Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở trường trung cấp cảnh sát nhân dân VI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.43 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển sự nghiệp GD - ĐT, đội ngũ giáo viên giữ vai
trò vô cùng quan trọng. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII cũng xác định:
“Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn
vinh” [10, tr.38]. Do vậy, việc bồi dưỡng giáo viên là yêu cầu tất yếu của công
tác quản lý giáo dục, là một nhân tố quan trọng trong nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo. Có nhiều nội dung bồi dưỡng giáo viên, song bồi dưỡng về
NLSP là nội dung có ý nghĩa đặc biệt.
Năng lực sư phạm là yếu tố quyết định hiệu quả lao động sư phạm của
người thầy giáo. NLSP là dạng năng lực đặc thù của năng lực con người trong
lĩnh vực giáo dục. Đó là một trong hai yếu tố quyết định giá trị nhân cách của
người giáo viên, quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình lao động
sáng tạo của nghề dạy chữ - dạy người. Đó là yếu tố quan trọng cấu thành
chất lượng tay nghề của giáo viên.
Thực tiễn ở các trường TCCS nhân dân nói chung và Trường TCCS nhân
dân VI nói riêng nhiều năm qua đã cho thấy: năng lực sư phạm của giáo viên còn
“bất cập” cả về tri thức chuyên môn, phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp, cả về
khả năng tổ chức quá trình giáo dục, dạy học. Một số giáo viên năng lực dạy học
chưa toàn diện, trình độ kỹ năng dạy học chưa thành thạo, thiếu sáng tạo trong
hoạt động thực tiễn dạy học, chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, khả năng truyền
tải nội dung dạy học thiếu tính khoa học, chưa biết vận dụng tổng hợp các
phương pháp dạy học, giáo dục… Do giáo viên của các trường TCCS, trong đó
có Trường TCCS VI được đào tạo ở nhiều trường khác nhau và hầu hết chưa qua
đào tạo sư phạm nên trình độ, năng lực sư phạm không đồng đều. Để giải quyết
những “bất cập” ấy nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì hoạt động
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở các TCCS nhân dân nói chung ,
Trường TCCS nhân dân VI nói riêng ngày càng trở nên bức thiết.
1



Thời gian qua, Trường Trung cấp cảnh sát nhân dân VI đã thường xuyên
tiến hành các hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên nhưng chất
lượng, hiệu quả chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập trên,
trong đó có nguyên nhân xuất phát từ công tác tổ chức và quản lý hoạt động bồi
dưỡng của Nhà trường chưa khoa học, chặt chẽ.
Thực tế đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu để tìm ra những biện pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên của Nhà trường.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên ở Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân VI” để nghiên cứu với mong
muốn tìm ra lời giải cho bài toán thực tiễn nói trên, góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của
Nhà trường.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những nghiên cứu trên thế giới
J.A Kômenxky (1592-1670) là nhà giáo dục lỗi lạc, người đặt nền
móng cho lý luận dạy học hiện đại, tác giả đánh giá cao vai trò của giáo dục
và coi nghề dạy học là nghề vinh quang nhất. Ông cho rằng, phương pháp
giảng dạy muốn trở nên hấp dẫn, điều hiển nhiên là “không thể thiếu năng
khiếu dạy học”. Trong quá trình tổ chức dạy học, giáo viên cần chuẩn bị bài
giảng “ngắn gọn nhưng phải xúc tích. Mỗi quy tắc cần diễn đạt thật xúc tích
nhưng lời lẽ phải rõ ràng và nên có thật nhiều thí dụ để học sinh nhận thức
được đầy đủ sự bổ ích rộng lớn của nó”. Kômenxky đề ra yêu cầu cao về
năng lực của người thầy và cũng là người đầu tiên đặt nền tảng cho việc hình
thành kỹ năng giảng dạy của thầy giáo.
Dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin các nghiên cứu
của: B.M. Chieplôp; X.L. Rubinstêin; X.I. Kixêgốp; A.N. Lêonchiev; N.X.
2



Lâytex; A.G. Côvaliov; Ph.N. Gônôbôlin; B.G. Ananhiev; A.V. Pêtrovxki và
một số tác giả khác đã có những nghiên cứu tương đối toàn diện về năng lực
sư phạm. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu năng lực dạy
học của người giáo viên. Nhưng đáng chú ý là A.S.Makarencô, nhà giáo dục
nổi tiếng từng nhấn mạnh rằng, những người làm công tác dạy học, giáo dục
phải có phẩm chất và năng lực, đặc biệt là tri thức và nghệ thuật dạy học, giáo
dục. Để trở thành nhà giáo dục chân chính Ông yêu cầu phải thực sự coi trọng
nghề nghiệp, tích cực làm việc, rèn luyện trau dồi tri thức toàn diện. Những
đóng góp của Makarencô cho lý luận dạy học, giáo dục là vô cùng lớn lao
nhất các vấn đề về đào tạo giáo viên.
X.I.Kixêgốp đã nghiên cứu “Hình thành kỹ năng sư phạm cho sinh viên
trong điều kiện nền giáo dục đại học”, đã nêu ra hơn 100 kỹ năng nghiệp vụ
giảng dạy và giáo dục, tập trung 50 kỹ năng cần thiết, phân chia luyện tập
theo thời kỳ, thực tập, thực hành cụ thể. A.V.Pêtrovxki cho rằng, để có được
trình độ tài nghệ sư phạm cao trong giảng dạy, giáo dục học sinh phụ thuộc
nhiều vào những phẩm chất nhân cách của người giáo viên và năng lực dạy
học là một thành phần quan trọng của năng lực sư phạm. Còn
Ph.N.Gônôbôlin quan niệm: “ năng lực gắn liền với các kiến thức và kỹ năng
của con người. Khi càng hiểu biết về một lĩnh vực nào đó thì năng lực hoạt
động về lĩnh vực này của con người càng phát triển nhanh”.
Gần đây, dựa trên lý thuyết kiến tạo (constructivism) một số tác giả
như: Ann Grosso de Leon; Anne Reynolds; Robert Glaser; Jegede Margaret
Taplin đưa ra quan điểm "mô thức mới về giáo dục sư phạm" và cho rằng, sự
phát triển năng lực dạy học của người giáo viên, trước hết dựa trên nền tảng
kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, giá trị vững chắc của họ. Giáo viên sáng tạo ra
những tri thức mới dựa trên nền tảng đó. Mặt khác, sự phát triển năng lực
chuyên môn giảng dạy cũng được thể hiện trong quá trình hợp tác giữa giáo
viên - học sinh và cùng mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong giáo dục.
3



Linda Darling nhận xét: "Đầu tư vào kiến thức, kỹ năng của giáo viên sẽ có
tác dụng làm gia tăng kết quả học tập của học sinh lớn hơn bất kỳ một việc sử
dụng ngân sách giáo dục nào khác".
Nghiên cứu về năng lực con người: F.Gantol với tác phẩm “Sự di
truyền của tài năng”. Trải qua một thời kỳ dài, vấn đề phát triển năng lực của
con người đã được nhiều nhà khoa học, nhiều ngành tập trung nghiên cứu.
Ở Mỹ và một số nước khác, việc nghiên cứu vấn đề này được dựa trên
cơ sở của Tâm lí học hành vi và Tâm lí học chức năng. Theo đó năng lực sư
phạm, mà chủ yếu là kĩ năng dạy học được hình thành trong quá trình rèn
luyện (J. Watson, A.Pojoux, F. Skinner, J.B. Bigs và Tellfer (1987), K. Barry
và L. King (1993)) [5].
Việc nghiên cứu vấn đề này cũng được chú trọng ở Liên Xô và các nước
Xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, mà trọng tâm là cấu trúc nhân cách nói
chung và năng lực sư phạm của người thầy giáo nói riêng, sự hình thành chúng
trong quá trình đào tạo và sự hoàn thiện trong quá trình hành nghề.
N.V. Cudomina với công trình “Hình thành các năng lực sư phạm”, đã
xác định các năng lực sư phạm cần có của người giáo viên, việc phát hiện và
bồi dưỡng các năng khiếu sư phạm. O.A.Apđulinna trong “Bàn về kĩ năng sư
phạm” đã phát triển vấn đề kĩ năng sư phạm trở thành một hệ thống lí luận
tương đối hoàn chỉnh. Tác giả phân biệt hai nhóm kĩ năng sư phạm cơ bản, đó
là kĩ năng chung và kĩ năng chuyên biệt cho từng hoạt động. Tác giả cũng chỉ
ra được nội dung của từng kĩ năng sư phạm cụ thể [2].
Trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, Ph. N.
Gô-nô-bô-lin đã nêu ra những năng lực sư phạm mà người giáo viên cần phải
có và cách thức rèn luyện đề hình thành, phát triển và hoàn thiện [17].
Trong công trình “Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo sư phạm trong điều
kiện giáo dục đại học”, X.L.Kixegov và các cộng sự đã nêu ra hơn 100 kĩ
năng, trong đó có 50 kĩ năng cơ bản và tối thiểu cần thiết cho hoạt động nghề

4


nghiệp của người giáo viên. Nghiên cứu cũng chỉ ra được con đường và các
giai đoạn của việc hình thành chúng.
* Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam trong lĩnh vực khoa học giáo dục, từ những năm 1960 có
nhiều nghiên cứu về dạy học, nhân cách người giáo viên. Tác giả Lê Văn
Hồng [15] nghiên cứu “Một số vấn đề năng lực sư phạm của người giáo viên
xã hội chủ nghĩa”. Đã nêu tương đối cụ thể về những mặt riêng biệt của năng
lực sư phạm người giáo viên xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luận văn thạc sĩ của
Lê Thị Nhật [24] “Bước đầu tìm hiểu năng lực dạy học của người giáo viên
Tâm lý - giáo dục”. Đã đề cập đến một số nội dung về năng lực dạy học của
người giảng viên Tâm lý-giáo dục. Các nghiên cứu này đã tạo ra cơ sở lý luận
ban đầu, gợi mở phương hướng rèn luyện, bồi dưỡng năng lực dạy học.
Từ năm 1990, có nhiều nghiên cứu về bồi dưỡng khả năng dạy học của
các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khánh Bằng, Phan Thanh Bình. Các tác giả
quan niệm, năng lực dạy học là một phương diện của năng lực sư phạm, có sự
nhấn mạnh năng lực truyền đạt tri thức, khả năng giúp người học nắm vững
tri thức, biết vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Theo tác giả Phạm
Minh Hạc, sự thành công trong việc dạy học và giáo dục học sinh đòi hỏi
người thầy giáo phải có thế giới quan tiên tiến, những phẩm chất đạo đức cao
quý, trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cao. Tác giả Hà Nhật
Thăng cho rằng: "Năng lực sư phạm đối với thầy giáo bao gồm năng lực dạy
học và năng lực tổ chức hoạt động giáo dục” [28]. Một số học giả khác như
Hồ Ngọc Đại [6], Lê Văn Hồng, Bùi Văn Huệ [15] khi nghiên cứu năng lực
sư phạm đã chỉ ra, năng lực dạy học là sự sáng tạo không ngừng trong truyền
thụ tri thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Nhóm tác giả Nguyễn Đình Chỉnh, Thái Duy Tuyên, Nguyễn Quang Uẩn,
Nguyễn Như An [3] quan niệm, năng lực dạy học là một yếu tố của nhóm năng

lực sư phạm cùng với nhóm năng lực giáo dục, tổ chức hoạt động giáo dục.
5


Đặng Thị Lan, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội
với đề tài Rèn luyện năng lực sư phạm cho người thầy giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh (2001), tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng, rèn luyện năng lực sư phạm cho người thầy giáo và đặc biệt nhấn mạnh
đến công tác bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên của Đảng ủy,
Ban giám hiệu trường Đại học Ngoại ngữ trên tinh thần quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh. Điều đó đã thực sự góp phần phát triển cả về số lượng lẫn chất
lượng đội ngũ giáo viên ở nhà trường nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ
của nhà trường trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả Nguyễn Sỹ Trung với bài báo khoa học Bồi dưỡng kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm cho giảng viên trẻ ở Đại học Giao thông Vận tải hiện nay, đã phân
tích cụ thể thực trạng kỹ năng nghiệp vụ sư phạm của các giảng viên trẻ và công
tác bồi dưỡng giảng viên của nhà trường, từ đó đưa ra một số giải pháp đồng bộ
để khắc phục những hạn chế đồng thời góp phần nâng cao kỹ năng nghiệp vụ sư
phạm cho giảng viên trẻ ở trường Đại học Giao thông Vận tải nhằm đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp xây dựng và phát triển nhà trường trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả Nguyễn Thị Hải trong bài: “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên trung học chuyên nghiệp” đã luận giải vai trò của giáo dục trung học
chuyên nghiệp và cho rằng việc tổ chức giảng dạy phải phát huy được tính tích
cực của người học, vì thế cần xây dựng chương trình bồi dưỡng cho giáo viên
đảm bảo cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đào tạo đặt ra.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Hồng Lượng “Những giải pháp bồi
dưỡng giáo viên trường dạy nghề” (1996) đã đề cập đến thực trạng bồi dưỡng
giáo viên ở các trường dạy nghề và đề xuất những giải pháp bồi dưỡng và
quản lý bồi dưỡng giáo viên trường dạy nghề.
Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Châu, Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Trí

khi nghiên cứu về chất lượng giáo dục đã chỉ ra, người thầy cần có kiến thức
6


sâu về chuyên môn; kiến thức chung tốt; có kỹ năng, kỹ thuật dạy học hiệu
quả và thái độ tích cực đối với nghề nghiệp. Giáo viên cần có năng lực dạy
học: "người giáo viên cần có trí tưởng tượng và óc sáng tạo để làm cho bài
giảng sống động, hấp dẫn đối với học sinh"[2 ].
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn
Tính cho rằng năng lực dạy học bao gồm các năng lực cụ thể như: năng
lực hiểu biết kiến thức chuyên môn; năng lực hiểu người học; năng lực
chế biến tài liệu học tập; năng lực sử dụng kỹ thuật dạy học; năng lực
ngôn ngữ [21]. Tác giả Bùi Thị Mai Đông nghiên cứu “Những thành tố
tâm lý trong năng lực dạy học” đã làm sáng tỏ cấu trúc năng lực dạy học
dưới góc độ Tâm lý học.
Nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, Đặng Bá Lãm [20] với công trình
nghiên cứu “Giáo viên dạy nghề nước ta - thực trạng đội ngũ và năng lực dạy
học thực hành” đã đi sâu tìm hiểu thực trạng, cấu trúc năng lực dạy học thực
hành của giáo viên dạy nghề. Tác giả Vũ Xuân Hùng trong bài viết “Xây
dựng quy trình rèn luyện năng lực dạy học của sinh viên đại học sư phạm kỹ
thuật” đã đề xuất quy trình rèn luyện năng lực dạy học gồm 7 bước trong thực
tập sư phạm của sinh viên sư phạm kỹ thuật [16].
Trong lĩnh vực quân sự các tác giả Đặng Đức Thắng, Mai Văn Hoá,
Trần Đình Tuấn, Phạm Minh Thụ, Nguyễn Văn Phán, Nguyễn Văn Chung cho
rằng, năng lực dạy học là một nhân tố cơ bản tạo thành tài nghệ sư phạm
trong cấu trúc văn hoá sư phạm của người giáo viên. Người giáo viên muốn
đạt được hiệu quả cao trong dạy học, giáo dục không chỉ cần nắm vững kiến
thức chuyên môn, kiến thức nghề nghiệp, mà còn phải thành thạo kỹ xảo, kỹ
năng sư phạm; có tư duy sư phạm phát triển cao, óc quan sát tinh tế, sâu sắc,
sự am hiểu tâm lý học viên [29].

Đề tài khoa học cấp học viện “Giải pháp rèn luyện kỹ năng sư phạm
cho học viên Hệ đào tạo giáo viên ở Học viện Chính trị hiện nay” năm 2010
7


do tác giả Phạm Minh Thụ làm chủ nhiệm đã cho rằng; kỹ năng sư phạm là sự
biểu hiện về năng lực của người giáo viên trong quá trình tiến hành các hoạt
động sư phạm. Khẳng định sự cần thiết và đề xuất nhiều giải pháp cụ thể
nhằm rèn luyện kỹ năng sư phạm cho học viên đào tạo giáo viên hiện nay.
Nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên, đã có
đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên mầm
non ở huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”của tác giả Phan Thị Hán Huệ
(2014); đề tài: “Tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ
giáo viên trường quân sự quân khu 4” của tác giả Nguyễn Quốc Nghị (2009);
đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm của giảng viên trường
đại học khoa học đại học Thái Nguyên” của tác giả Phạm Tùng Dương (2014).
Tác giả Lê Thị Kim Trinh, với đề tài luận văn thạc sĩ QLGD: “Tổ chức
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy nghề trang điểm thẩm mỹ trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” (2013), đã luận giải những vấn đề cơ bản về
tổ chức bồi dưỡng năng lực sư phạm của giáo viên dạy nghề trang điểm. Trên
cơ sở đó đề xuất 4 biện pháp bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên dạy
nghề trang điểm thẩm mỹ: xây dựng kế hoạch; tổ chức hoạt động bồi dưỡng;
kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tự bồi dưỡng
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục của tác giả Phan Thị
Hán Huệ (2014) “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu” đã luận giải những
vấn đề lý luận về năng lực sư phạm của giáo viên mầm non; hoạt động bồi
dưỡng năng lực sư phạm và quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên mầm non. Để nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm

non, tác giả đã đề xuất 5 biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên mầm non huyện Châu Đức tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu bao
gồm những biện pháp từ việc phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan
8


chuyên môn; xây dựng và thực hiện tổ chức kế hoạch bồi dưỡng cho đến
thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động bồi dưỡng.
Qua các nghiên cứu về năng lực sư phạm, năng lực dạy học cho thấy,
năng lực sư phạm là tổ hợp các phẩm chất tâm lý sư phạm trong dạy học và
giáo dục. Đồng thời, các tác giả đều nhất quán khẳng định năng lực dạy học là
một thành phần quan trọng của năng lực sư phạm và năng lực dạy học được
hình thành từ nhiều yếu tố như tri thức, kỹ xảo, kỹ năng dạy học và là điều
kiện, yêu cầu để dạy học, giáo dục đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong khi
năng lực sư phạm được nghiên cứu cơ bản thì năng lực dạy học của người học
viên sư phạm chưa được nghiên cứu sâu sắc.
Khái quát chung các quan điểm trên thế giới cũng như ở Việt Nam,
chúng tôi thấy nổi bật lên một số hướng nghiên cứu cơ bản:
Thứ nhất, các nghiên cứu tiếp cận ở góc độ tâm lý học quan niệm năng lực là
tổ hợp các phẩm chất tâm lý cá nhân chịu sự tác động, ảnh hưởng của các điều kiện
tự nhiên và xã hội, đồng thời giúp cho hoạt động của con người đạt kết quả cao.
Thứ hai, các nghiên cứu tiếp cận theo trình độ sư phạm cho rằng, năng
lực sư phạm, năng lực dạy học là sự hòa quyện của các yếu tố như kiến thức,
kỹ xảo, kỹ năng và thái độ giúp cho hoạt động dạy học, giáo dục đạt được
hiệu quả cao.
Thứ ba, các nghiên cứu tiếp cận theo năng lực thực hiện quan niệm
năng lực dạy học là một năng lực nghề nghiệp cùng với nhiều năng lực cụ thể
khác sẽ giúp cho người giáo viên đáp ứng tốt hoạt động dạy học.
Tóm lại, các tác giả luôn đặt ra yêu cầu cao về năng lực sư phạm của
người giáo viên và làm sáng tỏ nhiều nội dung của năng lực sư phạm. Cũng

có một số nghiên cứu đề cập đến năng lực giáo dục ở các khía cạnh khác
nhau. Đồng thời, cơ bản thống nhất cho rằng năng lực giáo dục sẽ đảm bảo
cho hoạt động giáo dục đạt được kết quả cao và là một thành phần quan trọng
trong năng lực sư phạm của người giáo viên. Thực tế vấn đề tổ chức bồi
9


dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI
thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cách cơ bản, hệ thống. Vì vậy,
tác giả chọn vấn đề nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn
trong bồi dưỡng năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên ở Trường TCCS
nhân dân VI hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải làm rõ vấn đề lý luận, thực tiễn, luận văn đề xuất
các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở
Trường TCCS nhân dân VI, góp phần năng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
của Nhà trường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận hoạt động bồi dưỡng và quản lý hoạt
động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở trường TCCS nhân dân.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
và quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở Trường
TCCS nhân dân VI.
Đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quản lý đội ngũ giáo viên ở Trường TCCS
nhân dân VI.
* Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư

phạm cho giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực tiễn và các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư
phạm cho giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI. Các tư liệu, số liệu sử dụng
nghiên cứu đề tài trong thời gian từ năm 2012 đến nay.
10


5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng sư phạm cho giáo viên ở Trường
TCCS nhân dân VI cần có sự tham gia của nhiều lực lượng. Nếu các chủ thể
quản lý thực hiện tốt các biện pháp như: Tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức,
ý thức trách nhiệm của các lực lượng sư phạm; xác định và thực hiện đúng các
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức bồi dưỡng; chú trọng bồi dưỡng
kiến thức năng lực, phương pháp cho đội ngũ báo cáo viên; phát huy tính chủ
động trong tự bồi dưỡng; đồng thời thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên,... thì sẽ quản lý được hoạt động bồi
dưỡng năng lực sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
Trường TCCS nhân dân VI đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng, Nhà nước, của ngành Công an về GD&ĐT và quản lý
giáo dục. Đồng thời, đề tài còn vận dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu
trúc; quan điểm thực tiễn; quan điểm lịch sử - lôgic để nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho giáo viên ở các trường Công an như: nghiên cứu chỉ thị, nghị

quyết của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước và của ngành giáo dục,
các tài liệu, sách, tạp chí và báo cáo khoa học trong nước và nước ngoài có
liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu lịch sử của vấn đề nghiên cứu, phát hiện và khai thác
những khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập tới vấn đề
về quản lý nhà trường, hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm nói chung, kĩ
11


năng dạy học nói riêng cho giáo viên, làm cơ sở khoa học cho việc tiến hành
các hoạt động nghiên cứu tiếp theo.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp phỏng vấn, đàm thoại: Trao đổi, trò chuyện với cán bộ
quản lí, giáo viên nhằm tìm hiểu và thu thập những thông tin về quản lý hoạt
động bồi dưỡng kĩ năng dạy học của giáo viên Trường TCCS nhân dân VI.
Phương pháp điều tra bằng ankét: Điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu thập
những thông tin về thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI. Từ đó đề xuất các biện pháp quản
lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên trong Trường.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động dạy học trên lớp và cơ sở
vật chất nhà trường, các mối quan hệ trong nhà trường để tìm hiểu thực trạng
dạy học và kĩ năng dạy học của giáo viên. Qua đó đánh giá kĩ năng dạy học
của giáo viên trong trường đạt được ở mức độ nào, từ đó có những biện pháp
đề xuất phù hợp.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu báo cáo tổng kết của
nhà trường về quá trình bồi dưỡng năng lực sư phạm của giảng viên đại học.
Nghiên cứu về các chương trình bồi dưỡng, hình thức bồi dưỡng, thời gian bồi
dưỡng, đối tượng bồi dưỡng, hiệu quả bồi dưỡng... bổ sung thông tin về các
vấn đề đã điều tra.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Trao đổi với các chuyên gia có

nhiều kinh nghiệm nhằm tiếp thu ý kiến của họ về tính cần thiết, tầm quan
trọng và tính khả thi của các biện pháp đề xuất để có những kết luận chính
xác và định hướng vận dụng các biện pháp đó vào trong thực tiễn.
Các phương pháp hỗ trợ: Để có những nhận xét khách quan về kết quả nghiên
cứu, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê toán học sau: trung
bình cộng, tính tỉ lệ phần trăm.

12


7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và
thực tiễn quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở
Trường TCCS nhân dân VI.
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp các cấp quản lý vận
dụng đề ra các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho
giáo viên ở Trường TCCS nhân dân VI.
8. Kết cấu của luận văn
Mở đầu, 3 chương, 8 tiết, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP
CẢNH SÁT NHÂN DÂN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Năng lực sư phạm

Mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều đòi hỏi con người phải có năng lực
nhất định, phải có kiến thức văn hoá cơ bản, có kiến thức cần thiết về hoạt
động nghề nghiệp của mình. Năng lực con người được nhiều môn khoa học
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Tâm lý học Mác-xít cho rằng: Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý
của cá nhân đáp ứng với những yêu cầu hoạt động nhất định, đảm bảo cho
hoạt động nhanh chóng, thành thạo và đạt kết quả cao.
Năng lực được hiểu là những thuộc tính tâm, sinh lý quy định khả năng
thực hiện các hoạt động của cá nhân. Theo cách hiểu này, tính trội của năng
lực là năng khiếu và những tố chất tự nhiên của cá nhân đã được xã hội hoá.
Đây là những thuộc tính tâm lý của cá nhân mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận
được hoặc đo được thông qua các công cụ trợ giúp nào đó. Tức là không thể
trực tiếp tri giác được các thuộc tính bằng các giác quan.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
Quan niệm trên cho thấy, một hình thái khác của năng lực là khả năng
hoạt động của cá nhân được hình thành và biểu hiện trong thực tiễn. Năng lực
bao giờ cũng phải gắn với một lĩnh vực hoạt động cụ thể. Tính trội của năng
lực ở đây thường được thể hiện trong hoạt động nghề nghiệp của cá nhân mà
chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận được biểu hiện đang diễn ra
của nó. Đó là phẩm chất của cá nhân được thể hiện ra bên ngoài thông qua
hoạt động thực tế.
14


Dưới góc độ tâm lý học, năng lực sư phạm là sự tương thích giữa
những thuộc tính tâm, sinh lý của cá nhân với những yêu cầu do nghề nghiệp
sư phạm đặt ra, được thể hiện trong xu hướng, tài nghệ và phong cách sư
phạm của người giáo viên.
Năng lực sư phạm là một loại hình năng lực nghề nghiệp. Năng lực sư

phạm bị quy định bởi nhiều yếu tố. Trong đó các thuộc tính tâm, sinh lý của
cá nhân, trình độ đào tạo và quá trình trải nghiệm thực tiễn nghề nghiệp sư
phạm là những yếu tố quan trọng nhất, có vai trò chi phối các yếu tố khác.
Năng lực sư phạm không phải là những thuộc tính tự nhiên sẵn có mà
được hình thành và phát triển trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và
xã hội cụ thể. Nếu không được nuôi dưỡng, không có môi trường tương tác
thích hợp thì những thuộc tính đó không những không thể trở thành năng lực
thực tiễn mà còn bị thui chột đi. Năng lực sư phạm được hình thành, phát
triển trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn sư phạm.
Một trong những đặc điểm làm cho năng lực sư phạm không giống với
những thứ năng lực khác là sự thâm nhập lẫn nhau giữa năng lực với phẩm
chất. Các phẩm chất đạo đức, nhân cách của nhà sư phạm là một bộ phận cấu
thành năng lực sư phạm. Nói đến năng lực sư phạm là đã hàm chứa trong đó
các phẩm chất đạo đức, nhân cách của nhà sư phạm. Các phẩm chất đó thẩm
thấu vào quan điểm, hành vi và tự nó có sức thuyết phục, hỗ trợ cho các kỹ
năng hoạt động nghề nghiệp tạo thành năng lực của nhà sư phạm. Những nhà
sư phạm giỏi, tài năng chính là những người có đức độ, có nhân cách phát
triển phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội. Trong những điều kiện xã hội
lịch sử khác nhau thì có những yêu cầu khác nhau về phẩm chất và năng lực
sư phạm.
Nói cách khác, năng lực sư phạm là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của
người giáo viên, phù hợp với yêu cầu của hoạt động sư phạm, đảm bảo cho
hoạt động đó có kết quả.
15


Như vậy, các quan niệm trên đều thống nhất, năng lực là khả năng của
con người nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt
động ấy đạt hiệu quả cao. Từ cách tiếp cận trên đây có thể quan niệm: Năng
lực sư phạm là tổng hòa các phẩm chất của cá nhân đáp ứng yêu cầu do nghề

nghiệp sư phạm đặt ra, bảo đảm cho hoạt động sư phạm nhanh chóng thành
thạo và đạt được hiệu quả tốt nhất.
Năng lực sư phạm phản ánh một cách độc đáo cấu trúc hoạt động sư phạm
và bao gồm 3 nhóm chính: Nhóm năng lực dạy học (năng lực thiết kế bài dạy,
năng lực tổ chức các hoạt động dạy học, năng lực quản lí dạy học, năng lực làm
việc nhóm); Nhóm năng lực giáo dục; Nhóm năng lực tự hoàn thiện bản thân.
Trong quá trình dạy học và giáo dục, có thể kể đến một số NLSP sau đây:
* Năng lực hiểu học viên trong quá trình dạy học và giáo dục: Đây được coi
là chỉ số cơ bản của NLSP. Đó là năng lực “thâm nhập” vào thế giới
bên trong của người học để hiểu tường tận về nhân cách cũng như năng
lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của người học vào quá trình
dạy học và giáo dục. Một giáo viên có năng lực hiểu học viên phải tính
đến trình độ văn hóa, trình độ nhận thức, phát triển của học viên khi
chế biến và trình bày bài giảng của mình, biết đặt mình vào vị trí của
các em. Từ đó đưa những nội dung, khối lượng kiến thức, mức độ khó
khăn và trình bày sao cho học viên có thể tiếp thu bài một cách tốt nhất.
Vì vậy, biểu hiện trước hết của năng lực hiểu học viên chính là giáo
viên biết xác định khối lượng kiến thức đã có và mức độ, phạm vi lĩnh
hội của học viên, dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định
đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ để
trình bày khối lượng kiến thức mới trong công tác dạy học.
* Năng lực thiết kế bài giảng: Đây là năng lực gia công về mặt sư phạm
của người giáo viên đối với tài liệu học tập làm cho nó phù hợp tối đa với đặc
điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân của học viên, trình độ, kinh nghiệm của các
16


em và đảm bảo logic sư phạm. Muốn làm được điều đó, trước hết giáo viên
phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu dạy học nhằm xác lập được mối quan hệ
giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học viên.

Người giáo viên có năng lực thiết kế bài giảng là người biết tính và xác lập
được mối quan hệ nói trên, vừa đảm bảo được yêu cầu về kiến thức chung của
chương trình, vừa cho tài liệu đó vừa sức với sự tiếp thu của học viên.
Người giáo viên phải biết phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức,
thấy được nội dung trọng tâm, cơ bản của kiến thức cần truyền đạt cho học
viên. Đồng thời giáo viên phải có óc sáng tạo thể hiện ở khâu trình bày tài liệu
theo suy nghĩ và lập luận của mình nhằm cung cấp cho học viên những kiến
thức tinh tế, chính xác và có khả năng vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Bên
cạnh đó, giáo viên cũng cần phải có phương pháp dạy học phù hợp, hiệu
nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực
* Năng lực dạy học: Người giáo viên có năng lực dạy học là người
truyền đạt nội dung kiến thức rõ ràng, dễ hiểu làm cho nó vừa sức với học
viên; gây hứng thú kích thích suy nghĩ tích cực và độc lập; đồng thời tạo ra
tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập như động viên, khêu gợi được sự chú ý
của học viên… Việc hình thành năng lực dạy học là kết quả của một quá trình
học tập nghiêm túc và rèn luyện tay nghề công phu của người giáo viên.
* Năng lực ngôn ngữ: Người giáo viên có năng lực ngôn ngữ là người
biết cách biểu đạt rõ ràng, mạch lạc kiến thức cần truyền tải cho học viên.
Đây là công cụ đảm bảo cho giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo
dục của mình. Bởi thông qua ngôn ngữ, giáo viên sẽ truyền đạt thông tin đến
học viên, thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ tích cực của các em vào bài giảng,
điều khiển, điều chỉnh quá trình nhận thức của các em.
* Năng lực giao tiếp sư phạm: Đây là năng lực nhận thức nhanh chóng
những biểu hiện bên ngoài và diễn biến tâm lý bên trong của học viên. Người
giáo viên có năng lực này là người biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn
17


ngữ và phi ngôn ngữ; biết cách tổ chức, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm
đạt mục đích giáo dục. Việc rèn luyện năng lực giao tiếp sư phạm của giáo

viên không tách rời với việc rèn luyện các phẩm chất nhân cách. Chỉ có
những giáo viên nào nhiệt tình, tôn trọng nhân cách học viên, thiện chí, quan
tâm giúp đỡ các em, luôn lắng nghe và dân chủ trong giao tiếp thì họ mới dễ
dàng thiết lập mối quan hệ tốt với học viên, dễ đạt kết quả cao trong hoạt
động sư phạm của mình.
* Năng lực cảm hóa học viên: Đây là năng lực ảnh hưởng trực tiếp của
người giáo viên đến học viên về mặt tình cảm và ý chí. Nói cách khác, đó là
khả năng làm cho học viên nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm, bằng
niềm tin. Năng lực cảm hóa học viên phụ thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất
nhân cách người giáo viên như: tinh thần trách nhiệm đối với công việc, tôn
trọng học viên, ứng xử khéo léo với học viên, đồng nghiệp; cũng như lòng vị
tha và các phẩm chất ý chí… Để có năng lực này đòi hỏi giáo viên phải luôn
phấn đấu và tu dưỡng để có một nếp sống văn hóa cao, một phong cách mẫu
mực nhằm tạo ra uy tín riêng thể hiện thông qua cử chỉ, lời nói, tinh thần lao
động hăng say, sáng tạo và có ý tưởng nghề nghiệp cao đẹp.
* Năng lực ứng xử sư phạm: Trong quá trình dạy học và giáo dục,
người giáo viên thường đứng trước nhiều tình huống sư phạm khác nhau.
Điều đó, một mặt đòi hỏi giáo viên phải hiểu biết tâm lý học viên, mặt khác
giáo viên phải biết giải quyết linh hoạt và sáng tạo những tình huống sư
phạm của từng cá nhân cũng như tập thể học viên. Vấn đề chủ yếu trong sự
ứng xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến học
viên một cách hiệu quả nhất, cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm
cụ thể, phù hợp với những đặc điểm và khả năng của học viên trong từng
tình huống khác nhau.
* Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm: Năng lực này được biểu hiện ở
việc giáo viên tổ chức và cổ vũ học viên thực hiện các nhiệm vụ khác nhau
18


của công tác dạy học và giáo dục trên lớp cũng như ngoài nhà trường; biết

đoàn kết học viên thành một tập thể thống nhất, lành mạnh, có kỷ luật, nền
nếp đảm bảo cho mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi.
Để có được năng lực này, người giáo viên phải biết vạch ra kế hoạch
thực hiện; sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học, giáo dục
khác nhau nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác động sâu sắc đến tư tưởng
và tình cảm của học viên; biết định mức độ giới hạn của từng biện pháp dạy
và giáo dục khác nhau; có nghị lực và tin vào sự đúng đắn của các kế hoạch,
biện pháp giáo dục đã đề ra.
Năng lực sư phạm của giáo viên ở trường TCCS nhân dân là khả năng
chuyên biệt đặc trưng của họ. Năng lực đó được biểu hiện ở nhiều yếu tố bao
gồm; trình độ tri thức văn hoá nền tảng, tri thức chuyên ngành, nghiệp vụ sư
phạm, kỹ xảo, kỹ năng dạy học, giáo dục, khả năng tư duy sư phạm phát triển
và qua các giá trị, chuẩn mực nghề nghiệp. Năng lực sư phạm của giáo viên ở
trường TCCS nhân dân không phải là yếu tố tự nhiên đã có sẵn, mà năng lực
sư phạm chỉ được bộc lộ, thể hiện thông qua mối quan hệ tương tác của chủ
thể với môi trường giáo dục, đặc biệt rõ nét thông qua tính tích cực của từng
cá nhân trong các hoạt động sư phạm để đạt được hiệu quả cao. Quan trọng
hơn, năng lực sư phạm của giáo viên ở trường TCCS nhân dân cần được
thường xuyên tổ chức bồi dưỡng với nhiều phương pháp và hình thức khác
nhau trong thực tiễn công tác phong phú, đa dạng cùng với sự trải nghiệm về
thực tiễn hoạt động giáo dục học viên Công an nhân dân.
1.1.2. Hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở
trường trung cấp Cảnh sát nhân dân
Đại từ Tiếng Việt định nghĩa bồi dưỡng là: "Làm cho khoẻ thêm, mạnh
thêm. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn". Như vậy, bồi dưỡng chính là quá trình bổ
sung "bồi đắp" những thiếu hụt về tri thức và kỹ năng, cập nhật cái mới trên
cơ sở "nuôi dưỡng" những cái cũ còn phù hợp để mở mang có hệ thống những
19



tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao
động. Bồi dưỡng là sự tiếp nối quá trình đào tạo chứ không phải là khởi đầu;
cũng có khi bồi dưỡng lại tạo ra tiền đề và tiêu chuẩn cho quá trình đào tạo
chính quy ở bậc cao hơn về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể.
Bồi dưỡng là khái niệm được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trong các
ngành khoa học, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tuy vậy, khái
niệm này lại có những cách hiểu khác nhau:
Theo nghĩa rộng, bồi dưỡng là quá trình giáo dục - đào tạo nhằm hình
thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định
hướng mục đích đã chọn. Như vậy, bồi dưỡng bao hàm cả quá trình giáo dục
và đào tạo nhằm trang bị tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo và những
phẩm chất của nhân cách theo mục đích đã xác định. Quá trình này diễn ra cả
trong nhà trường và trong thực tiễn xã hội. Hoạt động đó không những có
nhiệm vụ trang bị kiến thức, kỹ năng ban đầu mà còn có nhiệm vụ bổ sung,
phát triển, hoàn thiện những tri thức, kỹ năng đã có.
Theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng là quá trình bổ sung, phát triển, hoàn thiện
thêm những cái đã có. Nói cách khác, đây là những hoạt động nhằm bổ sung,
phát triển, hoàn thiện, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng và những
phẩm chất nhân cách. Hiểu theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng là một bộ phận trong
quá trình giáo dục - đào tạo, là khâu tiếp nối sau khi con người đã có những
tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và phẩm chất nhất định.
Mặc dù có những cách hiểu khác nhau, song về cơ bản, bồi dưỡng được
hiểu một cách phổ biến là quá trình làm tăng thêm, hoàn thiện thêm những cái
đã có trước đó.
Trong luận văn này, với cách tiếp cận bồi dưỡng như là một hoạt động,
một quá trình có mục đích rõ ràng nhằm bổ sung, phát triển, hoàn thiện tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng và những phẩm chất bảo đảm cho con người đáp
ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội...,
20



có thể quan niệm: Hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở
trường TCCS nhân dân là những tác động thường xuyên, liên tục của lực
lượng sư phạm tới giáo viên, nhằm trang bị, bổ sung, hoàn thiện những kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn - nghiệp vụ hoạt đông động sư phạm,
giúp giáo viên phát triển nghề nghiệp để có thẻ thực hiện tốt các nhiệm vụ
dạy học, giáo dục, nghiên cứu khoa học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà ngành
cuãng như Nhà trường giao cho.
Năng lực sư phạm của giáo viên ở trường TCCS nhân dân được hình
thành dựa trên nền tảng tổng hợp cấu trúc nhiều thành phần có mối quan hệ chặt
chẽ, gắn bó với nhau để tạo thành một chỉnh thể thống nhất, trọn vẹn; tạo nên
đặc điểm tâm lý cá nhân nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong các hoạt động
sư phạm, nội dung bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên ở trường TCCS
nhân dân bao gồm nhiều nội dung, có thể khái quát ở các nội dung cơ bản sau:
Một là, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành cho giáo viên.
Năng lực dạy học, năng lực giáo dục dựa trên nền tảng khả năng am
hiểu về tri thức bao gồm cả tri thức hiểu biết chung cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự nhiên, về chính trị - xã hội, về quy luật
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và con người; tri thức khoa học về
giáo dục con người, cũng như những tri thức chuyên sâu chuyên ngành. Tri
thức hệ thống kỹ năng thực hành giảng dạy của nghề nghiệp dạy học cũng đòi
hỏi giáo viên ở trường TCCS nhân dân cần nắm vững. Đây chính là điều kiện
để người giáo viên ở trường TCCS nhân dân hình thành phương pháp tư duy
khoa học nhằm giải quyết sáng tạo các nội dung của hoạt động sư phạm.
Tri thức là nội dung hàng đầu cần được bồi dưỡng nhằm hình thành
năng lực dạy học cho giáo viên ở trường TCCS nhân dân. Bởi lẽ hệ thống tri thức
là điều kiện gắn bó và kết hợp chặt chẽ với những kỹ xảo, kỹ năng và tri
thức còn là cơ sở để hình thành kỹ xảo, kỹ năng dạy học. Mặt khác, khi kỹ
xảo, kỹ năng dạy học được hình thành sẽ giúp cho tri thức cũng được củng
21



cố vững chắc hơn. Đây là một trong những nội dung cơ bản, cần thiết, cần
bồi dưỡng, đào tạo để đảm bảo cho người giáo viên ở trường TCCS nhân
dân hình thành, phát triển năng lực dạy học của mình.
Hai là, bồi dưỡng kỹ năng dạy học, kỹ năng giáo dục cho giáo viên.
Hiện nay, do yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong điều kiện hội nhập
quốc tế, càng đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng người giáo viên ở trường
TCCS nhân dân không chỉ chuyên sâu về tri thức chuyên ngành mà song song
với đó là bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm rất được chú trọng với nhiều kỹ năng
phong phú, đa dạng hơn. Trên nền tảng hệ thống tri thức toàn diện bao gồm cả
tri thức về kỹ xảo, kỹ năng dạy học, giáo dục để bồi dưỡng, rèn luyện cho giáo
viên ở trường TCCS nhân dân thành thạo các kỹ năng chuẩn nghề nghiệp.
Thực tế, năng lực dạy học chỉ được bộc lộ trong quá trình dạy học, qua kỹ xảo,
kỹ năng dạy học của người giáo viên, nhưng kỹ xảo, kỹ năng dạy học không
hoàn toàn đồng nhất với năng lực dạy học. Kỹ năng có tính cụ thể, riêng lẻ còn
năng lực mang tính tổng hợp khái quát cao hơn. Kỹ năng thể hiện sự vận dụng
thành thạo, sáng tạo các tri thức vào trong hoạt động thực tiễn sư phạm của
người giáo viên. Vì vậy, cần phải tạo điều kiện thuận lợi nhất, xây dựng nhiều
tình huống sư phạm phong phú, tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục sao cho
người giáo viên ở trường TCCS nhân dân có nhiều cơ hội để rèn luyện kỹ xảo,
kỹ năng dạy học nhằm từng bước hoàn thiên và phát triển kỹ năng dạy học,
giáo dục. Có thể nói kỹ năng dạy học, giáo dục biểu hiện khá rõ nét năng lực
dạy học của người giáo viên ở trường TCCS nhân dân. Chính vì vậy, nội dung
bồi dưỡng cần tập trung vào một số kỹ năng cụ thể như:
Nhóm kỹ năng chuẩn bị bài lên lớp, gồm có các kỹ năng cụ thể như: kỹ
năng tiếp cận thông tin, tích luỹ tư liệu và sử dụng thông tin cho bài lên lớp;
kỹ năng nắm bắt đối tượng học viên Công an nhân dân; kỹ năng thiết kế hoạt
động dạy và học; kỹ năng xây dựng và sử dụng các tình huống dạy học, giáo

22



dục; kỹ năng thiết kế giáo án dạy học; kỹ năng phân tích mục tiêu môn học,
bài học; kỹ năng sưu tầm, lựa chọn, sử dụng và thiết kế các đồ dùng dạy học.
Nhóm kỹ năng tổ chức giờ dạy học trên lớp, bao gồm: kỹ năng đặt vấn
đề vào bài; kỹ năng vận dụng tổng hợp các phương pháp trong dạy học; kỹ
năng sử dụng hợp lý các phương tiện, đồ dùng dạy học; kỹ năng trình bày các
vấn đề học tập; kỹ năng thiết lập và giữ mối liên hệ ngược trong quá trình dạy
học; kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, sách, tài liệu học tập; kỹ năng tự điều khiển
phong cách, tác phong sư phạm; kỹ năng sử dụng bảng, phấn, viết bảng; kỹ
năng đặt câu hỏi, nhận xét trả lời của học viên Công an nhân dân.
Các kỹ năng nghiên cứu khoa học cơ bản như: kỹ năng thu thập, xử lý
thông tin, trích dẫn tài liệu, sử dụng số liệu nghiên cứu khoa học, vận dụng lý
luận vào thực tiễn; sử dụng các thao tác phân tích, khái quát, tổng hợp kiến
thức đã thu thập trong quá trình học tập, nghiên cứu; kỹ năng trình bày, bảo
vệ kết quả nghiên cứu, trước tập thể.
Đây cũng chính là những kỹ năng sư phạm cần thiết của người giáo
viên ở trường TCCS nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng hệ thống nghiệp vụ sư phạm và những giá trị nghề
nghiệp cho giáo viên.
Với mục tiêu được bồi dưỡng để trở thành những người giáo viên ở
trường TCCS nhân dân có năng lực sư phạm tốt đáp ứng với hoạt động dạy
học, giáo dục đối tượng là học viên Công an nhân dân. Vì vậy, người giáo
viên ở trường TCCS nhân dân không chỉ cần có tri thức, kỹ năng dạy học mà
còn cần phải được trang bị hệ thống tri thức nghiệp vụ và những giá trị
nghề nghiệp nhất định. Trên cơ sở những tiêu chí cơ bản trong hệ giá trị
của con người Việt Nam hiện nay như: các giá trị trí tuệ; các giá trị đạo
đức; các giá trị kinh tế - chính trị - xã hội; các giá trị thẩm mỹ; các giá trị
thể lực. Để xác định một cách khoa học các giá trị nghề nghiệp cốt lõi cần
bồi dưỡng cho giáo viên ở trường TCCS nhân dân.

23


Bốn là, bồi dưỡng khả năng sư phạm và tư duy sáng tạo trong dạy
học, giáo dục cho giáo viên.
Hoạt động dạy học, giáo dục của người giáo viên ở trường TCCS nhân
dân phải đảm bảo tính khoa học, tính nghệ thuật sư phạm trong dạy học, giáo
dục. Có tư duy sư phạm cao ngay từ khâu thiết kế nội dung, lựa chọn hình
thức, phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp với đối tượng. Cho đến quá
trình thực hành giảng dạy thể hiện óc tinh tế, sự sáng tạo trong tất cả các hoạt
động diễn ra trên lớp học.
1.1.3. Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
ở trường trung cấp Cảnh sát nhân dân
Có nhiều cách giải nghĩa khác nhau về quản lý. Theo Từ điển Giáo dục
học, quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục đích của tổ chức. Còn theo Theo Tâm lý học quản lý: Quản lý
được coi như là sự kết hợp của quản và lý. Quản bao gồm sự coi giữ, tổ chức,
điều khiển, trông nom và theo dõi. Lý được hiểu là lý luận về sự phân biệt
phải trái, sự sửa sang, sắp xếp, thanh lý, sự dự đoán cùng sự tạo ra thiết chế
hành động để đưa hệ vào sự phát triển. Theo cách hiểu này, quản lý là “ lý
luận về sự cai quản”. Chức năng của quản lý là lãnh đạo, tham mưu và thừa
hành. Nếu người quản lý chỉ lo “quản” mà coi nhẹ “lý” thì tổ chức sẽ trì trệ
chậm phát triển; còn ngược lại thì dễ rơi vào thế mất cân bằng. Vì thế trong
“quản” phải có “lý’, trong “lý” phải có “quản”, “quản và lý” phải đi đôi với
nhau. Quản lý là yếu tố tạo nên sự ổn định để phát triển của hệ thống trên lộ
trình tiến tới trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
Như vậy, có thể hiểu quản lý là quá trình tác động gây ảnh hưởng của
chủ thể quản lý tới khách thể quản lý thông qua việc thực hiện các chức năng
quản lý, bằng những công cụ và phương pháp mang tính đặc thù nhằm đạt

được mục tiêu chung của toàn bộ hệ thống. “Quản lý không chỉ là một khoa
24


học mà còn là nghệ thuật”, và “hoạt động quản lý vừa có tính khách quan, vừa
có tính chủ quan, vừa có tính pháp luật của nhà nước, vừa có tính xã hội rộng
rãi; chúng là những mặt đối lập trong một thể thống nhất”. Quản lý có các
chức năng cơ bản là duy trì và phát triển. Bất kỳ một hoạt động tập thể nào
cũng cần phải quản lý.
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý về mặt chính trị, văn hoá, kinh tế xã hội, các
chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm
tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người nó được thực hiện một
cách tự giác, nó tồn tại, vận động, phát triển với tư cách là một hệ thống. Cũng
như quản lý nói chung, quản lý giáo dục cũng có rất nhiều quan điểm khác
nhau, quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi
những mục đích của mình. Quản lý giáo dục là những tác động tự giác của chủ
thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả các mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội yêu cầu.
Quản lý giáo dục là sự tác động chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp
quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan… của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm
bảo các hoạt động của tổ chức hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu
giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Năng lực sư phạm của giáo viên ở trường TCCS nhân dân là một loại
hình năng lực nghề nghiệp chuyên biệt và bị quy định bởi nhiều yếu tố. Để
năng lực sư phạm được hình thành, phát triển vững chắc cần phải được bồi
dưỡng một cách thường xuyên, khoa học với nhiều con đường, cách thức,
biện pháp khác nhau nhằm tác động vào nhận thức và hành động của giáo

viên ở trường TCCS nhân dân.
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Quản lý hoạt động bồi dưỡng
25


×