Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan lục quân 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.15 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc tất yếu, mang
tính quy luật của hoạt động thực tiễn xã hội, của sự vận động lịch sử và sự
phát triển nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra nguyên tắc phải thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn để chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Hồ
Chí Minh khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông” [49, tr.496]. Cả chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đều xác định rõ vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Giảng dạy các môn KHXH&NV là một bộ phận rất cơ bản trong chương
trình giáo dục - đào tạo ở TSQLQ2 nhằm trang bị thế giới quan, phương pháp
luận khoa học, hình thành niềm tin, lý tưởng cộng sản, xây dựng đội ngũ sĩ
quan đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị
làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Nhà trường luôn quán triệt
các quan điểm, phương châm, nguyên tắc dạy học của Đảng, Nhà nước, quán
triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng “Chuyển
mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tiễn” [20, tr. 114]. Chất lượng giảng dạy các môn KHXH&NV đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu đào tạo,tuy nhiên trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội
trong tình hình mới, đòi hỏi quá trình giảng dạy không chỉ trang bị kiến thức
mà còn phải kết hợp bồi dưỡng kiến thức, năng lực tư duy với năng lực thực
hành. Nhà trường đã tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các khâu,
các bước của quá trình giáo dục - đào tạo, nghiên cứu, bổ sung, phát triển và
hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Đây là một trong những yêu cầu cấp thiết góp phần giải quyết
mâu thuẫn giữa lý luận giáo dục với thực tiễn giáo dục, là nhân tố quan trọng
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở TSQLQ2.


1


Tuy nhiên, thực tế vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 còn có những hạn chế
nhất định. Việc xác định nội dung dạy học các môn KHXH&NV còn mang
tính kinh viện, thiếu liên hệ với thực tiễn của xã hội, quân đội. Hình thức bài
giảng lý thuyết vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong giảng dạy, các hình thức sau bài
giảng như: tự học, thảo luận, thực hành thực tập, tham quan, viết thu hoạch
chưa được quan tâm đúng mức. Ứng dụng công nghệ thông tin và phương
tiện kỹ thuật dạy học hiện đại trong dạy học còn chưa nhiều; khâu kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học viên chủ yếu vẫn nặng việc ghi nhớ, tái hiện
lại những kiến thức trong các bài giảng lý thuyết mà chưa chú trọng tới việc
rèn luyện kỹ năng liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận hiện nay. Dẫn tới việc học tập các môn KHXH&NV của một số học viên
có biểu hiện nhàm chán, mang tính thụ động; thiếu tinh thần chủ động, tự giác
trong tự học, tự nghiên cứu sau bài giảng, kết quả dạy học chưa tương xứng
với mục tiêu, yêu cầu đào tạo đặt ra.
Đồng thời, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi không ngừng nâng
cao chất lượng giảng dạy đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo trong tình hình mới.
Vì vậy, vận dụng nguyêntắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
các môn KHXH&NV đang đặt ra yêu cầu cao và càng trở lên cấp bách. Trong hi
đó chưa có công trình nào nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này. Từ đó, tác giả đã
lựa chọn vấn đề “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Lục
quân 2”làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giảng dạy các môn KHXH&NV trong các học viện, nhà trường quân đội
đã được Tổng cục Chính trị, các học viện, nhà trường và nhiều nhà khoa học

quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Giảng dạy các môn
2


KHXH&NV là một vấn đề mang tính lý luận – thực tiễn cao, gắn với nhiều tổ
chức, lực lượng và từng đối tượng cụ thể. Thời gian gần đây đã có nhiều công
trình khoa học, đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
*Công trình tiêu biểuliên quan đến mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn:Lê Xuân Lựu “Liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong dạy và học” [43],
tác giả bài viết đã chỉ ra phương châm căn bản, chủ yếu nhất là gắn lý luận với
thực tiễn trong dạy học; chỉ ra quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Theo tác giả hoạt động dạy phải gắn lý luận với thực tiễn, tri thức khoa học với
kinh nghiệm, người học phải đóng vai trò là chủ thể trong quá trình tiếp nhận
tri thức, hình thành kỹ năng nghề nghiệp và rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác
phong công tác; quá trình dạy học ở nhà trường phải hình thành ở người học
khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.
* Trong mối quan hệ giữa tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn có các
công trình:Lê Linh “Cần có phương pháp tư duy khoa học, đề cao tự phê bình
nói đi đôi với làm”[42], trong bài viết nàyđã làm rõ vị trí, vai trò của phương
pháp tư duy khoa học trong xem xét và giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra. Chỉ ra sự cần thiết phải rèn luyện thói quen lật đi lật lại vấn đề, nêu cao tự
phê bình và phê bình; nói đi đôi với làm; đồng thời chỉ rõ đội ngũ cán bộ ta còn
chủ quan, phiến diện, phong cách làm việc còn nhiều dấu ấn phong kiến. Do
vậy, cần phải được thay thế bằng phương pháp tư duy biện chứng.
Tác giả Vi Thái Lang“Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn”[30], đã khẳng định quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là quan hệ biện
chứng và là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội. Việc nắm bắt tính biện
chứng của mối quan hệ đó là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có một quan
điểm thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng, giáo điều, máy
móc và bệnh lý luận suông. Mặc dù vậy thì bài viết này chỉ đề cập chung đến

vấn đề lý luận mà chưa vận dụng cụ thể vào nghiên cứu trong đào tạo học
viên sĩ quan ở các học viện, nhà trường quân đội.
3


* Phương pháp trong nâng cao chất lượng đào tạo có bài của tác giảBùi
Mạnh Hùng “Thấm nhuần, thực hiện có hiệu quả phương châm học đi đôi
với hành như Bác Hồ đã dạy” [24], tác giả đã chỉ ra nguyên lý dạy học
mácxít và luận giải nét đặc sắc trong quan điểm về dạy học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đó là, học tập phải xuất phát từ công việc, chú trọng tính sát thực
của lý luận; nội dung học phải gắn sát với thực tế; học phải nắm cặn kẽ, sâu
sắc bàn chất vấn đề. Học phải đi đôi với hành, hành là chỗ đến, là cái đích của
hiểu biết. Lý luận phải liên hệ với thực tiễn, làm kim chỉ nam cho hành động;
phải khắc phục tình trạng lý luận suông, thực tiễn mù quáng.
* Các đề tài nghiên cứu về công tác giáo dục - đào tạo và đội ngũ giảng
viên quân đội: Nguyễn Minh Khôi “Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục - đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong giai đoạn hiện
nay” [27]; Nguyễn Hồng Tuy“Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn cua Học viện Chính trị - quân sự trong giai đoạn hiện
nay” [36]. Các đề tài nêu trên đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công
tác xây dựng đội ngũ giảng viên ở các học viện, nhà trường trong quân đội,
chỉ rõ những yêu cầu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các học viện, nhà
trường Quân đội, song vẫn chưa đề cập tới nội dung sự thống nhất lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV.
* Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nâng cao chất lượng
giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2.
Đậu Văn Tân “Quản lý hoạt động học tập các môn khoa học xã hội và
nhân văn của học viên ở TSQLQ2 hiện nay”[33], tác giả đã đưa ra các khái
niệm cơ bản và các nội dung, nhân tố tác động đến quản lý hoạt động học tập

các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên ở TSQLQ2, bên cạnh đó
tác giả còn khái quát tình hình và thực trạng hoạt động học tập và quản lý hoạt
4


động học tập đồng thời đề ra các giải pháp quản lý hoạt động học tập các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên ở TSQLQ2 hiện nay.
Đề tàicủa tác giả Nguyễn Văn Thạo “Kết hợp tính định hướng chính trị
với tính khoa học trong giảng dạy các môn lý luận chính trị ở TSQLQ2 hiện
nay”[34], tác giả đã làm rõ tính định hướng chính trị và tính khoa học trong
giảng dạy các môn lý luận chính trị, từ đó chỉ rõ cơ sở khách quan khoa học và
nội dung cơ bản của của sự kết hợp, đề ra những giải pháp cơ bản nhằm kết
hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học trong giảng dạy các môn lý
luận chính trị ở trường SQLQ2 hiện nay. Nguyễn Đức Kim “Những vấn đề có
tính quy luật trong nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở TSQLQ2 hiện nay”[28], tác giả đã chỉ ra thực
chất và tính quy luật trong nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị, nêu lên
thực trạng nhận thức và vận dụng những vấn đề có tính quy luật trong nâng cao
hiệu quả giáo dục lý luận chính trị đồng thời đề ra các giải pháp chủ yếu trên cơ
sở nhận thức và vận dụng tính quy luật trong nâng cao hiệu quả giáo dục lý
luận chính trị cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở TSQLQ2.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập nhiều đến việc nâng cao
chất lượng giáo dục, quản lý, giảng dạy các môn KHXH&NVcho các đối
tượng, đặc biệt là các đối tượng trong môi trường quân sự. Một số đề tài đã
nghiên cứu về quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng học tập các môn
KHXH&NV, đổi mới phương pháp giảng dạy các môn KHXH&NV. Mỗi công
trình đều chọn đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng, và đã có những đóng
góp nhất định về lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề giảng dạy các môn
KHXH&NV trong quân đội. Đó là những đóng góp khoa học trên một số vấn
đề về lý luận và thực tiễn mà tác giả đề tài đã tham khảo, kế thừa trong nghiên

cứu, thực hiện luận văn. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
các môn lý luận chính trị nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn
KHXH&NV ở TSQLQ2.

5


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn làm cơ sở đề xuất một số giải
pháp cơ bản vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy các KHXH&NV ở TSQLQ2.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định việc vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn
KHXH&NV ở TSQLQ2.
- Đánh giá thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản vận dụng nguyên tác thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và nhân tố cơ bản quy định việc vận dụngnguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy các môn
KHXH&NV ở TSQLQ2.
* Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ nội dung liên quan đến vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2,
số liệu khảo sát từ năm 2014 đến nay.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giáo dục đào tạo nói chung và giảng dạy các môn KHXH&NV nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa trên thực tiễn vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2. Tài liệu báo cáo

6


tổng kết, rút kinh nghiệm của Nhà trường; kết quả điều tra, khảo sát của tác
giả ở TSQLQ2 về vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy các môn KHXH&NV.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp như: lịch sử và lôgíc;
phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; điều tra xã hội học, phương pháp
tổng kết kinh nghiệm, và phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa của của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp
các cơ quan, đơn vị trong Nhà trường vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV, đáp ứng yêu cầu nâng
cao chất lượng giáo dục – đào tạo trong tình hình mới. Luận văn có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong các nhà trường quân
đội.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm:Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


7


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ QUY ĐỊNH VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2

1.1. Thực chất nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Lục quân 2
1.1.1. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, biểu
hiện của nó trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Trường
Sĩ quan Lục quân 2
Nội dung nguyên tắc
Lý luận là sản phẩm phát triển cao của nhận thức, là hệ thống tri thức
phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất yếu của hiện thực khách quan. Các
nguyên lý, phạm trù, quy luật là hạt nhân của lý luận. Lý luận không hình
thành tự phát mà xuất phát từ thực tiễn, được khái quát, hình thành trên cơ sở
thực tiễn, phục vụ cho thực tiễn và khi được thực tiễn kiểm nghiệm đúng đắn,
lý luận đó trở thành lý luận khoa học. Theo Hồ Chí Minh: “Lý luận là sự tổng
kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên
và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[49, tr.497], “Lý luận là đem thực
tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm trong các cuộc tranh đấu xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành lý luận, rồi lại đem nó chứng minh trên thực
tế. Đó là lý luận chân chính” [46, tr.233].
Triết học Mác – Lênin đã đưa ra quan điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò
của nó đối với nhận thức, với lý luận. Phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm
trù của lý luận nhận thức mácxít, mà còn là phạm trù trung tâm của triết học

mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác. Thực tiễnlà toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên, xã hội và tư duy. Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng các

8


phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất tác động cải tạo tự nhiên, xã
hội, làm biến đổi bản thân sự vật, đáp ứng nhu cầu của mình, cũng từ đó làm
cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Hoạt động thực tiễn là
hoạt động mang bản chất người, hoạt động đặc trưng của con người. Do vậy,
thực tiễn có tính năng động, sáng tạo, là quá trình không ngừng của sự chuyển
hóa giữa tinh thần và vật chất.
Lý luận và thực tiễn trên thực tế là một thể thống nhất giữa hai mặt cơ bản
trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới của con người. Lý luận và thực tiễn
trong một quá trình vừa tác động, ràng buộc, ảnh hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh
với nhau dẫn tới sự vận động, biến đổi và chuyển hóa. Trong mối quan hệ đó,
thực tiễn luôn luôn là tính thứ nhất, giữ vai trò quyết định lý luận, còn lý luận là
tính thứ hai, tác động tích cực trở lại thực tiễn.
Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, được thực tiễn
kiểm nghiệm. Điều này được V.I. Lênin khẳng định: "Thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực
tiếp" [39, tr.230]. Vai trò thực tiễn với nhận thức, đối với lý luận trước hết
được thể hiện: thực tiễn là cơ sở, mục đích là động lực chủ yếu, trực tiếp của
nhận thức, trong đó có lý luận và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt
động thực tiễn, trong quá trình đó, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân
mình, phát triển năng lực, trí tuệ. Con người ngày càng đi sâu vào nhận thức
thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, càng làm phong phú và sâu sắc
hơn tri thức của mình. Theo đó, thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu,

nhiệm vụ, phương hướng của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh
nghiệm, khái quát lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của
các ngành khoa học.
Thực tiễn có khả năng tạo ra công cụ, phương tiện phục vụ cho quá trình
nhận thức mà hoạt động tinh thần không thể có khả năng trực tiếp về vấn đề
9


đó. Những công cụ, phương tiện hiện đại giúp con người nhận thức ngày càng
nhanh, xa và hiệu quả, dù trong những điều kiện khó khăn phức tạp hơn.
Thông qua động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện, khả
năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn. Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ
hoàn toàn bí ẩn với con người nếu không có sự tác động của con người vào
đó. Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình
từ việc thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phát triển
thành lý luận và từ lý luận lại trở về chỉ đạo thực tiễn. Không có thực tiễn thì
không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp,
đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn
cảm tính hay lý tính, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Lý luận trở thành khoa học, trở thành chân lý không những nó phải xuất
phát từ thực tiễn mà còn phải được thực tiễn kiểm nghiệm đúng. C. Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đi tới chân lý khách quan
hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề nhận thức mà là vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”[44, tr.9 - 10].
Từ vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, đòi hỏi chủ thể
hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận
thức, phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực
tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực tiễn

sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa
xét lại.
Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận khoa học
chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt. Cùng với việc coi trọng vai trò của thực tiễn đối
với lý luận thì vai trò của lý luận đối với thực tiễn không hề bị hạ thấp mà còn
thể hiện rõ hơn tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó. Hay nói cách khác,
10


bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra
đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con
người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức lý luận sau
khi ra đời quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận,
khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải
tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu phát triển. Lý luận tác động trở lại thực
tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm
khoa học về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển
của sự vật, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn,
là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động. V.I. Lênin
viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng... chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [41, tr.30]. Nhờ có lý luận
khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác, hạn chế
tình trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một khi đã thâm nhập vào
quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn.
Lý luận giúp cho chủ thể nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương pháp
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn
những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách
mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân

cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn. Tuy
nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý luận thì
chủ thể hoạt động không nên cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực
tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
Biểu hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Lục quân 2
11


TSQLQ2 được thành lập ngày 27/8/1961, trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Nhà trường vừa làm nhiệm vụ giáo dục, vừa chiến đấu đã đào
tạo ra hàng nghìn cán bộ phục vụ cho chiến trường. Năm 2010, Thủ tướng
Chính phủ quyết định công nhận TSQLQ2 là trường đại học. Trải qua 57năm
xây dựng và phát triển, Nhà trường đã nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên
trở thành một trung tâm đào tạo cán bộ, sĩ quan chỉ huy binh chủng hợp thành
cho quân đội ở khu vực phía Nam.
Nhà trường nằm trong khu vực kinh tế năng động có nhiều khu công
nghiệp, tập trung nhiều công nhân từ khắp các tỉnh, thành trong cả nước; mật
độ dân cư đông; trên địa bàn có nhiều nhà thờ, nhà chùa, dịch vụ phát triển …
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chính trị, tư tưởng của cán bộ, giảng viên
và học viên trong công tác giảng dạy và học tập.
Nhà trường có mục tiêu “đào tạo những thanh niên, quân nhân có đủ tiêu
chuẩn quy định trở thành sĩ quan chỉ huy – tham mưu lục quân cấp phân đội,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, trình độ năng lực toàn
diện về chỉ huy, lãnh đạo, quản lý và huấn luyện bộ đội, có thể lực tốt, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ”[16, tr.18].
Nhiệm vụ chủ yếu của TSQLQ2 là đào tạo những sĩ quan có phẩm chất
chính trị đạo đức, trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, với Tổ quốc,
với nhân dân; có niềm tin vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên định, vững vàng trong mọi
tình huống, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ; nắm chắc phương
châm, nguyên tắc, hình thức, phương pháp huấn luyện kỹ chiến thuật, biết chủ
trì các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, thực hành huấn luyện tốt
và biết tổ chức, bồi dưỡng phương pháp huấn luyện cho cấp dưới; nắm vững
kiến thức cơ bản các môn KHXH&NV và vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
để giáo dục bộ đội.
12


Là nội dung bắt buộc trong chương trình đào tạo ở các trường đại
họcquân sự, các môn KHXH&NV theo chương trình KHXH&NV đào tạo cán
bộ - chỉ huy tham mưu các cấp trong QĐNDVN ban hành kèm theo Quyết
định số 917/QĐ-CT ngày 30/6/2010 của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, bao
gồm 18 môn: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử ĐCS Việt Nam, Học
thuyết Mác – Lênin về chiến tranh quân đội, Tôn giáo học, Đạo đức học, Nhà
nước và pháp luật, Dân tộc học, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Công tác đảng,
công tác chính trị, Tâm lý học quân sự, Tiếng Việt soạn thảo văn bản, Giáo
dục học quân sự, Lịch sử dân tộc, Lôgíc học, Lịch sử nghệ thuật quân sự.
Giảng dạy các môn KHXH&NV là một hoạt động rất quan trọng trong
quá trình dạy học ở các học viện, nhà trường quân sự, trong đó có TSQLQ2
góp phần hoàn thiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo củaNhà trường. Do vậy, giảng
dạy các môn KHXH&NV vừa mang đặc điểm của quá trình dạy học, vừa có
những đặc điểm riêng phản ánh tính đặc thù của bộ môn này. Vận dụng nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở
TSQLQ2 được biểu hiện cụ thể trên một số nội dung chủ yếu sau:
Yêu cầu mục tiêu giảng dạy là xuất phát từ thực tiễn để trang bị những
kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và thái độ hành vi cho người học, nhằm phục vụ

đường lối chính trị quân sự của Đảng; thực tiễn công cuộc đổi mới, phát triển
kinh tế – văn hóa – xã hội; sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước; xây dựng niềm tin, lý tưởng cộng sản góp phần xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được thống nhất ở từng mục
tiêu cụ thể của môn học, phần học và bài học.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy các môn KHXH&NV của giảng viên là sự phản ánh các hoạt động truyền
thụ kiến thức, kỹ năng, tổ chức thực hiện các nội dung môn học sao cho gắn
lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội, quân đội và chức trách nhiệm vụ của
13


người học sau khi ra trường đảm nhiệm, nhằm hình thành các kiến thức, kỹ
xảo, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho học viên thông qua các nội dung,
phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học. Tuy nhiên, các hoạt động trên
muốn đạt được chất lượng tốt thì từng hoạt động giảng dạy, từng bài giảng
phải bảo đảm tính khoa học, phải gắn với thực tiễn. Trong đó yêu cầu người
giảng viên phải có trình độ kiến thức chuyên môn, sự am hiểu thực tiễn xã
hội, thực tiễn hoạt động quân sự, thực tiễn cuộc sống; kinh nghiệm, kỹ năng
lao động sư phạm; qua đó có tác dụng dẫn dắt, mở rộng, củng cố và làm sâu
sắc thêm những kiến thức về lý thuyết, rèn luyện kỹ năng thực hành, thực tập,
liên hệ vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn, rèn luyện năng lực hoạt động
thực tiễn cho học viên.
Thứ nhất, biểu hiện trong nội dung giảng dạy.
Nội dung giảng dạycác môn KHXH&NV của Nhà trườnglà sự cụ thể
hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo, vì thế nó phải đảm bảo tính chính xác, hệ
thống, cơ bản, hiện đại và mang tính thực tiễn cao. Nội dung giảng dạy làm rõ
thực tiễn lịch sử vấn đề học tập, thực trạng các vấn đề của xã hội, quân đội đã
và đang đặt ra, dự báo xu hướng vận động phát triển của các vấn đề trong thời
gian tới. Trong nội dung giảng dạy của từng bài giảng, các vấn đề lý luận và

thực tiễn được trình bày, kết hợp một cách thống nhất để lý luận thường
xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, phản ánh kịp thời sự vận động, biến đổi
của thực tiễn. Những thay đổi trong đời sống thực tiễn xã hội được giảng viên
kịp thời nắm bắt và đưa vào trong nội dung bài giảng của mình cho phù hợp,
tạo sự thống nhất tương đối giữa lý luận và thực tiễn. Chúng ta không được
coi lý luận trong từng nội dung bài giảng như một cái gì xong xuôi, cứng
nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo và luôn được bổ sung bằng những kết luận mới
được rút ra từ thực tiễn hoạt động quân sự và cuộc sống sinh động.
Tuy nhiên, các vấn đề lý luận không phải là những lời giải đáp trực tiếp
cho từng vấn đề cụ thể vô cùng phong phú, đa dạng của thực tiễn mà là cơ sở

14


có giá trị định hướng về mặt phương pháp luận. Do đó, trong nội dung giảng
dạy, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện ở sựphân
tích, chứng minh, luận giải làm cho người học nắm được cơ sở lý luận, khía
cạnh phương pháp luận của các vấn đề cần truyền đạt, từ đó họ có thể liên hệ,
lý giải được những vấn đề thực tiễn đã và đang đặt ra.
Khi trình bày các nguyên lý, phạm trù, quy luật, lấy những ví dụ minh
họa mang tính thực tiễn, thường xuyên liên hệ lý luận với thực tiễn, phân tích
một cách có căn cứ lý luận; vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật
luận giải các vấn đề thực tiễn. Biểu hiện của nguyên tắc trong nội dung giảng
dạy các môn KHXH&NV làthể hiện được cơ sở lý luận, khía cạnh phương
pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời sống,
từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh. Trong quá trình thực hiện nội dung giảng dạy, yêu cầu đối với từng
giảng viên là phải hướng dẫn cho người học cách thức tiếp cận các vấn đề học
tập trong thực tiễn, phải luôn bám sát thực tiễn, nắm bắt kịp thời thực tiễn và
những yêu cầu mới do thực tiễn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đặt ra. Đồng

thời nội dung dạy học phải đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa trang bị kiến
thức lý thuyết với thực tiễn cuộc sống, thực tiễn thực hiện chức trách nhiệm
vụ của người cán bộ sau khi ra trường đảm nhiệm.
Thứ hai, biểu hiện trong phương pháp, hình thức tổ chức giảng dạy
Phương pháp, hình thức tổ chức giảng dạy là những yếu tố quan trọng
nhất của quá trình giảng dạy các môn KHXH&NV. Kỹ năng thực hành liên hệ
vận dụng, năng lực hoạt động thực tiễn của học viên có được hình thành và
phát triển vững chắc hay không phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của việc sử
dụng phương pháp, hình thức tổ chức giảng dạy của giảng viên. Muốn làm
được điều đó, giảng viên phải nắm vững nội dung bài giảng, phải nắm vững
bản chất khoa học và cách mạng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim
nam cho mọi hoạt động, có trình độ và kinh nghiệm sư phạm trong lựa chọn,
15


vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức. Đặc biệt,
giảng viên phải xuất phát từ thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo,
đặc điểm từng môn học, bài học, nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ
thể cùng các môn khoa học chuyên ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều
kiện, tình hình cụ thể; dựa vào đặc điểm tâm lý nhận thức của học viên, từng
đối tượng học viên và điều kiện phương tiện hiện có của Nhà trường mà xây
dựng các tình huống sư phạm đưa người học vào thực tiễn, dựng lại thực tiễn,
dùng thực tiễn để chứng minh làm sáng tỏ các lý thuyết khoa học, góp phần
tạo ra hứng thú say mê kích thích lôi cuốn người học tham gia vào quá trình
nhận thức. Kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức tổ chức dạy học trong đó chú
trọng các hình thức thực hành, thực tập rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng hoạt động
thực tiễn cho học viên.
Thứ ba, biểu hiện trong hoạt động học tập của học viên
Vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình nhận thức, học viên ngoài

việc tiếp thu kiến thức trong từng bài học, còn phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống
kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và vươn lên thích ứng với những đòi hỏi của hoạt
động thực tiễn nghề nghiệp. Học viên không chỉ tiếp thu nội dung bài học một
cách thụ động hoặc chỉ dừng ở mức độ nhận thức lý luận, mà phải thường xuyên
tìm tòi, nghiên cứu, nắm bắt tình hình cụ thể thực tiễn, nhìn rõ những yêu cầu,
những vấn đề do thực tiễn đặt ra và đòi hỏi lý luận phải trả lời, luyện tập, vận
dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn theo yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Sự vận dụng này được tiến hành ở các mức độ từ thấp đến cao, tuỳ theo
yêu cầu từng môn học. Để làm được điều đó, học viên luôn nêu cao tinh thần tự
giác, tích cực, phát huy mọi chức năng tâm lý từ cảm giác, tri giác, trí nhớ,
tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ đến tình cảm, ý chí để thực hiện các nhiệm vụ
học tập. Do vậy, vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
học tập của học viên được thể hiện ở kết quả thực hành, liên hệ vận dụng kiến
thức để rèn luyện, hình thành kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp và trình độ phát
triển trí tuệ của người học.
16


Trong đó, kết quả vận dụng lý luận vào thực tiễn được biểu hiện ở việc
người học nắm vững kiến thức và vận dụng thành thạo vào giải quyết các
nhiệm vụ lý thuyết và thực tiễn đặt ra, tuy nhiên không bằng nhau về mức độ
như trình độ kỹ xảo (biết vận dụng, liên hệ kiến thức đã học vào những tình
huống quen thuộc, nếu đạt tới trình độ tự động hóa thì gọi là kỹ năng); trình
độ biến hóa (biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách linh hoạt, sáng
tạo, trong những điều kiện thay đổi).
Trên cơ sở kiến thức đã nắm được, học viên dần dần hình thành hệ thống
kỹ xảo, kỹ năng nhất định bao gồm hệ thống kỹ xảo, kỹ năng về học tập, hệ
thống kỹ xảo, kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của hoạt động thực tiễn thông qua thực
hành, thực tập kiến thức đã lĩnh hội vào nghề nghiệp tương lai và giải quyết
các vấn đề thực tiễn đặt ra. Cùng với việc trang bị kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng

nhiệm vụ của quá trình giảng dạy còn phải phát triển trí tuệ cho người học,
hình thành cho học viên khả năng phát hiện vấn đề, có tư duy sáng tạo trong
giải quyết vấn đề, bảo đảm bề rộng và chiều sâu của nhận thức cũng như tính
hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
Ngoài ra, phương tiện kỹ thuật dạy học là yếu tố rất quan trọng đối với
quá trình nhận thức, tiếp nhận thông tin học tập, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng
nghề nghiệp và năng lực vận dụng vào thực tiễn của học viên. Để sử dụng có
hiệu quả phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy, giảng viên phải sử dụng các
phương tiện kỹ thuật dạy học đúng mục đích, phù hợp với nội dung, đặc điểm
tâm lý của người học, bảo đảm tính hệ thống, tính an toàn, tính kinh tế, tính
giáo dục, phù hợp với điều kiện thực tế của Nhà trường.
1.1.2. Quan niệm vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở trường
Sĩ quan Lục quân 2
Giảng dạy có thể quan niệm là hoạt động có mục đích, có tổ chức, phối
hợp thống nhất giữa hoạt động của người dạy và người học nhằm trang bị,
truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho người học của nhà giáo, giảng dạy luôn đi
17


đôi và gắn liền với hoạt động học tập của học viên và hợp thành hoạt động
dạy học trong lĩnh vực sư phạm.
Bên cạnh các hoạt động giảng dạy truyền thống như thuyết trình, đàm
thoại, luyện tập thì trong quá trình giảng dạy giảng viên cần áp dụng các cách
khác như: dạy giải quyết vấn đề; dạy theo tình huống; định hướng hành động,
sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ;sử dụng kỹ thuật dạy học phát huy tính
tích cực và sáng tạo;chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn;bồi
dưỡng phương pháp học tập tích cực cho người học.
Từkhái niệm trên cho thấy, giảng dạy là hoạt động sư phạm của nhà giáo
sử dụng tổng hợp các hình thức, phương pháp, phương tiện, kinh nghiệm

nhằm truyền thụ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năngtheo mục tiêu, yêu cầu của từng
nội dung bài học, môn học cho người học, quá trình này luôn gắn liền với các
hoạt động học tập của người học.
Trên cơ sở kế thừa, phân tích mục tiêu, nhiệm vụ và đặc điểm dạy học
tôi quan niệm giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 như sau:
Giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 là một quá trình có mục đích,
có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động giảng dạy của giảng viên và
hoạt động học tập của học viên nhằm trang bị kiến thức lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam; trên cơ sở đó phát triển khả năng tư duy lý luận, giáo dục những
phẩm chất nhân cách cần thiết cho người học ở Nhà trường.
Trước hết, giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 là quá trình có
mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, có chương trình, nội dung xác định, có
cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật đảm bảo, được thực hiện bởi chủ thể của quá
trình giảng dạy đó là giảng viên cùng với hoạt động học tập của học viên
nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, yêu cầu của quá trình đào tạo.
Chức năng trội của giảng dạy các môn KHXH&NV là hình thành hệ
thống kiến thức về xã hội, con người, tư duy và quan điểm khoa học của chủ
18


nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho người học, trên cơ sở đó mà phát triển tư duy lý luận,
giáo dục nhân cách, chuẩn bị tâm lý, tạo niềm tin cho họ thực hiện nhiệm vụ.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn
KHXH&NV phản ánh mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất giữa mục tiêu, nội
dung, hình thức, phương pháp dạy học với thực tiễn xã hội, quân đội và nghề
nghiệp của người học trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập, công tác tại
Nhà trường cũng như nhiệm vụ, chức trách đảm nhiệm trên cương vị công tác
sau khi ra trường.

Như vậy, trên cơ sở phương pháp tiếp cận hệ thống, nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở
TSQLQ2 là sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố của quá trình giảng
dạy. Sao cho nội dung giảng dạyở Nhà trường phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, lý
luận phải liên hệ với thực tiễn, được biểu hiện cụ thể trên các nội dung chủ
yếu sau:
Yêu cầu mục tiêu của quá trình giảng dạy của Nhà trường là xuất phát từ
thực tiễn để trang bị những kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và thái độ hành vi cho
người học, nhằm phục vụ đường lối chính trị quân sự của Đảng; thực tiễn
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng nhà trường chính quy, tiên tiến, mẫu
mực; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
được thống nhất ở từng mục tiêu cụ thể của môn học, phần học và bài học.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn
KHXH&NV ở TSQLQ2là sự phản ánh các hoạt động hướng dẫn, tổ chức
thực hiện các nội dung giảng dạy sao cho gắn lý luận với thực tiễn đất nước,
quân đội và chức trách nhiệm vụ của người học sau khi ra trường đảm nhiệm
nhằm hình thành các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho
19


học viên ngay tại Nhà trường thông qua nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện dạy học. Tuy nhiên, các hoạt động trên muốn có chất lượng thực
sự thì từng nhiệm vụ, từng hoạt động sư phạm của người giảng viên phải bảo
đảm tính khoa học, phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động
trong thực tiễn; rèn luyện khả năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và
nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trong đó yêu cầu người giảng viên
phải có trình độ kiến thức chuyên môn, sự am hiểu thực tiễn xã hội, thực tiễn
hoạt động quân sự, thực tiễn cuộc sống; kinh nghiệm, kỹ năng lao động sư

phạm; qua đó có tác dụng dẫn dắt, mở rộng, củng cố và làm sâu sắc thêm
những kiến thức về lý thuyết, rèn luyện kỹ năng thực hành, thực tập, liên hệ
vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện năng lực hoạt động thực
tiễn cho học viên. Thường xuyên sơ kết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái
quát và bổ sung phát triển lý luận, bổ sung nội dung bài giảng; luôn có sự kết
hợp chặt chẽ công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
các môn KHXH&NV ở TSQLQ2là khái niệm được hợp thành bởi chất lượng
các nhân tố của quá trình giảng dạy. Các nhân tố này luôn tồn tại và phát triển
trong một quá trình thống nhất, trong đó chất lượng giảng dạy là điều kiện, là
yếu tố bảo đảm cho chất lượng học tốt. Ngược lại, người học có thái độ học
tập nghiêm túc, trách nhiệm sẽ tạo ra đòi hỏi cao với các lực lượng sư phạm
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Các nhân tố khác là yếu tố quan
trọng cùng với nhân tố giảng dạy luôn tác động thúc đẩy lẫn nhau nhằm thực
hiện mục tiêu bảo đảm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy các môn KHXH&NV.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Vận dụng là đem tri thức, lý luận áp dụng vào
thực tiễn – vận dụng các kiến thức đã học trong trường” [58, tr.1444].
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 là quá trình có mục đích, có tổ chức của
20


các chủ thể sử dụng các cách thức, biện pháp sư phạm áp dụng sáng tạo nội
dung nguyên tắc vào quá trình giảng dạy các môn KHXH&NV nhằm bảođảm
sự thống nhất giữa hệ thống tri thức lý luận được trang bị cho người học phù
hợp với thực tiễn đất nước, quân đội đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của
Nhà trường gắn với thực tiễn huấn luyện, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở những
giai đoạn lịch sử nhất định.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội

dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, triết học Mác – Lênin nói
riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học, tri thức lý luận
và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan vì mục tiêu
tiến bộ xã hội. Việc giảng dạy các môn KHXH&NV không thể chỉ là lên lớp
lý thuyết suông, trừu tượng mà phải gắn với đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, gắn với thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, nhiệm
vụ quân sự quốc phòng, an ninh và thực tiễn kinh nghiệm chiến đấu của Quân
đội ta… Việc giảng dạy các môn khoa học chuyên ngành có liên quan trực
tiếp đến năng lực nghề nghiệp của người học, cho nên đòi hỏi cao ở liên hệ lý
luận với thực tiễn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sự phân tích sâu sắc thực
tiễn sẽ tạo cơ sở cho việc vận dụng lý luận để nâng cao năng lực nghề nghiệp
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Hơn nữa, việc liên hệ lý luận với thực tiễn
không chỉ dừng lại ở các vấn đề chính trị, xã hội và nghề nghiệp, mà phải thể
hiện cả trong giáo dục đạo đức và phong cách. Người dạy phải lấy thực tiễn
về phẩm chất đạo đức, phong cách của người học để đưa ra và phân tích phảitrái, đúng- sai nhằm giúp người học tìm phương hướng giải quyết.
Vận dụng nguyên tắc này trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở
TSQLQ2 nhằm mục đích gắn lý luận vào đời sống thực tiễn quân sự, gắn
những nguyên lý, những phạm trù trừu tượng của bài giảng vào giải quyết
những vấn đề rất cụ thể bên ngoài thực tiễn cuộc sống, thực tiễn Nhà trường
21


và quân đội để làm rõ tính khoa học và cách mạng của các nguyên lý lý luận
đó, nhằm cung cấp cho người học những phương tiện tri thức để chuyển dịch
từ lĩnh vực học tập sang lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Kết quả thu được thông
qua quá trình giảng dạy thể hiện mức độ lĩnh hội tri thức, mức độ phát triển trí
tuệ, mức độ vận dụng kiến thức KHXH&NV vào thực tiễn học tập, công tác
của học viên. Trong công tác giảng dạy nói chung, giảng dạy các môn
KHXH&NV nói riêng muốn đạt hiệu quả cao, nhất thiết chúng ta phải gắn lý

luận với thực tiễn. Vận dụng nguyên tắc này làm cho học viên thấy rõ thực
tiễn của đất nước, của thế giới, của nghề nghiệp đang diễn ra trong hiện tại
cũng như dự báo xu hướng phát triển của thực tiễn trong nội dung từng bài
giảng. Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; xu thế
khách quan của sự toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nắm được đặc
điểm này học viên sẽ có được niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác – Lênin,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giúp cho
họ có ý thức rõ về nghề nghiệp tương lai và tích cực tham gia hoạt động thực
tiễn trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình.
Chủ thể thực hiện vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở TSQLQ2 là giảng viên trực tiếp
tham gia giảng dạy các môn KHXH&NV,là một bộ phận giảng viên ở
TSQLQ2, được đào tạo, tuyển chọn từ nhiều nguồn khác nhau phù hợp với
chuyên ngành giảng dạy của mình, có đủ trình độ, năng lực chuyên môn và có
khả năng trình độ hiểu biết, nhạy bén với thực tiễn đáp ứng yêu cầu giáo dục
– đào tạo của Nhà trường trong từng giai đoạn nhất định. Theo thống kê từ
Phòng Đào tạo – TSQLQ2 thì tổng số giảng viên KHXH&NV của Nhà
trường là 147 (Phó Giáo sư: 01; Tiến sĩ: 09; Thạc sĩ: 66; Cử nhân: 71)

22


Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy
các môn KHXH&NV là gắn các nguyên lý, phạm trù, quy luật của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng với thực
tiễn đang vận động của xã hội và quân đội trong từng thời điểm lịch sử nhất
định, làm sáng tỏ tri thức thức lý luận bằng các dẫn chứng thực tiễn sinh
động, đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện lý

luận. Thông qua từng nội dung bài giảng mà người giảng viên KHXH&NV
chọn lọc những sự kiện thực tiễn cho phù hợp để làm sáng rõ nội dung bài
giảng đồng thời tạo niềm tin cho người học khi tiếp cận các vấn đề lý luận của
bài giảng. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy các môn KHXH&NV là làm rõ thực chất các vấn đề lý luận để chỉ
đạo hoạt động thực tiễn đồng thời phải luôn tổng kết kinh nghiệm từ hoạt
động thực tiễn để bổ sung làm phong phú thêm lý luận và trong một chừng
mực nào đó lại được chuyển hoá thành nội dung giảng dạy ở mức độ cao hơn.
Hồ Chí Minh nói: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng
ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào
một cái hòm đựng sách” [46, tr. 234].
Để vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy các môn KHXH&NV các chủ thể sư phạm cần phải có những tác động
một cách khoa học và có hệ thống vào các khâu, các bước của quá trình giảng
dạy. Hay nói cách khác các chủ thể sư phạm cần có những biện pháp phù hợp
nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu về nhận thức, cũng như rèn luyện kỹ
xảo, kỹ năng và hình thành thái độ cho học viên.Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật thì người giảng viên ngày càng có điều kiện và cơ hội tiếp cận
với những phương tiện, trang bị hỗ trợ cho quá trình giảng dạy của mình và
chính nhờ những trang thiết bị đó mà làm cho nội dung các bài giảng lý luận

23


đó sinh động hơn, tránh được sự khô cứng vốn có của các môn lý luận. Kiến
thức lý luận mà giảng viên truyền thụ phải hướng mạnh vào việc lý giải và
làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn, nhất là những vấn đề mới, những bức
xúc mà thực tiễn cuộc sống và người học đang đặt ra, cung cấp cho người học
những thông tin mới, những kiến thức thuộc lĩnh vực mà họ đang thiếu, đang

cần. Do vậy, người giảng viên KHXH&NV phải nghiên cứu tìm tòi, không
ngừng làm giàu vốn tri thức của mình để có năng lực tư duy, trình độ lý luận
sắc bén, có thông tin kịp thời, chính xác từ thực tiễn, để phân tích, lý giải một
cách khoa học, qua đó, giáo dục, tạo niềm tin khoa học cho người học, tạo sự
thống nhất cao về tư tưởng, đồng thời, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội
trước những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.
Đặc biệt, quá trình giảng dạy cần tăng cường mối liên hệ giữa nội dung
giảng dạy học với thực tế đời sống xã hội, quân đội và nghề nghiệp của học
viên, khắc phục mọi biểu hiện chủ nghĩa hình thức trong việc nắm tri thức.
Bảo đảm sự cân đối hài hòa giữa lý luận với với thực tiễn cuộc sống, thực tiễn
nghề nghiệp quân sự của học viên. Thực hiện nguyên lý “Học đi đôi với hành,
lý luận gắn liền với thực tiễn”.
Vấn đề bảo đảm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy các môn KHXH&NV là một nội dung rất quan trọng trong hoạt
động động giảng dạy các môn KHXH&NV, nó đảm bảo cho nội dung bài
giảng không nhàm chán chỉ coi trọng lý luận, xa rời thực tiễn, luôn bám sát các
hoạt động của xã hội, quân đội và nghề nghiệp của học viên. Tuy nhiên, trong
quá trình giảng dạy không thể đưa tất cả những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn vào giảng dạy đồng thời cũng không thể giải quyết hết mọi vấn đề do
thực tiễn đặt ra. Phải lựa chọn những vấn đề thiết thực nhất theo yêu cầu hoạt
động nghề nghiệp của từng bộ môn, của cuộc sống xã hội mạnh dạn loại bỏ
những bộ phận không thiết thực trong giảng dạy các môn KHXH&NV.

24


1.2. Nhân tố quy định vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn ở
Trường Sĩ quan Lục quân 2
1.2.1. Nhân tố quan điểm, đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng,

Nhà nước và Quân đội taquy định vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Sĩ quan Lục quân 2
Quan điểm, đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng, Nhà nước và Quân
đội ta là một nhân tố hàng đầu quy định đến việc vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở
TSQLQ2. Những quan điểm, đường lối giáo dục và đào tạo được trình bày
trong các văn kiện, chỉ thị… là sự thể hiện tập trung trình độ tư duy lý luận
của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn giáo dục Việt Nam, là sự
kết hợp sâu sắc giữa lý luận và thực tiễn. Mỗi văn kiện, nghị quyết là một
mốc đánh dấu sự phát triển trình độ nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn
của Đảng và Nhà nước ta về công tác giáo dục và đào tạo.
Ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó xác định giáo dục và đào tạo là một
nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam và nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo đại học là một yêu cầu bức thiết của xã hội trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta. Trước yêu cầu bức thiết đó, ngày 3/3/2009 trong thông
báo kết luận của Bộ Chính trị khóa X “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục – đào tạo đến
năm 2020” là: Rà soát lại toàn bộ chương trình giáo dục, khắc phục tình
trạng nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức sự
sáng tạo của người học. Cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình các
môn KHXH&NV, nhất là các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
25


×