Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ lợi ÍCH QUÂN NHÂN TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.96 KB, 147 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay đã và đang đặt
con người vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Trong hệ thống các nhân tố tạo nên động lực phát triển xã hội, lợi ích là nhân tố quyết định và
xuyên suốt quá trình chuyển hoá những yêu cầu khách quan của cuộc sống cộng đồng thành
động cơ bên trong thúc đẩy thái độ, hành vi của con người. Quan hệ lợi ích là cơ sở phối hợp
hành động của mọi thành viên trong xã hội, tạo nên hợp lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. C.Mác
đã coi lợi ích là tính tất yếu tự nhiên, là nhu cầu cơ bản của con người, là cái liên kết các thành viên
trong xã hội với nhau. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề lợi ích trong xã hội ta có tác động trực tiếp
mạnh mẽ đến con người nói chung và cán bộ, chiến sỹ trong QĐNDVN nói riêng.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước
hiện đại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần có sự nhận thức và giải quyết đúng
đắn vấn đề lợi ích của quân nhân. Nếu không thực hiện tốt lợi ích của quân nhân trong cuộc
sống, thì mọi biện pháp phát huy tính tích cực của con người trong xây dựng quân đội sẽ không
đem lại hiệu quả như mong muốn.
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm giải quyết hài hoà lợi
ích quân nhân trong điều kiện kinh tế- xã hội cho phép. Đó là một trong những nhân tố quan
trọng phát huy tính tích cực chính trị- xã hội của cán bộ, chiến sỹ quân đội ta. Tuy nhiên, trong quá
trình tổ chức thực hiện, giải quyết lợi ích của các cấp, các ngành cũng như hệ thống chính trị vẫn còn
có nhận thức giản đơn và việc làm chưa phù hợp.
QĐNDVN do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quá trình xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành luôn phát huy được bản chất, truyền thống của quân đội cách mạng. Trước sự
chuyển hoá của đất nước và quân đội từ thời chiến sang thời bình, nhất là sự tác động của kinh
tế thị trường, sự chống phá của kẻ thù, đã làm nảy sinh những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của quân nhân. Trong chiến tranh, lợi ích của quân nhân hoà
quyện vào lợi ích dân tộc, họ cần phải và hầu như tạm quên đi những khát vọng riêng tư của
mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, giải quyết lợi ích đang chịu
sự tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, lối sống thực dụng, tình trạng quan liêu,
tham nhũng, biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, sự phân hoá giàu, nghèo trong xã hội, cùng với những
vấn đề hậu phương gia đình của họ còn nhiều khó khăn... đã ảnh hưởng nhất định đến suy nghĩ


và hành động trong thực hiện nhiệm vụ của quân nhân. Song, với bản chất của một quân đội
cách mạng và do yêu cầu, nhiệm vụ hoạt động quân sự, dù có chịu sự tác động của bất kỳ tiêu
cực xã hội nào, thì người quân nhân cũng không thể lấy lợi ích cá nhân, hay lợi ích kinh tế, vật
chất làm động lực trực tiếp, duy nhất cho hoạt động của mình như các thành viên khác trong xã
hội. Do vậy, nhận thức và giải quyết đúng đắn lợi ích quân nhân có ý nghĩa hết sức quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng quân đội ta. Điều đó thôi thúc tác giả chọn đề


tài: “Lợi ích quân nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay”
làm nội dung nghiên cứu.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều tác
phẩm, đã có những chỉ dẫn quan trọng về vấn đề lợi ích đối với xã hội và con người. Đây là cơ
sở lý luận, phương pháp luận để Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào giải
quyết các quan hệ lợi ích trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Từ những năm 80 (TKXX) ở Liên Xô đã công bố hàng loạt các công trình quan trọng
xung quanh vấn đề lợi ích như: “Lý luận Mác- Lê nin về quá trình lịch sử” của tập thể tác giả do
Ju.Kpethilov chủ biên, M.1981; “Nhu cầu, lợi ích, giá trị” của AGZDravamyslov, M.1986; “Vị trí
của lợi ích trong sự định hướng hoạt động của con người” của A.ru Didkorskij (tập san triết
học của trường đại học tổng hợp Lômôlôxốp, số 4/1986)...
Ở Việt Nam, vấn đề lợi ích cũng được thể hiện ở các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng
cộng sản Việt Nam. Việc nghiên cứu vấn đề lợi ích được nhiều nhà khoa học đặc biệt quan tâm
và thu được nhiều kết quả quan trọng. Đã có nhiều công trình được công bố trên các tạp chí lý
luận và vận dụng vào thực tế cuộc sống: “Lợi ích kinh tế với vấn đề đổi mới tư duy ở nước ta
hiện nay” của tác giả Vũ Hữu Ngoạn (Nghiên cứu lý luận, số 1+2/1987); “Vị trí, vai trò của lợi ích
trong hoạt động của con người” của Nguyễn Thế Nghĩa (Triết học, số 1/1991); “Lợi ích với tư
cách là động lực phát triển xã hội”- luận án PTS triết học của Nguyễn Linh Khiếu, 1996; “Về sự
kết hợp các lợi ích kinh tế” của tập thể tác giả (Nxb Thông tin lý luận, H.1983.
“Quan tâm đời sống của bộ đội là một nhiệm vụ chính trị quan trọng” của Đại tướng
Phạm Văn Trà (tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/1993); “Bàn về lao động quân sự trong nền

kinh tế thị trường” của PGS, TS Lê Minh Vụ (tạp chí Quốc phòng toàn dân 11/1994); “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người XHCN và một số suy nghĩ về phẩm chất chính trị đạo đức anh bộ đội
Cụ Hồ trong giai đoạn mới” của GS Trần Xuân Trường (tạp chí Quốc phòng toàn dân, số
2/1995); “Vấn đề lợi ích- động lực to lớn thúc đẩy tính tích cực hoạt động của quân nhân”, TS
Phạm Văn Nhuận (tạp chí GDLL CTQS, số 4/1997); Chử Văn Tuyên “Lợi ích kinh tế của người
lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”,
luận án tiến sĩ quân sự, H.1998; “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách đãi ngộ đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong tình hình mới”, Nxb QĐND, H.1999; Hội thảo
về các chính sách đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, (Tạp chí QPTD, số
8/1989); Luật nghĩa vụ quân sự; Luật về sỹ quan QĐNDVN...
Những ấn phẩm trên đây đã đề cập đến nhiều vấn đề, dưới các góc độ khác nhau, từ khái
niệm, vai trò, nội dung, phương hướng và giải pháp giải quyết vấn đề lợi ích. Song chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống dưới góc độ triết học- xã hội với tư cách là một
đề tài độc lập “ Lợi ích quân nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện


nay”. Chính vì vậy, tác giả luận án đã kế thừa những kết quả nghiên cứu khoa học trong và ngoài
nước, đồng thời đặt vấn đề nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống vấn đề khoa học nói trên.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án:
Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn lợi ích quân nhân QĐNDVN trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết đúng
đắn lợi ích đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án:
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ sau.
- Làm rõ thực chất lợi ích nói chung, lợi ích quân nhân nói riêng và sự tác động
của kinh tế thị trường đến lợi ích quân nhân quân đội ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng giải quyết lợi ích quân nhân và nguyên nhân của nó, rút ra một số
vấn đề có tính quy luật trong quá trình giải quyết lợi ích quân nhân Quân đội ta.
- Phân tích một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt lợi ích quân nhân trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải quyết lợi ích quân nhân trong quân đội dưới
tác động của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: từ góc độ triết học- xã hội, luận án nghiên cứu quá trình giải
quyết lợi ích quân nhân QĐNDVN, chủ yếu từ khi nước ta thực hiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa vào các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các văn kiện nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam; các nghị quyết của Ban chấp hành
Trung ương, của Bộ chính trị; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng uỷ quân sự Trung ương. Bộ Quốc
phòng và TCCT; các bài viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội về
vấn đề lợi ích, chính sách xã hội, chính sách với quân nhân và quân đội trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Đồng thời tham khảo và kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài quân đội có liên quan đến các vấn đề được đề cập.
Cơ sở thực tiễn: dựa vào tình hình thực tế giải quyết lợi ích trong đời sống xã hội Việt
Nam và của quân đội, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Luận án còn
dựa vào những cứ liệu thực tế qua điều tra, tổng hợp, tổng kết của các cơ quan chức năng Bộ
Quốc phòng, một số Quân khu, Quân đoàn. Đồng thời dựa vào số liệu điều tra xã hội học, khảo sát
thực tế của tác giả về thực trạng quá trình giải quyết vấn đề lợi ích ở một số đơn vị, cơ quan trong
quân đội.


Phương pháp nghiên cứu: luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng
hợp, kết hợp lôgic- lịch sử; ngoài ra còn sử dụng các phương pháp so sánh, thống kê, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia.v.v... để làm sáng tỏ góc độ chính trị- xã hội
của vấn đề.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Từ góc độ triết học- xã hội, tác giả luận án góp phần làm rõ thực chất lợi ích quân nhân

và sự tác động của kinh tế thị trường định hướng XHCN đến lợi ích quân nhân hiện nay.
- Chỉ ra vấn đề có tính quy luật trong quá trình giải quyết lợi ích quân nhân QĐNDVN.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản, đồng bộ phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự
trong tình hình mới, nhằm hiện thực hoá vấn đề lợi ích trong quân đội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án là một trong những cơ sở khoa học nhằm tiếp tục
khẳng định bản chất ưu việt của CNXH, của quân đội cách mạng và góp phần vào quá trình xây
dựng, hoàn thiện chính sách của Đảng, Nhà nước bảo đảm lợi ích đối với quân nhân và gia đình
hậu phương quân đội hợp lý.
- Góp phần vào việc nâng cao nhận thức đầy đủ và đúng đắn về lợi ích của quân nhân,
về vai trò của nó đối với việc phát huy nhân tố con người và xây dựng quân đội vững mạnh.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học; trong giảng dạy
các nội dung có liên quan đến chính sách, công bằng xã hội trong các nhà trường và đơn vị quân
đội hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án có: 183 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
CHƯƠNG 1
LỢI ÍCH QUÂN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA ĐẾN LỢI ÍCH QUÂN NHÂN HIỆN NAY
1.1. Lợi ích và lợi ích quân nhân
1.1.1. Khái niệm lợi ích


Trong mọi chế độ xã hội, lợi ích có liên quan đến các thành viên, các cộng đồng người.
Sự tác động của nó biểu hiện rất phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Do vậy, lợi
ích là vấn đề cơ bản, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế- xã hội và sự vận động của lịch sử
xã hội loài người. Lịch sử cho thấy, lợi ích cũng như vô vàn những khái niệm khác đã được loài
người nghiên cứu tiếp cận dưới những góc độ hiểu biết khác nhau.
Lợi ích từ tiếng La tinh Interest, có nghĩa là: sự quan trọng, cần thiết, là nguyên nhân

hiện thực của các hành động xã hội, các sự kiện, thành tựu ẩn dấu đằng sau những sự thúc đẩy
trực tiếp động cơ, ý đồ, lý tưởngv.v.. của cá nhân, tập đoàn xã hội, giai cấp tham gia vào những
hành động đó.
Chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm lợi ích là cái gì trực tiếp có lợi và đem lại ngay
sự thoả mãn nào đó trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Chủ nghĩa duy tâm xem lợi ích như là
một hiện tượng đặc biệt của tâm lý, không gắn lợi ích với quan hệ kinh tế. Chủ nghĩa khổ hạnh
chối bỏ lợi ích trên trần gian đi tìm lợi ích hư vô nơi thượng đế.
Chủ nghĩa vị kỷ gạt bỏ mọi cái không liên quan đến lợi ích trực tiếp của mình, kêu gọi mọi
người hãy tự lo cho mình, còn chúa sẽ lo cho tất cả. Tất cả những gì tồn tại cho họ và vì họ thì đều là
lợi ích, đều là chân lý. Còn những gì không đem lại lợi ích trực tiếp cho họ đều là hư vô.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như C.A.Hen.vê-ti-uýt; P.Hôn Bách; Đđiđrô là những
người đầu tiên có công giải thích đời sống xã hội bằng lợi ích. Các ông đã đối lập lợi ích của
con người với những điều kiện định trước của thần thánh, cũng như với hoàn cảnh ngẫu
nhiên của quá trình lịch sử. Các ông coi lợi ích là cơ sở hiện thực của đạo đức, của chính trị,
của chế độ xã hội. Tuy nhiên các ông lại cường điệu vai trò của lợi ích theo hướng: “Nếu như
thế giới vật lý phục tùng quy luật vận động, thì thế giới tinh thần cũng phục tùng quy luật của
lợi ích. Trên trái đất, lợi ích là người có phép thần thông vạn năng làm biến đổi hình dáng
của mọi sự vật theo ý kiến của tất cả mọi sinh linh”[88, tr. 319]. Song, các ông đã không vượt
khỏi được khuôn khổ duy tâm về đời sống xã hội, xem lợi ích xã hội là tổng số giản đơn các
lợi ích cá nhân, còn bản thân lợi ích cá nhân thì lại suy ra từ bản tính cảm tình trừu tượng
của con người.
Hêghen là người có công trong việc phát triển lý luận về lợi ích. Tiếp theo Căng, ông
nhấn mạnh rằng, không thể quy lợi ích về cảm tính thô thiển, về bản tính tự nhiên của con người.
“Nếu xét kỹ lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng hành động của con người bắt nguồn từ nhu cầu của
họ, từ ham muốn của họ, và chỉ những cái đó mới đóng vai trò chủ yếu. Con người tìm cách thoả
mãn lợi ích của mình, nhưng nhờ vậy mà còn thực hiện được cái xa hơn, cái ẩn dấu trong các lợi
ích nhưng không được họ nhận thức và không nằm trong ý định của họ”[88, tr. 320]. Do đứng
trên lập trường duy tâm, ông quan niệm mọi sự biến đổi của xã hội chỉ xảy ra trong ý thức của
con người.



Phơ-bách quan niệm lợi ích một cách trừu tượng, xem lợi ích là “bản tính” không thay
đổi. Ph.Ăngghen đánh giá quan niệm về lợi ích của Phơbách được đẽo gọt cho phù hợp với mọi
thời gian, mọi dân tộc và mọi hoàn cảnh.
Các nhà không tưởng đã gắn nhu cầu với lợi ích và muốn đặt con người vào “tình thế”
như thế nào để lợi ích cá nhân con người và lợi ích xã hội luôn luôn được kết hợp với nhau.
Xanhximông đã mong muốn dựa vào sự hoàn thiện dần dần của đạo đức con người để thực
hiện kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa Mác- Lê nin giữ lại những tinh hoa đã thu được từ trước trong việc lý giải lợi
ích nói chung và lợi ích kinh tế nói riêng, đồng thời nhấn mạnh cơ sở khách quan của nó.
Ph.Ăngghen, trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” đã viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất
định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích”[3, tr. 376]. Còn V.I Lênin lại xác định: “Tìm
nguồn gốc của những hiện tượng xã hội trong những quan hệ sản xuất, và phải quy những hiện
tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định”[35, tr. 670].
Những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, các nhà lý luận và hoạt động thực tiễn hiện đại đã
tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế. Có nhiều công trình khoa học của
các nhà khoa học Liên Xô, ở Việt Nam và một số nước khác đã đề cập đến vấn đề lợi ích rất sôi nổi.
Các tác giả tiếp cận khái niệm lợi ích từ nhiều góc độ: kinh tế học, triết học, xã hội học.v.v.. đã đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau.
Chẳng hạn như K.B.I-xabêkob cho rằng: “Chủ nghĩa Mác hiểu lợi ích như là nhu cầu
khách quan được chế định bởi vị trí xã hội của một cá nhân, một dân tộc, một nhóm xã hội nào
đó”[26, tr. 69]. Hoặc A.Ph.Jax-kê-vích cho rằng lợi ích kinh tế là phạm trù triết học- xã hội học chỉ
quan hệ định hướng khách quan về nội dung của chủ thể đối với việc bảo đảm những điều kiện
tồn tại, hoạt động và phát triển của mình. Hay D.U.Xê-ra-ép cho rằng lợi ích kinh tế là trạng thái
quy định hoạt động, phản ánh nhận thức của chủ thể và được xác định bởi môi trường xã hội, là
khả năng và mục đích hoạt động của chủ thể theo sự thoả mãn của nhu cầu cá nhân và xã hội.
Lợi ích xuất hiện trong quá trình hoạt động của cá nhân, nhóm, giai cấp với tư cách là mặt
cơ bản của hoạt động thực tiễn[26, tr. 69].
Ở Việt Nam, nhiều công trình liên quan đế vấn đề lợi ích được công bố. Có tác giả cho
rằng lợi ích là một hiện tượng xã hội, tuy nó gắn bó hết sức chặt chẽ với nhu cầu nhưng không

phải là sự phản ánh chủ quan của nhu cầu, hoặc là sự biểu hiện nào đó của nhu cầu. Có tác giả
lại khẳng định lợi ích là một hiện tượng chủ quan, là các nhu cầu khách quan được chủ thể nhận
thức. Tác giả Vũ Hữu Ngoạn viết: “Nguồn gốc sâu xa của các động cơ kinh tế là ở chỗ, cuộc
sống của con người bao giờ cũng có nhu cầu và đòi hỏi thoả mãn nhu cầu. Dĩ nhiên không phải
nhu cầu nào cũng làm cho con người theo đuổi, cũng trở thành động cơ. Có nhu cầu chưa thể có
sự chín muồi để thực hiện, có nhu cầu mang tính hiện thực. Những nhu cầu mang tính hiện thực
phụ thuộc vào trình độ của phương thức sản xuất. Khi nhu cầu có điều kiện thực hiện thì trở
thành lợi ích thiết thân của con người, thôi thúc con người vươn lên hành động giành cho kỳ


được. Điều cần nhấn mạnh là không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi
được xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế”[78, tr. 61-62].
Trong cuốn sách xây dựng CNXH ở Việt Nam- vấn đề nguồn gốc và động lực” tác giả Lê
Hữu Tầng có sự trình bày khá sâu sắc về vấn đề lợi ích. Theo ông, “Nhu cầu là những đòi hỏi
của con người, của từng cá nhân, của từng nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có
những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển... Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại
của hoàn cảnh bên ngoài với trạng thái riêng của từng chủ thể, trong đó hoàn cảnh bên ngoài
đóng vai trò quan trọng và trong phần lớn các trường hợp là quyết định”[79, tr. 38-47]. Và
“Phương tiện thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thể hành động chính là lợi ích. Vậy lợi ích gắn bó
hết sức chặt chẽ với nhu cầu... lợi ích không trùng với nhu cầu, nhưng nó cũng không hoàn toàn
tách biệt với nhu cầu. Lợi ích theo chúng tôi, là cái đáp ứng lại nhu cầu và vì lẽ đó chỉ có nghĩa là
lợi ích khi đặt trong mối quan hệ với nhu cầu... xét về bản chất, lợi ích chính là một quan hệ quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể; còn về mặt
nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu”[79, tr. 42].
Thống nhất với quan điểm trên, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn khẳng định: “Con người
hành động là nhằm đạt được những cái để thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu của con người không
phải chỉ có một, đó là cả một hệ thống từ nhu cầu vật chất đến nhu cầu tinh thần, từ nhu cầu sinh
học đảm bảo cho sự tồn tại tự nhiên của con người đến nhu cầu về an ninh tình cảm, nhu cầu
hiểu biết và thẩm mỹ, thậm chí cả nhu cầu được kính trọng, được nổi tiếng. Dĩ nhiên, ở mỗi
người mức độ các nhu cầu này có khác nhau, thậm chí ở cùng một người vào những giai đoạn,
những thời điểm khác nhau mức độ bức thiết của các loại nhu cầu cũng không giống nhau tuỳ

thuộc vào trạng thái cơ thể và sự tác động qua lại với điều kiện khách quan. Tuy nhiên, trước sau
nhu cầu vẫn là một sức mạnh thúc đẩy con người hoạt động. Phương tiện để thoã mãn nhu cầu
là lợi ích, cho nên, lợi ích quyết định hành vi, quyết định hoạt động của con người”[10, tr. 12].
Trong Từ điển tiếng Việt Nxb Giáo dục, Hà Nội 1994 viết: “Lợi ích là điều có ích, có lợi
cho một tập thể người nhất định hay cho một cá nhân trong đó, trong mối quan hệ với tập thể
người ấy (nói khái quát) đặt lợi ích của dân tộc lên trên, quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất, bàn bạc để thấy rõ lợi ích công việc đang làm”[91, tr. 556].
Hay trong từ điển triết học nêu rõ: “Lợi ích là khái niệm nói lên đặc điểm của cái có ý nghĩa khách
quan, cần thiết cho cá nhân, gia đình, tập thể giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung”[92, tr. 662].
Bằng những cách tiếp cận khác nhau đã có nhiều định nghĩa về lợi ích. Tuy vậy, để hiểu
một cách đầy đủ về khái niệm lợi ích, cần hiểu rõ một số vấn đề có liên quan sau đây:
Một là, lợi ích chỉ tồn tại trong đời sống xã hội và luôn gắn với chủ thể nhất định, các chủ
thể này có thể là cá nhân riêng lẻ, cũng có thể là các nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội. Lợi ích
không phải là sản phẩm của ý thức cá nhân, mà là sản phẩm của những điều kiện khách quan
quy định phương hướng thích hợp của ý chí và hành động của con người. Lợi ích là cái thiết
thực vốn có trong nhu cầu cuộc sống của con người, là đòi hỏi khách quan của con người trong


những điều kiện thích hợp. Đồng thời lợi ích là cái do những nỗ lực chủ quan và điều kiện khách
quan mang lại tương xứng với khả năng, sự cống hiến của cá nhân, giai cấp, tập đoàn xã hội,
bao gồm cả vật chất và tinh thần. Xét cho cùng, lợi ích là phương tiện tối ưu mà chủ thể lựa chọn
nhằm đáp ứng nhu cầu của mình, chủ thể giành lấy chúng và sử dụng chúng tạo ra những điều
kiện tốt nhất để thực hiện các nhu cầu của bản thân.
Hai là, sự hình thành lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống của con người. Nhưng con
người luôn là chủ thể của tiến trình lịch sử. Hoạt động của con người bao giờ cũng theo đuổi
những mục đích nhất định, chính thông qua mục đích ấy mà hướng sự hoạt động của con người
nhằm thoả mãn những đòi hỏi nhất định trong quá trình tồn tại và phát triển của mình[31, tr. 17].
Song, nhân tố trực tiếp tạo nên mục đích hoạt động của con người- chính là nhu cầu. Nhu cầu là
trạng thái đòi hỏi bên trong của chủ thể muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển
[31, tr. 19]. Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại của hoàn cảnh bên ngoài với trạng thái riêng

của từng chủ thể, trong đó hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò quan trọng và trong phần lớn trường
hợp có ý nghĩa quyết định. Nhu cầu nảy sinh là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người
hành động để thoả mãn nhu cầu. Cái thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thể hành động là lợi ích.
Lợi ích là cái đáp ứng lại nhu cầu và vì lẽ đó nó chỉ có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong mối
quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối quan hệ đó cái được coi là lợi ích sẽ không còn lợi ích nữa.
Ba là, lợi ích hình thành một cách khách quan, là động cơ khách quan của hoạt động con
người. Lợi ích phản ánh vị trí của con người trong hệ thống sản xuất xã hội, lợi ích là hình thức
biểu hiện của các quan hệ xã hội, đồng thời là nguyên nhân sâu xa của sự vận động xã hội và
đấu tranh giai cấp. Hoạt động chính trị-xã hội xét đến cùng là nhằm thoả mãn lợi ích căn bản của
các giai cấp...
Bốn là, lợi ích của con người rất đa dạng. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà phân chia
lợi ích ra thành nhiều loại khác nhau. Theo cơ cấu xã hội có các lợi ích cá nhân, nhóm, giai cấp,
dân tộc và xã hội (lợi ích chung); theo các lĩnh vực sinh hoạt xã hội có các lợi ích kinh tế, chính trị, tinh
thần; theo cách thể hiện có lợi ích thực tế, trừu tượng, hư ảo; theo xu hướng phát triển của xã hội có
lợi ích tiến bộ, bảo thủ và phản động; căn cứ vào thời gian tồn tại của lợi ích có thể phân chia thành
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài...[34, tr. 83-90].
Sự phân loại lợi ích tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, cũng như tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên,
có thể khái quát mối quan hệ qua lại giữa một số lợi ích chủ yếu: mối quan hệ giữa lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần; giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài. Mỗi loại lợi ích đều có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy hoạt động của con
người. Tất cả các loại lợi ích, cùng các mối quan hệ hữu cơ giữa chúng hợp thành hệ thống các
lợi ích, quy định, điều chỉnh và dẫn dắt hành vi của con người. Chính thông qua cuộc đấu tranh
của con người vì lợi ích mà xuất hiện các biến cố xã hội. Những biến cố đã góp phần tạo nên sự
phát triển của lịch sử. Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu khái niệm lợi ích như sau: Lợi ích


là các giá trị về vật chất và tinh thần, nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người trong điều
kiện kinh tế- xã hội nhất định.
1.1.2. Thực chất lợi ích quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam
Muốn làm rõ thực chất lợi ích quân nhân, trước hết cần phải nghiên cứu khái niệm quân

nhân và lao động quân sự.
Quân nhân là công dân đang phục vụ trong quân đội gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ
và quân nhân chuyên nghiệp trong QĐNDVN. Ngoài nghĩa vụ, quyền lợi theo luật nghĩa vụ
quân sự, luật về sĩ quan QĐNDVN và các điều lệnh, điều lệ của quân đội, quân nhân còn có
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chức trách của quân nhân được quy định trong điều lệnh quản lý bộ đội [93,
tr. 675]. Họ là những người trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Quân nhân trong QĐNDVN với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc thù, một nhóm xã hội lớn
trong bức tranh cơ cấu xã hội- giai cấp ở nước ta. Quân nhân được phân định thành: nhóm sĩ quan;
nhóm hạ sĩ quan, chiến sĩ; nhóm quân nhân chuyên nghiệp. Quân nhân có mặt ở các quân chủng,
binh chủng, quân khu, quân đoàn; có cả trong lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Đội ngũ sĩ quan QĐNDVN là cán bộ của Đảng và Nhà nước đang phục vụ trong quân
đội, được Quốc hội, Chính phủ phong quân hàm cấp tướng, cấp tá và cấp uý.
Đội ngũ hạ sĩ quan, chiến sĩ là những quân nhân có quân hàm binh nhì, binh nhất, hạ sỹ,
trung sỹ, thượng sỹ. Họ là những thanh niên trong độ tuổi quy định, làm nghĩa vụ quân sự theo
luật định.
Đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp là những quân nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ cần thiết cho công tác chỉ huy, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân đội, tự
nguyện phục vụ tại ngũ dài hạn hoặc từng thời hạn. Được chia theo trình độ đào tạo: sơ cấp,
trung cấp, cao cấp; được bố trí vào các chức danh theo quy định của Bộ Quốc phòng. Phù hiệu, cấp
hiệu, chế độ phục vụ, nghĩa vụ và quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong luật
nghĩa vụ quân sự, điều lệ Quân nhân chuyên nghiệp (ban hành kèm theo nghị định 238-HĐBT 3/8/1991
và các văn bản quy định khác [93, tr.675].
Cùng với sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội, đội ngũ quân nhân cũng phát triển và
lớn mạnh về mọi mặt nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội, đáp ứng phương
hướng xây dựng quân đội trong từng thời kỳ cách mạng.
Lao động quân sự là lao động đặc biệt chịu sự chi phối, tác động trực tiếp của quy luật
quân sự- đấu tranh vũ trang, không những trong chiến tranh mà ngay cả trong thời bình, hầu như
mọi mặt hoạt động, cuộc sống, sinh hoạt, trạng thái, tâm lý, tình cảm gia đình của quân nhân đều
phải tuân theo quy luật đó. Dưới tác động của quy luật quân sự quốc phòng, lao động quân sự

diễn ra khẩn trương, căng thẳng đòi hỏi trình độ hợp đồng cao, cơ động lớn, điều kiện hoạt động
trong môi trường khó khăn gian khổ, nguy hiểm, tiêu hao nhiều cả trí lực và thể lực. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang phải hoạt động trong


điều kiện và môi trường “hy sinh gian khổ” với một yêu cầu “kỷ luật nghiêm như sắt”, “tinh thần
vững như đồng”, “trong thời chiến bình tĩnh như thời bình, trong thời bình khẩn trương chịu gian
khổ như thời chiến”, “Quân đội là những chiến sỹ đánh giặc gian khổ nhất””[48, tr. 429]. Trước
yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, Đảng ta cũng xác định: “Quân đội là ngành lao động
nặng nhọc làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc”, “lao động quân đội là lao động đặc biệt”[66].
Có lẽ không có ngành nghề nào ngoài binh nghiệp, con người khi vào đó với tư cách là chủ thể
luôn phải hoạt động khẩn trương theo yêu cầu nhiệm vụ quân sự. Lao động quân sự là một loại
lao động đặc biệt, nó đòi hỏi rất cao cả về thể lực và trí lực, luôn biến động trong mọi thời gian và
không gian. Loại lao động trong trạng thái khó khăn, ác liệt, hiểm nguy, liên quan đến xương
máu, đến hy sinh tính mạng và trong những thời điểm nhất định còn liên quan đến sự tồn vong
của Tổ quốc. Mục đích và kết quả của lao động quân sự phụ thuộc rất lớn vào ý chí quyết tâm
của người quân nhân, vào sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do tính chất đặc thù
của lao động quân sự, nên khó xác định được giá trị cụ thể. Vì thế, để đảm bảo tốt lợi ích đối với
quân nhân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải làm
rõ thực chất lợi ích quân nhân.
Thực chất lợi ích quân nhân quân đội ta
Lợi ích nói chung, lợi ích quân nhân nói riêng rất phong phú, đa dạng. Nghiên cứu lợi ích
quân nhân phải gắn chặt với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta.
Phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự và được thể hiện một cách toàn diện trên mọi lĩnh
vực cuộc sống của quân nhân. Dù trong chiến tranh hay trong thời bình thì lợi ích quân nhân
vẫn tồn tại, cần được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Lợi ích quân nhân biểu hiện ở
những đặc trưng cơ bản sau.
Một là, lợi ích quân nhân là một bộ phận trong cơ cấu lợi ích của giai cấp công nhân và của
người lao động, hình thành trong điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, do mục đích, nhu cầu hoạt
động quân sự đặt ra.

Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã xác định, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là
chủ thể của mọi tiến trình lịch sử. Hoạt động của con người bao giờ cũng là hoạt động tích cực
cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ mục đích của con người. Trong lĩnh vực quân sự, hoạt
động của người quân nhân cũng không tách khỏi quy luật chung ấy, “Hoạt động thực tiễn đặc
trưng cơ bản nhất của quân nhân là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu”[90, tr. 120].
Đó cũng là một hoạt động trong xã hội, nhưng thể hiện rất đặc thù khác với các hoạt động khác
trong xã hội. Chính bằng hoạt động ấy vừa duy trì sự tồn tại, phát triển của bản thân, vừa góp
phần tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. QĐNDVN do Đảng cộng sản Việt Nam
trực tiếp lãnh đạo, là quân đội của dân, do dân và vì dân. Mỗi quân nhân đều là con em của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp khác trong chế độ XHCN. Vì
thế, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân nhân thống nhất với mục tiêu lý tưởng cách mạng của
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mọi quyền lợi, nghĩa vụ, lợi ích của quân nhân thống nhất với lợi


ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, là một bộ phận không tách rời cuộc sống của đất nước.
Do đó, hoạt động của người quân nhân bao giờ cũng theo một hướng đã định trước, nhằm bảo
vệ vững chắc Tổ quốc XHCN và sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH. Mục đích hoạt động ấy còn
nhằm thoả mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần đối với bản thân và gia đình họ.
Chính nhu cầu là một trong những khâu trung gian quan trọng nhất, đầu tiên trong chuỗi
nhân quả từ hoàn cảnh kinh tế đến mục đích, tức là đến động cơ tư tưởng trực tiếp thúc đẩy con
người hành động. Nhu cầu của quân nhân cũng như nhu cầu của con người nói chung rất đa
dạng, phong phú: như nhu cầu ăn, ở, mặc, nhu cầu văn hoá- tinh thần, nhu cầu duy trì sự tồn tại
và phát triển của cả loài người... Những nhu cầu ấy nảy sinh trước hết do tác động của điều kiện
hoàn cảnh bên ngoài, điều kiện kinh tế- xã hội, trong đó quan trọng nhất là do điều kiện hoạt động
quân sự quy định. Nhu cầu của quân nhân khi đã hình thành, nó sẽ trở thành động lực mạnh mẽ
thôi thúc tính tích cực của họ, nhằm tìm cách thoả mãn nhu cầu. Cái thoả mãn nhu cầu ấy chính
là lợi ích của quân nhân. Cho nên, cần phải nghiên cứu, tìm lợi ích của quân nhân trong các mối
quan hệ giữa nhu cầu của quân nhân với các điều kiện tồn tại, phát triển của kinh tế- xã hội và điều
kiện hoạt động quân sự. Qua đó có thể khẳng định rằng: lợi ích của quân nhân xuất phát từ nhu
cầu của hoạt động quân sự, khi lợi ích được xác lập và được nhận thức thì trở thành mục tiêu

hoạt động của quân nhân.
Hai là, lợi ích quân nhân luôn có sự kết hợp hài hoà lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Con người là một thực thể sinh vật- xã hội. Để tồn tại và phát triển con người không chỉ
cần được thoả mãn những nhu cầu về vật chất mà còn cần được thoả mãn những nhu cầu về
tinh thần. Các lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau trong sự hình
thành và phát triển hai mặt thống nhất của con người.
Lợi ích vật chất là những lợi ích dùng để thoả mãn các nhu cầu về vật chất, nhằm duy trì
sự tồn tại, phát triển đời sống sinh học của con người. Lợi ích tinh thần là những lợi ích đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người. Do sự thống nhất hai mặt sinh vật và xã hội nơi bản thân con
người, nên ta không thể khẳng định một cách chung chung lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần,
cái nào quan trọng hơn cái nào; lợi ích nào có ý nghĩa động lực mạnh mẽ hơn lợi ích nào. Muốn
khẳng định điều đó, cần xét xem tương quan giữa chúng trong sự tồn tại hiện thực ở những
hoàn cảnh cụ thể. Dĩ nhiên, trong tính tổng thể của sự phát triển con người và xã hội loài người,
thì xét đến cùng, lợi ích vật chất bao giờ cũng quan trọng hơn lợi ích tinh thần, vì nó trực tiếp
hướng vào thoả mãn các nhu cầu mang tính quyết định sự tồn tại cái cơ chất mà trên đó tinh
thần của con người mới nảy nở phát triển. C.Mác đã có nhận xét: “Người ta phải có khả năng
sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết con người cần phải
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một số thứ khác nữa”[47, tr.40]. Tuy nhiên, khẳng định
trên đây không phải bao giờ cũng đúng cho từng hoàn cảnh cụ thể. Trong mỗi hoàn cảnh cụ thể,
lợi ích nào thoả mãn được những nhu cầu cấp bách nhất của chủ thể hoạt động thì nó trở thành


quan trọng nhất và đóng vai trò động lực mạnh mẽ hơn. Xu hướng chung hiện nay do hướng vào
thoả mãn các nhu cầu thiết yếu của con người, nên lợi ích vật chất bao giờ cũng đóng vai trò
động lực mạnh mẽ, chi phối những hoạt động căn bản của đời sống xã hội. Nhưng khi nhu cầu vật
chất được thoả mãn đến mức độ nhất định, cuộc sống vật chất của con người trở nên đầy đủ hơn thì
khi đó lợi ích chính trị- tinh thần trở nên quan trọng hơn. Các lợi ích tinh thần vừa đáp ứng nhu cầu
tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng của con người, đồng thời ở mức độ nhất định, tác động
đến chủ thể trong việc hạn chế hay tăng cường ham muốn vật chất theo chuẩn mực giá trị tiến bộ

của xã hội.
Trong QĐNDVN, mọi hành động của quân nhân đều được thúc đẩy và chi phối bởi
những động lực chính: lợi ích vật chất và lợi ích chính trị- tinh thần. Trước đây, quân đội ta đã
phát huy cao độ động lực chính trị- tinh thần vào thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu chống giặc
trên chiến trường. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân đội ta vẫn phát
huy mạnh mẽ động lực chính trị- tinh thần trong điều kiện mới. Tuy nhiên, động lực chính trị- tinh
thần chỉ có thể được duy trì, nuôi dưỡng lâu dài, được phát huy cao độ nếu nó được kết hợp với
sự phát huy đúng đắn lợi ích vật chất của quân nhân. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay: “Quân
đội ta luôn luôn đặt việc xây dựng vững mạnh về chính trị là nguyên tắc cơ bản, quan trọng
hàng đầu, làm cơ sở cho các mặt xây dựng khác”[71, tr. 9]. Nhưng cần bảo đảm đầy đủ lợi
ích vật chất của quân nhân.
Lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần gắn bó mật thiết trong sự hình thành, phát triển của
quân nhân. Các lợi ích vật chất đáp ứng nhu cầu vật chất của quân nhân và gia đình họ. Lợi ích
vật chất của quân nhân bao hàm nội dung rất rộng: như việc bảo đảm ăn, ở, mặc, phương tiện đi
lại, thao trường, bãi tập, vật chất bảo đảm cho huấn luyện, chiến đấu; chế độ tiền lương, phụ
cấp; chế độ bảo hiểm xã hội, y tế; nhu cầu lương thực, thực phẩm; bảo đảm cuộc sống cho gia
đình hậu phương quân nhân... Các lợi ích tinh thần hướng vào xây dựng động cơ lý tưởng, niềm
tin và nhân cách quân nhân, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh. Nội dung các lợi
ích tinh thần của quân nhân cũng rất đa dạng và phong phú như sự giác ngộ mục tiêu lý tưởng
cách mạng; lòng yêu nước, yêu CNXH; niềm tin vào sự nghiệp đổi mới; lòng trung thành tuyệt
đối với Đảng, Nhà nước XHCN; tinh thần dũng cảm trong thực hiện nhiệm vụ; được động viên,
thi đua, khen thưởng; thực hiện công bằng xã hội, phát huy dân chủ, xây dựng đời sống văn hoá
tinh thần văn minh, tiến bộ trong quân đội...
Tuy nhiên, trong QĐNDVN, từ người chiến sỹ đến cán bộ cao cấp sống không thể thiếu
được lợi ích vật chất kinh tế và lợi ích tinh thần. Song nếu chỉ chú ý đến lợi ích vật chất, hay lợi
ích tinh thần hoặc tách rời chúng đều không phù hợp, mà phải luôn kết hợp hài hoà giữa lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích tinh thần (động lực chính trị- tinh thần) giữ vai trò chủ
đạo.
Lợi ích chính trị- tinh thần với sức mạnh to lớn của nó, chỉ có thể được phát huy cao độ
trong các cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc XHCN dưới sự lãnh



đạo của Đảng cộng sản chân chính. Nhân tố ấy đã khơi dậy ở người quân nhân tinh thần dũng
cảm, dám hy sinh, không ngại gian khổ vì sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH. Nó biến những
quân nhân từ những con người bình thường thành những anh hùng, dũng sĩ trong chiến đấu và
trong lao động sản xuất. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta luôn phải đương đầu với
những kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta gấp nhiều lần về số lượng và trang bị kỹ thuật. Song, kẻ thù
không thể thắng nổi vì chúng không thể và không bao giờ có được sức mạnh chính trị- tinh thần,
sức mạnh yêu nước nồng nàn của dân tộc. Với ưu thế tuyệt đối ấy, dân tộc và quân đội ta đã biết
“lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, “lấy chí nhân thay cường bạo”...
Dù quân giặc có đông gấp trăm, nghìn lần, vũ khí có nhiều và hiện đại, quân đội ta vẫn giành chiến
thắng.
Đảng cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát triển lên một trình độ cao với chất lượng
mới những di sản vô giá đó. Đảng ta cho rằng, sức mạnh của quân đội nhân dân là sức mạnh
tổng hợp của nhiều yếu tố, song yếu tố chính trị- tinh thần (sự giác ngộ mục tiêu lý tưởng, lòng
dũng cảm, trung thành, bản lĩnh chính trị, sự sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và
CNXH của cán bộ, chiến sỹ) là yếu tố cơ bản nhất. Vì vậy, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh
nào cũng phải bảo đảm, giải quyết thoả đáng cả về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, phải
coi trọng và đặc biệt quan tâm lợi ích chính trị- tinh thần của quân nhân. Đó là việc làm thiết
thực nhằm phát huy tính tích cực của quân nhân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội, làm cho quân đội thực sự có những cán bộ, chiến sỹ giác ngộ sâu sắc và trung
thành tuyệt đối với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng và nhân dân, kiên quyết thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị, quân sự của Đảng. Do vậy, trong mọi điều kiện hoàn cảnh cần
kết hợp và đưa vào trong nội dung lợi ích chính trị- tinh thần một hàm lượng tương ứng của
lợi ích vật chất. Làm cho nhân tố chính trị- tinh thần vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhưng có thêm
sức mạnh của nhân tố vật chất.
Mặc dù động lực lợi ích chính trị- tinh thần giữ vai trò chủ đạo, nhưng không nên tuyệt
đối hoá nó, coi nhẹ động lực lợi ích vật chất, điều đó sẽ dẫn đến sai lầm về lý luận mà trong thực
tiễn không tránh khỏi từng bước làm cạn kiệt nguồn lực tinh thần của quân đội. Hiện nay, quân
đội ta không ngừng phát huy mạnh mẽ động lực lợi ích tinh thần vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến

đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải tạo ra một động lực lợi ích vật chất mới, phù hợp với điều
kiện kinh tế- xã hội để nâng cao tính tích cực chính trị- tinh thần của quân nhân. Việc kết hợp và
phát huy động lực lợi ích chính trị- tinh thần và động lực lợi ích vật chất của quân nhân là trách
nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong và
ngoài quân đội, trên cơ sở nhận thức đúng đắn quan điểm của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện mới. Việc kết hợp hài hoà giữa lợi ích vật chất và lợi ích chính trị- tinh thần,
trong đó lợi ích chính trị- tinh thần giữ vai trò chủ đạo là vấn đề rất cơ bản, là nét đặc thù của lợi
ích quân nhân. “Động lực trực tiếp của hoạt động, trước hết là sự giác ngộ về nghĩa vụ thiêng
liêng bảo vệ Tổ quốc, vì lợi ích cao nhất của nhân dân”[29, tr.15], và “Động lực chủ đạo chi phối


hoạt động của người quân nhân cách mạng phải là động lực chính trị- tinh thần, là động lực tinh
thần trên cơ sở sự giác ngộ chính trị về mục tiêu, lý tưởng đấu tranh cho độc lập dân tộc và
CNXH, là lòng yêu nước, yêu nhân dân, yêu chế độ”[86, tr.5].
Thực tiễn trong chiến tranh và trong hoà bình xây dựng CNXH, không phải chỉ có sự
động viên tinh thần mà chúng ta đã vận dụng vào các chính sách đãi ngộ vật chất ở quy mô quốc
gia: chính sách đi B, C, K... chính sách với những người có công với cách mạng; chính sách ưu
đãi bậc lương quân đội so với dân sự... với các quy định khá tỉ mỉ để bảo đảm quyền lợi thực tế
của quân nhân cũng như gia đình họ và từng bước thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
cho phép.
Ba là, sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, trong đó luôn đặt lợi ích
chung của Tổ quốc, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân
Một trong những vấn đề rất quan trọng là giải quyết hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng, đây vừa là một động lực để phát triển đất nước, vừa là yếu tố quan trọng phát huy tính tích
cực của quân nhân. Đại hội IX Đảng ta đã xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”[22, tr. 86].
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, chủ nghĩa Mác- Lê nin đã
chỉ rõ, lợi ích chỉ tồn tại trong đời sống xã hội và luôn gắn liền với các chủ thể nhất định. Các chủ

thể này là các cá nhân riêng lẻ, hoặc là các nhóm xã hội, hay cả một cộng đồng xã hội. So với
từng cá nhân riêng lẻ thì nhóm, tập thể là một “cái chung”, trong đó mỗi cá nhân là một “cái riêng”,
một bộ phận hợp thành nó. Tuy vậy, nếu so với cả cộng đồng xã hội thì tập thể lại là một “cái riêng”,
một bộ phận của “cái chung”. Sự phân biệt chung hay riêng chỉ mang tính chất tương đối và trong
một quan hệ nhất định.
Lợi ích riêng (cá nhân) là những lợi ích gắn với từng con người và thoả mãn những nhu
cầu riêng của từng con người ấy. Còn lợi ích chung là lợi ích của một tập thể hay của cả một
cộng động xã hội nhất định và thoả mãn những nhu cầu chung của tập thể hay cả cộng đồng xã
hội. Lợi ích chung và lợi ích riêng trong quá trình xây dựng CNXH, trong xây dựng quân đội luôn
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Không thể có lợi ích riêng trừu tượng, tách rời lợi ích chung,
cũng như không thể có lợi ích tập thể trừu tượng tách rời lợi ích riêng của cá nhân.
Xã hội là một hệ thống lớn được tạo nên từ những cá nhân cụ thể. Nói cách khác, do lợi
ích và thông qua lợi ích mà các cá nhân mới tập hợp lại, liên kết lại với nhau, có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tạo thành xã hội. Sự phát triển của lịch sử- xã hội chỉ có thể diễn ra bình
thường, lành mạnh, đi đúng quy luật khi mỗi cá nhân nhận thức tự giác về mối quan hệ cá nhânxã hội xét trên phương diện lợi ích. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Chừng nào con người còn
ở trong xã hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung, do đó chừng nào còn có sự phân chia hoạt động còn được tiến hành


không phải một cách tự nguyện mà một cách tự nhiên thì chừng đó hành động của bản thân con
người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ đối lập với con người, và nô dịch con người chứ không
phải bị con người thống trị”[47, tr.47]. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung trong quan hệ cá nhân và xã hội chính là cơ sở, động lực thúc đẩy cá nhân hành động.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng đắn khi quan hệ lợi ích cá
nhân và xã hội được giải quyết hài hoà. Đó là quá trình mà lợi ích của cá nhân này không xâm phạm
đến lợi ích của cá nhân khác và toàn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Nếu như lợi ích đúng đắn là
nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt
phù hợp với lợi ích của toàn thế giới”[46, tr.199-200]. Đó là điều kiện của sự phát triển cá
nhân và xã hội.
Khác với các chế độ tư hữu, ở đó lợi ích của cá nhân là thống soái, trong chế độ XHCN,

lợi ích riêng và lợi ích chung về cơ bản là thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm điều kiện
cho nhau. Lợi ích chung có đạt được mới bảo đảm cho lợi ích cá nhân được thoả mãn. Ngược
lại, có thoả mãn lợi ích riêng của cá nhân mới động viên được tinh thần, phát huy được khả năng,
sở trường của từng cá nhân, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển lợi ích chung. Giải quyết mối quan
hệ đó như thế nào cho phù hợp vừa là vấn đề đạo đức cách mạng, vừa là nghệ thuật lãnh đạo. Do
vậy, trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nếu tách rời hay đề cao quá mức lợi ích nào đó sẽ sa vào xu
hướng tả khuynh hay hữu khuynh.
Trong các cuộc kháng chiến giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN, trước sự tồn
vong của Tổ quốc, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân và quân đội ta luôn sẵn
sàng đặt lợi ích của cá nhân mình dưới lợi ích của dân tộc. Bởi lẽ, có giành độc lập cho dân tộc
mới có điều kiện thoả mãn lợi ích của cá nhân, lợi ích riêng. Trong xây dựng CNXH, với mục đích
là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển tự do của mọi thành viên
trong xã hội, cần và có điều kiện thoả mãn lợi ích cá nhân của mọi người một cách trực tiếp vẫn
không xa rời nguyên tắc: có xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, thì lợi
ích riêng của cá nhân mới có thể thực hiện được. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lợi ích của Nhà nước và
lợi ích riêng của người dân là nhất trí, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là nhất trí, đã là người chủ
của nước nhà là phải phụ trách đối với Tổ quốc”[51, tr.20].
Quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở mọi người rằng:
“Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của
tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thoả mãn” và “lợi ích
của cá nhân gắn bó với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể thì
đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích tập thể” [52, tr.291292]. Đây là những quan điểm tư tưởng cơ bản xác định vị trí, mối quan hệ giữa lợi ích chung và
lợi ích riêng. Đó là cách ứng xử hợp đạo lý làm người của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội
mới XHCN- xã hội mà “mọi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”[52, tr. 291]. Tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí


Minh có giá trị chỉ đạo trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay,
đó là cơ sở để mỗi cán bộ, chiến sỹ quân đội ghi nhớ, kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi
ích riêng cho phù hợp.

QĐNDVN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là một tổ chức chiến đấu gồm những
quân nhân trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng, có phẩm chất và năng lực bảo đảm
luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Đặc trưng yêu cầu và nhiệm vụ của quân đội chi
phối tác động lẫn nhau tạo thành hợp lực, kích thích tính tích cực hoạt động của quân nhân.
Trong hệ thống các lợi ích khác nhau của quân nhân, có lợi ích chung của Tổ quốc, của dân tộc,
lợi ích đặc thù của tập thể đơn vị và lợi ích riêng của quân nhân. Biện chứng giữa cái chung và
cái riêng đòi hỏi, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mỗi quân nhân phải đặt lợi ích chung của Tổ
quốc lên trên lợi ích của cá nhân. Chỉ có trên cơ sở thực hiện được lợi ích chung là độc lập dân
tộc và CNXH mới tạo ra điều kiện thực hiện lợi ích bộ phận, lợi ích của mỗi cá nhân. Mọi cán bộ,
chiến sỹ trong quân đội ta luôn ý thức rõ rằng, trong lợi ích chung của Tổ quốc, của nhân dân đã
có lợi ích riêng của cá nhân và gia đình mình. Khi nói “nước mất nhà tan” hoặc “nước nhà phồn
vinh, gia đình hạnh phúc” là với tinh thần như vậy. Cho nên, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc,
bảo vệ chế độ XHCN luôn là nghĩa vụ, là trách nhiệm chính trị mà mỗi quân nhân phải hoàn
thành bằng tất cả tinh thần và nghị lực, kể cả hy sinh tính mạng của mình.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng và nhân dân giao phó, quân đội góp phần
đem lại lợi ích chung của toàn dân tộc, thông qua thực hiện lợi ích chung đó, mỗi quân nhân
được đảm bảo lợi ích của mình về các quyền của công dân trước các thành tựu mà CNXH đạt
được. Đây là lợi ích bao trùm, xuyên suốt đòi hỏi mỗi quân nhân phải quán triệt sâu sắc, chuyển
hoá thành nhận thức, niềm tin, mục tiêu phấn đấu của mình. Như vậy, lợi ích chung của Tổ quốc, của
dân tộc không tồn tại bên ngoài hoặc chung chung, trừu tượng mà nó tồn tại trong mỗi quân nhân,
thông qua lợi ích của mỗi quân nhân và hoạt động của từng quân nhân.
Hiện nay, nhiệm vụ chính trị của quân đội ta có bước phát triển mới, vừa phải sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, đồng thời phải làm các nhiệm vụ khác. Do đó, mâu thuẫn giữa
cá nhân và tập thể không gay gắt ở mức độ sống chết như trong chiến tranh. Nhưng những mâu
thuẫn mới giữa cá nhân với tập thể cũng không phải là đơn giản và ít. Tình huống mà lợi ích cá
nhân và tập thể thống nhất tuyệt đối với nhau là hiếm. Thông thường diễn ra nhiều hơn tình
huống thoả mãn hoàn toàn lợi ích này, thì lại không thoả mãn hoàn toàn lợi ích kia. Điều đó, càng
đòi hỏi người quân nhân phải kết hợp hài hoà các lợi ích, lấy lợi ích chung làm trọng, làm cơ sở,
đồng thời cũng phải cố gắng tối đa nhằm thoả mãn những lợi ích riêng của quân nhân.
Tuy nhiên, tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận quân

nhân xuất hiện tư tưởng được mất, tính toán thiệt hơn. Nguy hại nhất là có những quân nhân
thoái hoá biến chất, lợi dụng lợi ích chung để đục khoét, làm thất thoát tài sản của xã hội và của
quân đội, xâm phạm và làm tổn hại đến lợi ích quân nhân. Vì vậy, kết hợp hài hoà lợi ích chung
và lợi ích riêng bao giờ cũng phải đặt lợi ích chung lên trên, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa


cá nhân, tham ô, tham nhũng... Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ, đảng viên luôn
phải “đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân
mình”[52, tr. 285]. Vì “Đảng ta là một tập thể chặt chẽ không dung thứ chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra
nhiều chứng xấu... phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư, tự lợi, tự kiêu, tự mãn...
phải chống tham ô lãng phí và bệnh quan liêu”[54, tr. 556].
Phẩm chất đạo đức XHCN của “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn cách mạng mới tuy có sự
phát triển nhất định trong mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và xã hội, nhưng luôn phải lấy tinh
thần tập thể như lời Bác Hồ dạy làm nền tảng. Chúng ta chủ trương kết hợp hài hoà các lợi ích,
tuy nhiên kết hợp hài hoà chứ không phải điều hoà làm cho lợi ích được cào bằng nhau. Vì thế, Đảng
ta xác định: “Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội”[20, tr.61].
Đối với quân nhân thì sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích riêng (cá nhân)
luôn phải theo hướng đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên cao hơn lợi ích riêng, có như vậy
mới bảo đảm cho quân đội có sức mạnh và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình
huống. Bác Hồ đã dạy: “Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và
của loài người không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình”[53, tr. 284]. Trong
hệ thống các lợi ích của quân nhân, đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn lợi ích chung và lợi ích
riêng; trong mọi công việc phải kết hợp hài hoà các lợi ích đó và khi có sự xung đột lợi ích thì
không một chút do dự đặt lợi ích cá nhân xuống dưới và phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Thực tiễn quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội đã chứng minh rõ nét về
sự kết hợp hài hoà lợi ích chung và lợi ích riêng. Đã có biết bao cán bộ, chiến sỹ hy sinh lợi ích cá
nhân vì tương lai của Tổ quốc. Nhiều chiến sỹ tuy tuổi đời còn rất trẻ, trước và trong chiến đấu đã
từng nói: “Nếu chúng em không cầm theo cái chết, thì chúng em đã không có mặt ở đây. Nếu chúng
em chỉ tính cái sống chúng em đã tìm cách ở nhà”. Người lính đã nói cái điều đặc biệt ấy hiển nhiên

và dữ dội ngay bên hố đạn pháo quân thù rất giản dị và mộc mạc.
Ngày nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN rất nặng nề;
thời cơ và nguy cơ vẫn đan xen tồn tại; kẻ thù sử dụng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá hòng
làm suy yếu Đảng, làm thoái hoá cán bộ, chiến sỹ quân đội nhằm “phi chính trị hoá quân đội”.
Chính lúc này, đòi hỏi mỗi quân nhân phải xác định đúng đắn thái độ trong giải quyết mối quan
hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Cho dù cuộc sống hiện tại của quân nhân, những lợi ích
riêng chưa được giải quyết thoả đáng, nhưng với bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội
“luôn trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH...” lại càng đòi hỏi mỗi quân nhân phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết.
Học tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân. Nhưng khi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra
vào chốn tù tội, xông pha hiểm nghèo là vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng
chỉ đeo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân” [55, tr. 92].


Kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích riêng trên cơ sở đặt lợi ích chung lên trên
lợi ích riêng, sẽ là một động lực cơ bản phát huy nhân tố con người trong quân đội, là vấn đề rất
quan trọng trong lợi ích quân nhân quân đội ta. Xử lý đúng đắn mối quan hệ đó là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước, nhân dân, quân đội và của từng cán bộ, chiến sỹ.
Bốn là, sự kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong quá trình xây
dựng CNXH và xây dựng quân đội.
Trong môi trường hoạt động quân sự luôn biến động, đầy khó khăn gian khổ, mỗi quân
nhân không những phải giải quyết đúng đắn lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; lợi ích chung và
lợi ích riêng, mà còn phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài. Bởi vì trong quá trình sống và hoạt động, người quân nhân không chỉ hành động nhằm đạt tới
mục đích cụ thể trước mắt, mà còn nhằm đạt tới mục đích xa hơn, lâu dài hơn, sao cho đạt được
mục đích này, không làm tổn hại đến mục đích kia.
Lợi ích trước mắt là lợi ích dùng để thoả mãn trực tiếp những nhu cầu hiện tại của người
quân nhân. Còn lợi ích lâu dài là những lợi ích để thoả mãn những nhu cầu tồn tại lâu dài trong
suốt thời gian họ sống trong quân ngũ cũng như vì tương lai quân đội. Do vậy, đối với cán bộ,

chiến sỹ quân đội, những lợi ích trước mắt được phát huy trong một thời gian nhất định và bao
giờ cũng thôi thúc họ hành động ngay nhằm đạt được nó. Còn lợi ích lâu dài lại được xem là
những lợi ích hướng tới nhằm đáp ứng không chỉ một, mà cả hệ thống nhu cầu của người quân
nhân và của quân đội trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, gắn với sự phát
triển của lịch sử xã hội.
Xem xét quan hệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quân nhân, là xem xét những lợi
ích có chung một nội dung, xu hướng, nằm trên cùng một tuyến chứ không phải xem xét quan hệ
giữa các lợi ích bất kỳ không gắn kết với nhau của quân nhân và quân đội ta. Như vậy, lợi ích
trước mắt trực tiếp tham gia duy trì sự tồn tại và phát triển hiện tại của quân nhân và quân đội,
còn lợi ích lâu dài được xem là các lợi ích hướng vào cả quá trình trưởng thành của quân đội ta.
Sự vận động của xã hội cũng như cuộc đời mỗi con người và của mỗi quân nhân trong
quân đội là một quá trình liên tục. Quá trình ấy được tạo lập bởi các giai đoạn kế tiếp nhau không
ngừng. Quan hệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cũng biểu hiện trong mối quan hệ ấy. Đó là quá
trình liên tục và đứt đoạn, nó được thiết lập bởi các giai đoạn cụ thể. Các giai đoạn cụ thể được quy
định và định hướng bởi quá trình như là mục đích cuối cùng. Nghĩa là, thực hiện các lợi ích hiện tại
trước mắt chính là từng bước thực hiện các lợi ích lâu dài.
Dĩ nhiên, mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài không phải bao giờ cũng
được biểu hiện một cách suôn sẻ, theo một con đường thẳng tắp. Vì vậy, lúc nào cũng đòi hỏi
người quân nhân phải giải quyết, xử lý chúng hết sức linh hoạt, tránh máy móc, cứng nhắc dễ
làm ảnh hưởng đến sức mạnh của quân đội, của đất nước. Lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài
luôn quan hệ biện chứng với nhau, việc thực hiện các lợi ích trước mắt là tiền đề để thực hiện
các lợi ích lâu dài. Và, khi thực hiện các lợi ích lâu dài đã hoàn tất thì lại bắt đầu nảy sinh các


như cầu mới, do đó lại xuất hiện các lợi ích mới, trong đó có lợi ích trước mắt. Cứ thế, một giai
đoạn mới, một quá trình trưởng thành, phát triển của quân nhân và quân đội lại xuất hiện. Xem
xét, giải quyết đúng đắn lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài là tiếp cận chúng chỉ ở khía cạnh thời
gian tồn tại, nhưng thời gian tồn tại chỉ là phương diện của lợi ích. Ngoài thời gian tồn tại, lợi ích còn
nhiều phương diện khác. Chẳng hạn, cùng một lợi ích, nếu xem xét theo lĩnh vực xã hội, ta có thể xác
định đó là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần, hoặc theo tính chất thì đó có thể là lợi ích chung hay lợi

ích riêng.v.v..
Thực tiễn lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, và xây dựng CNXH; lịch sử xây dựng
chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta đã chứng minh, Đảng, Nhà nước, quân đội luôn giải
quyết đúng đắn và tài tình giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Do đó, tạo niềm tin của nhân
dân, quân nhân với Đảng và chế độ mới, động viên được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân, toàn quân, của cả dân tộc vượt qua mọi khó khăn để giành và giữ độc lập tự do, tiếp tục
tiến bước trên con đường XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.
Sự trưởng thành của quân đội ta hơn nửa thế kỷ qua, các thế hệ quân nhân luôn phát
huy truyền thống của một quân đội anh hùng, mặc dù cuộc sống về vật chất và tinh thần của
người lính gặp nhiều khó khăn. Họ phải hy sinh cả lợi ích riêng của bản thân và gia đình vì sự
nghiệp cách mạng, và biết bao nhiêu người lính đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của Tổ
quốc.v.v..để đến hôm nay, cuộc sống về vật chất và tinh thần đã được nâng lên rõ rệt, quân đội
ngày càng vững mạnh về mọi mặt, lợi ích riêng và lợi ích chung được giải quyết thoả đáng. Đó
chính là quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Như vậy, lợi ích trước mắt trong tính hiện thực của nó là động lực tạo nên sự vận động và
phát triển ở những mặt, những bộ phận, vào những thời điểm cụ thể nhất định của quân nhân và
quân đội. Còn lợi ích lâu dài có ý nghĩa động lực, tạo nên sự vận động và phát triển của quân nhân
và sự trưởng thành của quân đội. Do vậy, khi thực hiện các lợi ích lâu dài, lại mở ra một giai đoạn
mới trong sự trưởng thành của mỗi cán bộ, chiến sỹ và của cả quân đội.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, quá trình xây dựng quân đội cách mạng chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đòi hỏi mỗi quân nhân phải luôn tu dưỡng, xây dựng bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực giỏi, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích tối cao của Tổ
quốc. Đồng thời phải nhận thức, giải quyết đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, vì
sự trưởng thành của quân đội.
Tuy nhiên, trước tác động của kinh tế thị trường, trong xã hội cũng như trong quân đội xuất
hiện những tiêu cực, tư tưởng thực dụng chạy theo lợi ích trước mắt, lợi ích vật chất của cá nhân,


quên lợi ích lâu dài của quân đội và đất nước. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất của người
quân nhân cách mạng, cần phải đấu tranh, khắc phục kịp thời. Đồng thời phải giải quyết đúng đắn lợi

ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong cuộc sống cũng như trong hoạt động.
Việc giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong xây dựng
CNXH nói chung, xây dựng quân đội nói riêng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Nếu không nhạy
cảm xử lý đúng đắn mối quan hệ này, sẽ khó kiểm soát và làm chủ được các xu hướng vận động
hết sức mạnh mẽ và mau lẹ hiện nay. Dù thế nào đi chăng nữa, Đảng, Nhà nước, quân đội cần
phải có chiến lược phát triển bền vững; nghĩa là ưu tiên thực hiện các lợi ích trước mắt, nhằm kích
thích khai thác mọi tiềm năng và nguồn lực, cần sớm có chiến lược lâu dài cho việc thực hiện các lợi
ích lâu dài nhằm phát triển đất nước và phát triển quân đội trong tình hình mới.
Năm là, sự thống nhất chặt chẽ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XNCH, cũng như trong xây dựng
quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”, đòi hỏi phải phát huy cao độ
tính tích cực sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động và của cán bộ, chiến sỹ quân đội. Một
trong những vấn đề hết sức quan trọng trong lợi ích quân nhân là phản ánh sự thống nhất giữa
nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Quân nhân QĐNDVN là công dân nước cộng hoà XHCN Việt Nam phục vụ trực tiếp
trong quân đội, là những người được nhân dân giao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
có quyền và nghĩa vụ như các công dân khác trong xã hội[23]. Quyền và nghĩa vụ luôn thống
nhất chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động của quân nhân.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quân nhân là những quyền, nghĩa vụ được
Nhà nước quy định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được Hiến pháp quy định
cho tất cả mọi công dân. Những quyền này thường xuất phát từ quyền con người: “Được sống,
được tự do, được mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm phạm”. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân là cơ sở chủ yếu xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa
vụ cụ thể của mỗi công dân” [27, tr. 109]. Khi quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
Nhà nước ta đã luôn tuân theo những nguyên tắc xuất phát từ quyền con người trong các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Các quyền của con người được pháp luật thừa nhận đối
với cá nhân không ai được xâm phạm.
Các quyền con người lần đầu tiên được ghi nhận trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm
1776, hay bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp năm 1791: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Ngày 19-12-1966 Đại hội đồng Liên hiệp quốc cũng đã thông qua hai công ước quốc tế về các
quyền con người. Công ước thứ nhất có hiệu lực từ ngày 23-3-1976 bảo vệ các quyền dân sự và
chính trị. Công ước thứ hai có hiệu lực từ ngày 3-1-1976 bảo vệ các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội.
Nhà nước ta từ khi thành lập đến nay luôn tôn trọng các quyền con người, coi đó là một
trong những nguyên tắc xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đặc biệt, các


quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được thể chế hoá trong các đạo luật cơ bản của Nhà
nước.
Cũng như mọi công dân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của quân nhân không tách rời, luôn
có sự thống nhất quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là hai mặt quyền làm chủ của quân nhân. Mỗi
quân nhân muốn được hưởng quyền thì phải gánh vác nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ là điều kiện
đảm bảo cho các quyền quân nhân được thực hiện. Trong xã hội ta không cho phép bất cứ ai chỉ
hưởng quyền mà không gánh vác nghĩa vụ. Nhà nước XHCN bảo đảm cho các công dân và
quân nhân những quyền lợi hợp pháp, nhưng mặt khác cũng đòi hỏi mọi công dân và quân nhân
phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Vì vậy, khi mỗi người thực hiện trọn vẹn
nghĩa vụ của mình cũng chính là bảo đảm cho mình và người khác thực hiện quyền lợi.
Quyền và nghĩa vụ thống nhất với nhau còn thể hiện ở chỗ, mọi quân nhân đều bình
đẳng trước pháp luật. Chủ nghĩa Mác- Lê nin xác định rằng bản chất của bình đẳng thể hiện ở
sự công nhận giá trị bình đẳng của tất cả mọi người trong các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội,
chính trị, pháp luật.v.v.. để xây dựng một xã hội hưng thịnh, không còn giai cấp. Đó chính là cơ
sở kinh- tế xã hội bảo đảm cho quyền bình đẳng cả về quyền lợi và nghĩa vụ một cách đầy đủ.
Điều đó cũng được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 1992 của nước ta và được coi là một vấn đề
cực kỳ quan trọng, bảo đảm xây dựng xã hội mới công bằng và tiến bộ.
Quyền và nghĩa vụ của quân nhân phải được thể hiện ở tính hiện thực của nó trong thực
tế cuộc sống. Nếu những quyền và nghĩa vụ không được thực hiện trong thực tiễn thì chúng
chẳng có giá trị tích cực nào, ngược lại, chúng có tác dụng tiêu cực. Những quy định về quyền
và nghĩa vụ có tính chất “viễn tưởng” nào đó sẽ tạo ra sự nghi ngờ của nhân dân với Nhà nước,
họ sẽ thiếu tôn trọng Nhà nước và không nghiêm túc thực hiện pháp luật. Như vậy, thừa nhận
quyền lợi của quân nhân không đơn giản chỉ là việc ghi nhận hoặc phó mặc việc thực hiện những

quyền lợi đó cho điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh việc ghi nhận quyền lợi kể cả quy
định trách nhiệm cho quân nhân, nhà nước phải tạo điều kiện bảo đảm cho những quyền đó được
thực hiện.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của quân nhân rất đa dạng, toàn diện trên các lĩnh vực của
dời sống xã hội: các quyền về chính trị, về kinh tế, văn hoá, xã hội, các quyền về tự do cá nhân.
Trong số những quyền cơ bản của quân nhân, không ít vấn đề vừa là quyền, đồng thời là nghĩa
vụ cơ bản, hoặc việc hưởng quyền lợi cơ bản thường kèm theo trách nhiệm phải gánh vác nghĩa
vụ. Tuy nhiên có rất nhiều nghĩa vụ chỉ đơn thuần là nghĩa vụ mà mỗi quân nhân đều phải thực
hiện như: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng hiến pháp, tuân theo pháp luật và nghĩa vụ quân sự, bảo vệ
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, giữ bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh
hoạt công cộng.v.v..
Thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở nước ta đã chứng minh sự thống nhất về quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quân nhân, mọi người được hưởng quyền lợi tất
yếu phải có nghĩa vụ với Tổ quốc. Tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể mà giải quyết vấn đề này thế


nào cho phù hợp. Trong chiến tranh, quyền lợi của cá nhân thường phục tùng quyền lợi tập thể,
quyền lợi tối cao của cả dân tộc. Trong cuộc chiến đấu gay go, phức tạp chống thù trong, giặc
ngoài, chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện trước hết ở sự tự giác hy sinh của mỗi cá nhân vì
thắng lợi chung của Tổ quốc. Song, do chiến tranh kéo dài, nên một số cán bộ vẫn tồn tại tư duy
chỉ nghĩ đến nghĩa vụ của người dân hơn là nghĩ đến quyền lợi của họ. Thêm vào đó quá trình
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân có người coi chủ nghĩa cá nhân và quyền lợi cá nhân là một.
Quan niệm và thái độ không đúng đối với quyền lợi cá nhân chính đáng đã hạn chế tính chủ
động sáng tạo của công dân [74, tr. 86]. Quyền lợi cá nhân chính đáng không mâu thuẫn với
CNXH. Để thoả mãn quyền lợi cá nhân cần phải phát triển CNXH ở mức cao hơn. Quan điểm
của chúng ta về quyền lợi cá nhân vẫn còn bao hàm ý nghĩa không chấp nhận chủ nghĩa cá
nhân và tính ích kỷ. Mọi biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức quyền chỉ chăm
lo, thu vén cá nhân làm giàu bất chính, lơ là trong thực hiện nghĩa vụ, thậm chí không quan tâm
đến nghĩa vụ .v.v.. đều trái với quan điểm, đường lối, pháp luật của Đảng, Nhà nước và đi ngược
lại với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, với lợi ích của nhân dân.

Mỗi quân nhân luôn tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc và của quân đội. Họ
được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một công dân. Nhưng do hoạt động đặc thù
quân sự, đòi hỏi người quân nhân phải có sự nỗ lực, phấn đấu cao hơn, tính năng động sáng tạo
và chịu đựng gian khó thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Chính điều đó, yêu cầu trong mọi hoàn
cảnh, mọi quân nhân phải luôn kết hợp hài hoà giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ. Điều này, trong luật nghĩa vụ quân sự; luật về sỹ quan QĐNDVN, hoặc trong Điều lệnh
quản lý bộ đội đã ghi rất rõ quyền và nghĩa vụ của quân nhân QĐNDVN. “Quân đội phải trung
thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc với chế độ XHCN, triệt để chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của quân đội, phải bảo vệ danh
dự của quân nhân cách mạng, truyền thống vinh quang của quân đội và đơn vị mình phục
vụ”[24]. Trên cơ sở quy định chung, quân nhân có nghĩa vụ rất nặng nề: luôn rèn luyện ý chí
chiến đấu, khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, chỉ thị cấp trên; tích cực học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật để
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực, sử dụng thành thạo vũ khí, khí tài và các phương
tiện kỹ thuật được trang bị, giữ gìn đoàn kết nội bộ, trung thực, bình đẳng, tôn trọng giúp đỡ lẫn
nhau; tuyệt đối giữ bí mật của Nhà nước, quân đội, đề cao cảnh giác cách mạng, nếu bị địch bắt
quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, không phản bội xưng khai.v.v..
Cùng với nghĩa vụ đó, quân nhân cũng được hưởng các quyền lợi và hưởng thụ xứng
đáng với hoạt động của mình: đó là tất cả quyền lợi như một công dân được quy định trong Hiến
pháp và pháp luật của nước cộng hoà XHCN Việt Nam, được hưởng đầy đủ những chính sách,
chế độ tiêu chuẩn đãi ngộ của Nhà nước và quân đội. Ngoài ra, trong điều lệnh quản lý bộ đội ghi rõ:
Các quân nhân bình đẳng về chính trị, được khiếu nại khi thấy quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm. Quân nhân nếu lập được thành tích xuất sắc đều được khen thưởng.v.v..[24, Điều 3].


Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh
cả tích cực lẫn tiêu cực đang tác động không nhỏ đến quyền lợi và nghĩa vụ, đến cống hiến và
hưởng thụ của quân nhân. Sự tác động đó, làm cho mỗi quân nhân không thể không nghĩ đến
việc bảo đảm công bằng, dân chủ trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ của mình trong xã hội. Nhưng bất cứ hoàn cảnh nào người quân nhân cách mạng

cũng phải luôn xác định rõ, trong quyền lợi tối cao của Tổ quốc, của dân tộc, đã có quyền lợi của
bản thân và gia đình họ rồi.
Quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó mật thiết với nhau trong lợi
ích quân nhân. Giải quyết nó phù hợp hay không phù hợp với tính chất hoạt động quân sự, sẽ có
tác động tích cực hay tiêu cực đến tính tích cực của quân nhân quân đội. Từ những đặc trưng
cơ bản trên đây có thể khẳng định rằng: Lợi ích quân nhân thực chất là một bộ phận lợi ích
của giai cấp công nhân, thống nhất với lợi ích dân tộc, Tổ quốc và phù hợp với hoạt động
quân sự.
1.1.3. Vai trò của lợi ích với phát huy tính tích cực của quân nhân và xây dựng
quân đội ta hiện nay
Trong xây dựng CNXH, xây dựng quân đội, lợi ích có vai trò to lớn, là tác nhân kích thích
trực tiếp tính tích cực hoạt động của con người, tạo nên động lực to lớn trong cách mạng XHCN,
trong xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Đúng như Đảng ta đã xác định: “Chúng ta thấy
rõ, trong điều kiện xây dựng CNXH, động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy hoạt động tích cực, sáng
tạo của nhân dân lao động vẫn là lợi ích thiết thân của họ và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống
nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân”[18]. Vì vậy, để phát huy nhân tố con người và xây
dựng quân đội ngày càng vững mạnh, cần có sự tác động tổng hợp của nhiều mặt, nhiều yếu tố,
trong đó, giải quyết lợi ích có vai trò là động lực trực tiếp, mạnh mẽ và hết sức quan trọng. Vai trò
đó thể hiện nổi bật trên một số phương diện sau đây.
- Lợi ích là yếu tố trực tiếp chuyển hoá những đòi hỏi khách quan thành động cơ lý tưởng
của quân nhân trong quân đội, là chất keo liên kết quân nhân thành một khối đoàn kết, thống
nhất trong hành động.
Hoạt động của con người nói chung và của quân nhân nói riêng đều bắt nguồn từ nhu cầu và lợi
ích nhất định. Đó là hoạt động mang tính tích cực và sáng tạo, nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và phục vụ
cuộc sống con người.
Tính tích cực của con người nói chung và quân nhân nói riêng là đem mọi khả năng,
nhiệt tình, sự sáng tạo của họ nhằm mang lại kết quả cao nhất trong nhận thức và hành động
dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội, quân đội. Nhưng tính tích cực của con người chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã
hội khi nó được hướng theo quỹ đạo phát triển khách quan, khi niềm tin, ý chí, nghị lực, óc sáng

tạo và sự nhiệt tình cách mạng.v.v.. của con người được kết hợp chặt chẽ với sự hiểu biết sâu
sắc các quy luật phát triển. Thiếu sự hiểu biết ấy, không thể sử dụng đúng đắn tính tích cực của


con người. Đó là lý do vì sao một trong bốn bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng ta rút ra: “Phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”[17, tr. 30].
Cơ sở lý luận của tính tích cực xét về bản chất là sự tác động trở lại của ý thức xã hội
với tồn tại của xã hội, thông qua chủ thể hoạt động là con người. Trong thực tế đời sống xã hội
mọi nhu cầu cơ bản bảo đảm cho con người tồn tại và phát triển đều được đáp ứng từ trong quá
trình lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng. Hơn nữa, việc đáp ứng những nhu cầu, lợi ích
bị chế định bởi điều kiện kinh tế, xã hội. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, tính tích cực của con
người bao giờ cũng là đòn bẩy quan trọng đặc biệt để vươn lên thoả mãn nhu cầu, lợi ích chính
đáng của mình. Phát huy tính tích cực của quân nhân, cần tác động vào họ bằng nhiều yếu tố,
trong đó giải quyết tốt lợi ích luôn là động lực trực tiếp mạnh mẽ. Vì thế, việc chủ động định
hướng hoạt động của người quân nhân phải trên cơ sở nhận thức và gắn bó chặt chẽ giữa các
nhu cầu một cách hợp lý dựa trên sự kết hợp đúng đắn các loại lợi ích.
Sự tác động của lợi ích đối với hoạt động của con người chỉ xuất hiện khi lợi ích đã được
nhận thức và thông qua đó đã biến thành động cơ tư tưởng bên trong trực tiếp thúc đẩy con
người hành động. Chuỗi liên hệ đó đã khiến cho vai trò động lực lợi ích với phát huy tính tích cực
của con người là rất to lớn. Cho nên, phải quan tâm đầy đủ đến lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế,
nhưng đồng thời cũng không quên các lợi ích khác. Tìm ra cơ chế xử lý chúng một cách thoả
đáng để nâng cao tính tích cực của con người và hướng tính tích cực đó vào thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế- xã hội.
Vai trò động lực lợi ích bao giờ cũng mãnh liệt, luôn thôi thúc con người hành động, đồng
thời chịu sự thúc ép từ phía nhu cầu chưa được thoả mãn. Do vậy, khi đạt được những lợi ích
cụ thể, con người thường có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thoả mãn không chỉ một nhu cầu,
mà có khi lại có cơ hội thoả mãn nhiều nhu cầu. Đúng như Ph.Ănghen nhận xét: “Đó chẳng qua
chỉ là hoạt động của con người ấy theo đuổi mục đích của mình. Nhưng mục đích lại là hình ảnh
của các lợi ích cụ thể. Từ đó, có thể khẳng định rằng, lịch sử chính là sự hoạt động của con
người đang thực hiện các lợi ích của họ”.

Quân nhân QĐNDVN luôn cố gắng vươn lên vì lý tưởng cao cả độc lập dân tộc và
CNXH, vượt qua khó khăn, vượt lên chính mình vươn tới cái cao thượng, nhu cầu muốn sống tốt
hơn, cao đẹp, văn minh hơn, tự do và hạnh phúc hơn.v.v. đã thôi thúc họ hành động. Đó chính là
những hành động mang tính tích cực, cách mạng và tiến bộ lịch sử. Nguồn sức mạnh ấy được
tạo nên bởi khát vọng về lợi ích. Khi khát vọng ấy trở thành tình cảm và lý trí, lương tâm và danh dự
của người lính, đó chính là những động cơ, lý tưởng cách mạng. Lý tưởng bao giờ cũng mang tính xã
hội và không thể dễ dàng vứt bỏ. C.Mác viết: “Tư tưởng chiếm lĩnh ý nghĩ của chúng ta, bắt lòng tin
tưởng của chúng ta phải phục tùng và được lý trí cột chặt lương tâm của chúng ta vào chúng- đó là sợi
dây ràng buộc mà người ta không thể bứt ra được nếu không xé nát trái tim của mình”[44, tr. 173].
Lý tưởng cách mạng theo C.Mác là lợi ích chân chính của con người trong quan niệm
của thời đại đó. Người ta đấu tranh chính là để thoả mãn những nhu cầu, lợi ích và do đấy cũng


chính là hiện thực hoá lý tưởng. Một chân lý hết sức giản dị là mỗi con người nói chung, người
quân nhân nói riêng trước hết phải có khả năng sống đã rồi mới làm ra lịch sử. Lợi ích là động
lực thôi thúc hành động tích cực của quân nhân, tập thể quân nhân. Thông qua đó, họ nhận thức
và vận dụng sáng tạo các quy luật xã hội, các quy luật trong quân sự vào lĩnh vực hoạt động đặc
thù quân sự nhằm đạt được kết quả cao nhất, giảm bớt sự hao phí của cải vật chất và sự hy sinh
của quân nhân. Hiện nay, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH vừa là tiền đề tiên quyết để hiện
thực hoá lý tưởng, vừa là điều kiện hiện thực hoá lợi ích quân nhân. Vì lý tưởng và lợi ích cao
cả, chính đáng ấy mà đã có biết bao cán bộ, chiến sỹ quân đội ta không ngại hy sinh, hiến dâng
tất cả đời mình cho sự nghiệp cách mạng.
Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH và xây dựng quân đội, giải quyết tốt lợi ích
ngày càng trở nên quan trọng, bởi có sự thống nhất vững chắc giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Cơ sở của sự thống nhất đó bắt nguồn từ sự thống nhất
lợi ích của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, tiếp tục được củng cố, phát triển lên một chất lượng
mới, phù hợp với bản chất chế độ chính trị- xã hội mới. Sự thống nhất đó còn là cơ sở chính trị- xã
hội bảo đảm sự gắn bó với lợi ích cơ bản giữa các quân nhân, giữa cán bộ với chiến sỹ, giữa quân
đội với nhân dân tạo thành nền tảng, động lực to lớn thúc đẩy quân nhân hành động cùng toàn dân
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có tác động rất lớn đến nâng cao tính tích
cực con người, thông qua cơ chế bảo đảm lợi ích, đẩy lùi tính bảo thủ, trì trệ, dựa dẫm, ỷ
lại. Trong điều kiện mới này, mỗi quân nhân sẽ bộc lộ hết tiềm năng, luôn trăn trở, tìm tòi
đổi mới cách nghĩ, cách làm để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động. Lợi ích đang là chất
men kích thích trực tiếp, mạnh mẽ, chuyển hoá những đòi hỏi khách quan thành động cơ lý
tưởng thúc đẩy quân nhân tích cực thực hiện nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
- Giải quyết tốt lợi ích góp phần xây dựng chuẩn mực giá trị xã hội của quân nhân, bảo đảm sự
công bằng xã hội trên thực tế và trực tiếp góp phần tái tạo, duy trì, phát huy nguồn lực con người trong
quân đội.
Lý luận cũng như thực tiễn lịch sử đã chứng minh, vị thế và giá trị xã hội của người lính
được hình thành là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích trong
thực tế vừa tạo nên tương quan xã hội tốt đẹp- một xã hội văn minh, lành mạnh, thể hiện sự quý
trọng người lính, yêu mến người lính, vừa thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội
đến sự cống hiến của quân nhân. Góp phần xây dựng phát triển nhân cách của quân nhân, nâng
cao giá trị nghề nghiệp quân sự, vị thế xã hội, tạo nên sức mạnh cảm hoá và thuyết phục họ,
thúc đẩy tính tích cực quân nhân trong hoạt động. Sự thu hút, hấp dẫn của nghề nghiệp quân sự
cũng dựa trên cơ sở vấn đề lợi ích. Đây là mối quan tâm đầu tiên của mỗi người, qua đó họ cảm
nhận niềm vinh dự, tự hào được cống hiến sức mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Giải quyết tốt vấn đề lợi ích sẽ động viên mọi thành viên trong cộng đồng, trong khi đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ lao động sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội, luôn sẵn sàng tham gia mọi


×