thể, nó không chỉ liên quan tới nội dung hay hình thức của đối tượng lựa chọn mà
còn chịu sự chi phối của chính tính năng động ấy. Điều chỉnh, hướng dẫn và phát
triển tính năng động này cho mỗi học sinh là trọng trách của công tác hướng
nghiệp, nó tham gia vào hệ thống các yếu tố khách quan điều chỉnh các điều kiện
chủ quan, giúp cho học sinh định hướng nghề nghiêp một cách khoa học và đúng
đắn. Do vậy, việc tổ chức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
có vai trò rất quan trọng giúp các em lựa chon được con đường, hướng đi của mình.
Với những phân tích nêu trên, Giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông là những tác động có

20


mục đích của nhà giáo dục đến học sinh, nhằm định hướng,
điều chỉnh và chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng, thái độ để sau
khi học sinh tốt nghiệp có lựa chọn hướng học, hướng chọn
nghề phù hợp với điều kiện gia đình và nhu cầu của xã hội.
Trong trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy
của giáo viên, vừa là hoạt động học của học sinh. Nói như thế có nghĩa là

trong công tác hướng nghiệp, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn còn học
sinh là người chủ động tham gia vào hoạt động này để tiếp cận với hệ thống
nghề nghiệp. Kết quả cuối cùng của công tác giáo dục hướng nghiệp là sự tự
quyết định của học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Nói cách khác, giáo dục hướng nghiệp là hướng dẫn cho học sinh ngay
khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề lao động mà sau
này các em sẽ chọn. Giáo dục hướng nghiệp còn góp phần phát huy năng lực,
sở trường của từng học sinh, đồng thời cũng góp phần điều chỉnh nguyện vọng
của cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu phân công lao động trong xã hội.
Mục đích của giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
là hình thành năng lực tự chủ trong việc quyết định lựa chọn nghề của học
sinh trên cơ sở của sự phù hợp giữa năng lực, sở thích của cá nhân với nhu
cầu sử dụng lao động trong các hoạt động của đời sống xã hội. Thực hiện
được mục đích nêu trên, giáo dục hướng nghiệp sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả lao động xã hội, tiết kiệm thời gian và chi phí đào tạo không đáng có do
sự lựa chọn sai nghề nghiệp, điều chỉnh từ gốc sự phân luồng, chất lượng
nguồn lao động dự trữ trên bình diện cả nước.
Giáo dục hướng nghiệp trước hết cần đảm bảo chức năng giáo dục toàn
diện, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với nhiều ngành nghề khác
nhau trong xã hội và hiểu được nhu cầu sử dụng nhân lực của đất nước, thấy
được những yêu cầu của nghề. Trên cơ sở đó kích thích học sinh tự giác tìm

21


hiểu và phấn đấu để có dự kiến lựa chọn vươn tới nghề. Như vậy, giáo dục
hướng nghiệp có chức năng chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng đi vào cuộc sống
và lao động sản xuất, đó là sẵn sàng về mặt tri thức, tư tưởng, kỹ năng hành
động và đạo đức, lương tâm nghề nghiệp.
Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông bao

gồm: Định hướng nghề nghiệp; tư vấn nghề; tuyển chọn nghề.
Con đường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
bao gồm: Hướng nghiệp qua dạy - học các môn văn hoá; hướng nghiệp qua
dạy - học môn Công nghệ, dạy nghề phổ thông; hướng nghiệp qua hoạt động
trải nghiệm giáo dục hướng nghiệp; hướng nghiệp qua hoạt động tham quan,
ngoại khoá. Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông có ý
nghĩa vô cùng to lớn về mặt giáo dục, kinh tế, chính trị và xã hội.
1.1.2. Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường
trung học phổ thông
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, là một phạm trù tồn tại
khách quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc
gia, mọi thời đại. Thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa quản lý
từ các góc độ khác nhau.
Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có mục đích, có kế
hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể quản lý đến khách thể về các mặt
chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được
mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức
hoạt động có hiệu quả.

22


Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội: quản lý
gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện
công việc và đạt được mục đích của nhóm. Nói một cách đơn giản, dễ hiểu thì
có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích, của chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Các nhà nghiên cứu cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản liên quan
mật thiết với nhau, bao gồm: Chức năng kế hoạch; chức năng tổ chức thực
hiện; chức năng chỉ đạo; chức năng kiểm tra.
Mặc dù quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền với xã hội nhưng chỉ
khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý mới được tách ra
thành một chức năng riêng của lao động xã hội; dần dần hình thành những tập
thể, những tổ chức và cơ quan chuyên hoạt động quản lý - hệ thống quản lý.
Quản lý là hoạt động cần thiết cho toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Các hoạt động càng phức tạp, có sự phối hợp nhiều lực lượng
có liên quan càng đòi hỏi cần phải có sự quản lý.
Giáo dục là một bộ phận quan trọng của xã hội, vì vậy quản lý giáo dục
là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống quản lý xã hội. Quản lý giáo
dục có thể chia hai cấp độ là vĩ mô và vi mô. Ở cấp độ vĩ mô, đây là hoạt
động, điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh hoạt động
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội hiện nay. Ở cấp độ vi mô là quản lý giáo
dục tại các cơ sở giáo dục, các trường học, bao gồm một chuỗi tác động hợp
lý mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và
học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài trường, nhằm huy
động họ cùng cộng tác, phối hợp tham gia vào hoạt động của nhà trường, làm
cho quy trình này vận hành tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến.
Tóm lại, quản lý giáo dục là quá trình tác động có mục đích, kế hoạch
của chủ thể quản lý nhằm huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao

23


chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường; đẩy mạnh hoạt động của nhà
trường theo nguyên lý giáo dục và tiến đến mục tiêu giáo dục.
Hoạt động quản lý giáo dục nhà trường bao gồm nhiều nội dung khác
nhau, nhiều hoạt động khác nhau. Đối với các trường trung học phổ thông, giáo

dục hướng nghiệp cho học sinh là một nội dung nằm trong chương trình giáo
dục trung học phổ thông. Để giáo dục hướng nghiệp cho học sinh đạt chất
lượng tốt, các trường trung học phổ thông phải quản lý các hoạt động này.
Từ phân tích trên, có thể quan niệm: “Quản lý giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông là những tác động có mục đích, có kế hoạch của
các chủ thể quản lý đến giáo dục hướng nghiệp cho học sinh thông qua việc huy
động nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin của nhà trường và xã hội để đạt được
mục tiêu giáo dục hướng nghiệp nhằm điều chỉnh, định hướng học sinh trung
học phổ thông trong lựa chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường, năng
lực của bản thân, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội”.
* Mục tiêu quản lý giáo dục hướng nghiệp: Quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông nhằm huy động tốt nhất
các nguồn lực để thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh và thực hiện có
chất lượng, hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông.
* Chủ thể quản lý: Chủ thể quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở
các trường trung học phổ thông, bao gồm các tổ chức, cá nhân: Các lực lượng
quản lý ở trường trung học phổ thông; các tổ chức, đơn vị phối hợp; cha mẹ học
sinh. Trong đó, các chủ thể quản lý ở nhà trường giữ vai trò chủ đạo, có tính chất
quyết định; các tổ chức, đơn vị phối hợp giữ vai trò phối hợp, hỗ trợ; cha mẹ học
sinh giữ vai trò hỗ trợ. Cụ thể:
Ban Giám hiệu trường trung học phổ thông, đứng đầu là hiệu trưởng là
người có quyền hạn, trách nhiệm cao nhất trong lãnh đạo, quản lý các hoạt

24


động của Nhà trường trong đó có giáo dục hướng nghiệp. Giúp việc cho hiệu
trưởng trong quản lý giáo dục hướng nghiệp có bộ máy tổ chức quản lý gồm
các Phó hiệu trưởng, các bộ phận, đơn vị trong nhà trường do Hiệu trưởng

xây dựng và giao nhiệm vụ quản lý theo nguyên tắc phân cấp quyền hạn và
trách nhiệm tùy thuộc vào vị trí công tác và vai trò giáo dục của các cá nhân
đơn vị cấp dưới, đặc điểm về nguồn nhân lực và biên chế tổ chức của trường
trung học phổ thông.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Trong cơ cấu bộ máy
hoạt động của trường trung học phổ thông, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh là những tổ chức chịu trách nhiệm cùng với giáo viên chủ nhiệm quản
lý, tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt tư tưởng cho học sinh. Giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh được thực hiện thông qua bốn hình thức, nội
khóa và ngoại khóa. Vì vậy, vai trò quản lý, tổ chức thực hiện các nội dung
giáo dục hướng nghiệp của tổ chức Đoàn hết sức quan trọng. Đây là cơ sở
quan trọng để cán bộ quản lý nhà trường có thể thiết kế bộ máy tổ chức quản
lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phù hợp và đạt hiệu quả cao.
Giáo viên chủ nhiệm: Với vai trò rất quan trọng, ngoài nhiệm vụ giảng
dạy văn hóa đơn thuần, đa số giáo viên của trường trung học phổ thông thực hiện
chức năng quản lý học sinh, người giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo trong
tổ chức các hoạt động giáo dục và theo dõi kết quả giáo dục nói chung, giáo dục
hướng nghiệp nói riêng của lớp do mình chủ nhiệm nói riêng. Với vai trò quản lý
như vậy cho nên giáo viên chủ nhiệm được sử dụng như một lực lượng nòng cốt
trong giáo dục hướng nghiệp để đào tạo theo địa chỉ, định hướng nghề cho học
sinh đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Hội cha mẹ học sinh: Hội cha mẹ học sinh và từng phụ huynh học sinh
tuy không phải là chủ thể chính tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp
nhưng họ có vai trò rất quan trọng chi phối đến những quyết định con đường

25


tương lai của con em mình; đồng thời họ là lực lượng hỗ trợ nhà trường tổ
chức giáo dục hướng nghiệp, tư vấn nghề cho học sinh.

* Đối tượng quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và những người được nhà trường giao
nhiệm vụ tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường chính
là đối tượng quản lý; tập thể học sinh trong nhà trường phổ thông; các tổ chức,
đoàn thể xã hội,... Đối tượng quản lý còn bao gồm các phương pháp, hình thức
giáo dục hướng nghiệp, các điều kiện đảm bảo cho giáo dục hướng nghiệp.
* Phương pháp, hình thức quản lý giáo dục hướng nghiệp: Ở trường
trung học phổ thông, giáo dục hướng nghiệp được thực hiện thông qua nhiều
hình thức, phương pháp khác nhau, như: giáo dục hướng nghiệp thông qua dạy
học các môn văn hóa (nhất là môn giáo dục công dân, kỹ thuật tổng hợp,...);
thông qua các buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo;
thông qua các chuyến tham quan, dã ngoại,...
1.2. Nội dung quản lý giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông
1.2.1. Quản lý mục tiêu giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung
học phổ thông
Mục tiêu giáo dục là cái đích cần hướng tới của quá trình giáo dục, là
mong muốn của chủ thể giáo dục về những gì đối tượng giáo dục cần đạt
được sau khi kết thúc quá trình giáo dục.
Mục tiêu giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông là
những mong muốn của nhà trường, của nhà giáo dục về những gì học sinh cần
đạt được thông qua quá trình giáo dục hướng nghiệp. Đó là nhằm phát triển
và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách nghề nghiệp cho học sinh, giúp các em
hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề; định hướng cho học sinh đi vào những lĩnh
vực mà xã hội đang có yêu cầu.

26



×