Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ binh chủng đặc công hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.75 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công là
phần kết tinh của những tư tưởng và hành vi đạo đức chứa đựng trong khuân
mẫu lý tưởng, quy tắc ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống
quân đội ta nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của sĩ quan trẻ Binh chủng
Đặc công đem lại lợi ích cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Đây là giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, quân đội và binh chủng Đặc công được tích hợp
ở sĩ quan trẻ thông qua quá trình học tập, rèn luyện và công tác. Những khuân
mẫu lý tưởng, quy tắc ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống
đang hàng ngày điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đực, góp phần định hình nhân
cách của sĩ quan trẻ. Sự phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ
Binh chủng Đặc công là nhân tố quyết định vai trò của sĩ quan trẻ trong tiếp nối
truyền thống quý báu của dân tộc, quân đội, binh chủng và đơn vị.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập quốc tế
luôn tồn tại đan xen cả những thuận lợi, thời cơ lớn, đồng thời tiềm ẩn nhiều
khó khăn, nguy cơ, thách thức đã tác động mạnh mẽ tới quan điểm sống, định
hướng giá trị của cá nhân và xã hội. Mặc dù được Đảng, Nhà nước quan tâm
chăm lo nhưng đạo đức lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Những biểu
hiện chạy theo lợi ích cá nhân tâm thường, lối sống thực dụng. Thực tế ấy đã
và đang xâm nhập vào môi trường quân đội, vốn luôn đòi hỏi sự hi sinh rất
lớn của mỗi cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ. Nhất là lớp người trẻ, với tâm
lý thích cái mới, muốn khẳng định bản thân, kinh nghiệm và vốn sống còn
hạn chế trong khi nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao. Sĩ quan trẻ Binh chủng
Đặc công không nằm ngoài đặc điểm đó. Ở họ còn không ít biểu hiện do dự,
thiếu quyết đoán trong nhận định tình hình và tổ chức chỉ huy; ngại khó khăn

0



gian khổ trong phấn đấu rèn luyện; biểu hiện của lối sống cá nhân thực dụng
ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ hoàn thành nhiệm vụ.
Cùng sự phát triển chung của Quân đội, Binh chủng Đặc công đã có
những bước phát triển về nhiệm vụ như: chống khủng bố, chống bạo loạn lật
đổ, giải thoát con tin cả trên bộ, dưới nước, rừng núi, trung du, đồng bằng và
thành phố… đây là những nhiệm vụ mới chưa có trong tiền lệ. Để hoàn thành
nhiện vụ đòi hỏi ở Sĩ quan trẻ Binh chủng Đăc công bản lĩnh chính trị, trình
độ kỹ chiến thuật, phẩm chất đạo đức, kỷ luật đặc biệt cao. Để xứng đáng là
người kế tục sự và phát triển truyền thống dân tộc, quân đội và binh chủng thì
mỗi Sĩ quan trẻ Binh chủng phải trở thành chủ thể chủ động, tích cực trong
chính quá trình ấy, mà trọng tâm là phát triển những giá trị truyền thống dân
tộc trong đó có giá trị đạo đức truyền thống dân tộc làm “cốt” cho phát triển
đạo đức mới của người quân nhân cách mạng. Với lý do trên vấn đề: “Phát
triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ binh chủng Đặc công
hiện nay” là đề tài mang tính cấp thiết cả lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề nghiên cứu về đạo đức, đạo đức truyền thống, giá trị
đạo đức truyền thông, đạo đức quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã
có nhiều tác giả, công trình khoa học quan tâm nghiên cứu làm sáng tỏ.
Các công trình nghiên cứu về đạo đức truyền thống và giá trị đạo
đức truyền thống
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (2003) Mấy
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [15]. Trên cơ sở luận giải những tác động của nền
kinh tế thị trường đến đời sống xã hội và khẳng định trên lĩnh vực đạo đức
nhất định thì một số quan niệm, giá trị, chuẩn mực… có sự biến đổi, hoặc
hình thành nên những giá trị đạo đức mới. Sự tác động này mang tính hai mặt
tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta biết phát huy vai trò quy phạm và hướng
1



dẫn của đạo đức thì không những đạo đức không cản trở sự phát triển mà trái
lại, nó sẽ góp phần vào sự phồn vinh của đất nước. Đặc biệt với Việt Nam, nơi
có truyền thống coi trọng các giá trị đạo đức, việc sử dụng, giữ gìn và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống là vấn đề rất cần coi trọng.
Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội [25]. Trong tác phẩm này, từ góc độ sử
học và đạo đức học tác giả đã phân tích sâu sắc sự vận động của những giá trị
tinh thần truyền thống và chỉ ra giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là những
gì sừng sững, cao vọt, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu
điểm để các tầng lớp đồng bào theo đó mà gióng hướng, mà không đi lạc, mà
phân biệt chính tà, phải trái, tốt xấu để mỗi người xác định thái độ và hành
tung của mình. Trên cơ sở nghiên cứu một cách nghiêm túc, trung thực và
kiên nghị tác giả đã khái quát và sắp xếp thang giá trị truyền thống dân tộc:
yêu nước, cần cù, anh dũng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa và
được trình bày từ chương IV đến chương X. Tác giả giải thích thêm, chủ
nghĩa yêu nước là tư tưởng và tình cảm chủ yếu của người Việt Nam xưa nay,
là sợi chỉ đổ xuyên suốt qua toàn bộ lịch sử Việt Nam. Yêu nước là thước đo
tiêu chuẩn xét người, xét việc, cho nên đặt “yêu nước” lên đầu bảng giá trị.
Tiếp sau là các chương nói về cần cù, anh dũng, sáng tạo, lạc quan là nói về
phía chủ quan, tức là nói về những cái mình phải có, phải làm khi sống ở đời,
khi mình là người Việt Nam. Còn thương người, vì nghĩa là những phẩm chất
trong mối quan hệ với người khác, với cộng đồng. Qua đó khẳng định dứt
khoát các giá trị ấy đã phát triển một cách độc lập, mà mầm mống của các giá
trị ấy đã xuất hiện ngay từ thời Văn Lang xa xưa, vượt qua hơn nghìn năm
Hán Đường đô hộ, củng cố lịch sử tồn tại độc lập lâu dài của nhà nước phong
kiến suốt tám, chín thế kỷ và sau hết là chiến thắng thực dân Pháp, phát xít
Nhật, đế quốc Mỹ.

2



Nguyễn Văn Lý (2013), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb
Hành chính quốc gia, Hà Nội [33]. Từ tính quy luật phổ biến của kế thừa và
đổi mới trong nguyên lý về sự phát triển chủa chủ nghĩa duy vật biện chứng,
tác giả phân tích tính đặc thù của kế thừa và đổi mới trong sự phát triển đạo
đức thông qua việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đế sự phát triển đạo đức,
nhất là vai trò của nhân tố kinh tế mà trực tiếp là quan hệ lợi ích của con
người. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu tìm hiểu tác động của quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đến đạo đức nói chung và các giá trị
đạo đức truyền thống nói riêng. Việc xây dựng những giá trị, chuẩn mực đạo
đức của con người và xã hội Việt Nam mới đòi hỏi phải chủ động và tích cực
kế thừa và đối với các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc để nó thực sự là
nên tảng và động lực tinh thần to lớn để nhân dân ta thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho rằng, “trong quá trình phát triển của đạo
đức, có hai xu hướng khá rõ nét: một mặt, có sự kế thừa về tính giai cấp và
mặt khác, hình thành dần một nền đạo đức với các giá trị mang tính nhân
loại phổ biến”[tr.39].
Vấn đề giá trị đạo đức truyền thống được nhiều tác giả, công trình quan
tâm nghiên cứu làm rõ nội dung, vai trò và sự vận động, phát triển của nó
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong đó tiêu biểu có: Đặng Hữu Toàn (2003), Giữ gìn và phát huy giá trị
đạo đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
(Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội [59]. Ngô Thị Thu Hà (2011), “Giá trị đạo
đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay” [26], đã khái quát nên những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc với việc xây dựng những phẩm chất đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện

3


nay. Luận án đã nói lên thực tiễn tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
đến đạo đức của giới trẻ. Đồng thời, đưa ra những giải pháp cấp thiết, quan
trọng để xây dựng những chuẩn mức đạo đức mới trong giai đoạn hiện nay.
Cao Thu Hằng (2011), “Kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” [28]. Trong luận án của
mình tác giả đã đánh giá và nêu bậc những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, đồng thời khái quát những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức
hiện nay. Qua đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong việc giáo dục nhân cách
cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay… và rất nhiều tác giả, công
trình đề tài khác. Mặc dù nghiên cứu, tiếp cận ở những góc độ khác nhau,
nhưng các công trình, đề tài đều thống nhất về bản chất, nội dung, vai trò và
yêu cầu cần tiếp tục có giải pháp để kế tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Những công trình nghiên cứu về phát triển đạo đức quân nhân, sĩ
quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Hà Huy Thông (1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người cái
bộ quân sự - lý luận và vận dụng” [58]. Trong công trình này tác giả đã trình
bầy một cách có hệ thống và sâu sắc về các chuẩn mực cơ bản của đạo đức
người cán bộ quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã đề xuất một số
vấn đề phương pháp luận để xây dựng đạo đức người cán bộ quân sự theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới. Đoàn Mô (chủ biên,
2000), Giáo dục đạo đức cách mạng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay thực trạng và giải pháp [46]; Nguyễn Hùng Oanh (2002) “Phát triển đạo đức
cách mạng ở thanh niên quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay
[52]; Phạm Văn Nhuận (chủ biên, 2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
của người cán bộ quân đội và giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng của
người cán bộ quân đội hiện nay”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội [48];
Phạm Văn Nhuận (chủ biên, 2007), “Chuẩn mực đạo đức quân nhân của

4


Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
[49]. Trong công trình này tác giả đã luận giải vấn đề cơ bản về “đạo đức”,
“chuẩn mực đạo đức” và “chuẩn mực đạo đức quân nhân” tường minh, dễ
hiểu. Phạm Văn Nhuận (2008), “Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quân đội hiện nay”,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội [50]. Phạm Văn Nhuận (chủ biên, 2010),
“Vận dụng tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đạo đức trong xây
dựng đạo đức quân nhân hiện nay”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội [51].
Tác giả làm rõ cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức do C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin thực hiện; tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đạo đức cộng
sản và đặc điểm, định hướng vận dụng tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.
Lênin về đạo đức trong xây dựng đạo đức quân nhân hiện nay.
Lê Trọng Tuyến (2014), “Tác động của biến đổi hệ thống giá trị đạo đức
xã hội ở nước ta đến đạo đức thanh niên quân đội hiện nay” [60], trong cuốn sách
tác giả đã nghiên cứu sâu sắc về quy luật và tác động của sự biến đổi hệ thống giá
trị đạo đức xã hội đến đạo đức thanh niên quân đội; luận giải các nhân tố biến đổi
của hệ thống giá trị đạo đức xã hội tác động đến thanh niên. Đồng thời, tác giả chỉ
ra những giải pháp để phát huy những tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực
đến biến đổi hệ thống giá trị đạo đức xã hội ở nước ta đến đạo đức thanh niên
quân đội hiện nay. Dương Quang Hiển (2015), “Phát huy giá trị đạo đức quân
nhân của thanh niên Quân đội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay” [30].
Tác giả đã nói lên vị trí, vai trò, ý nghĩa của giá trị đạo đức quân nhân và khẳng
định vai trò nền tảng tinh thần của giá trị đạo đức quân nhân đối với thanh niên
đang công tác trong môi trường Quân đội. Đồng thời, đưa ra các yêu cầu giải pháp
để phát huy giá trị đạo đức quân nhân của thanh niên Quân đội trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Các công trình, đề tài đề cập nghiên cứu về sĩ quan trẻ tiêu biểu có:

Nguyễn Kim Bình (1996), “Khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân
5


trong đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội ta hiện nay”[2]; Lại Ngọc Hải (chủ biên,
2002). “Định hướng giá trị nhân cách đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [27]; Phạm Xuân Hảo (chủ biên, 2010), “Bồi dưỡng lối
sống xã hội chủ nghĩa cho sĩ quan trẻ hiện nay” , Nxb Quân đội nhân dân, hà
Nội [29]; … tiếp cận nghiên cứu ở các góc cạnh khác nhau, nhằm phát triển,
định hướng, bồi dưỡng những phẩm chất nhân cách nhất định ở họ. Cho thấy,
sĩ quan trẻ là đối tượng được quan tâm nghiên cứu khá nhiều.
Những công trình, đề tài nghiên cứu về phát triển đạo đức bộ đội
Đặc công và phát triển đạo đức sĩ quan trẻ trong Binh chủng Đặc công
Đến nay, có một số công trình, đề tài đề cập nghiên cứu tiêu biểu như:
Nguyễn Văn Bình (2013), “Phát huy truyền thống bộ đội Đặc công trong xây
dựng nhân cách Hạ sĩ quan, binh sĩ ở Binh chủng công hiện nay” [4]; Trương
Ngọc Long (2014), “Phát triển nếp sống văn hóa của sĩ quan trẻ ở Binh chủng
Đặc công hiện nay” [32] Các tác giả, công trình trên đã nghiên cứu làm sáng tỏ
các vấn đề về giá trị đạo đức truyền thống, sự cần thiết phải kế thừa và đổi mới
giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện hiện nay. Nghiên cứu về bồi
dưỡng, phát triển đạo đức quân nhân và các công trình nghiên cứu về sĩ quan
trẻ và lực lượng Đặc công Quân đội nhân dân Việt nam. Do đó, tác giả lựa chọn
vấn đề “Phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng
Đặc công hiện nay” nghiên cứu làm sáng tỏ vì chưa có tác giả hay công trình
nào đề cập trực tiếp. Những công trình, đề tài trên sẽ là tài liệu quan trọng để
tác giả nghiên cứu, kế thừa và vận dụng vào công trình của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp phát triển giá trị
đạo đức truyền thống của Sĩ quan trẻ trong Binh chủng Đặc công hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

6


- Làm rõ thực chất và nhân tố quy định phát triển giá trị đạo đức truyền
thống của sĩ quan trẻ trong Binh chủng Đặc công
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển giá trị đạo đức truyền thống
của sĩ quan trẻ trong Binh chủng Đặc công hiện nay
- Đề xuất giải pháp phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan
trẻ trong Binh chủng Đặc công hiện nay
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công
* Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam của sĩ quan
trẻ Binh chủng Đặc công,
- Không gian: Binh chủng Đặc công
- Thời gian: Số liệu báo cáo, điều tra, khảo sát từ năm 2011 đến nay
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức, đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam, đạo đức cách mạng, truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam,
truyền thống Binh chủng Đặc công.
* Cơ sở thực tiễn
Quá trình phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ trong
Binh chủng Đặc công ở các cơ quan, đơn vị; các số liệu báo cáo của các cơ
quan, đơn vị và kết quả điều tra, khảo sát của tác giả về phát triển giá trị đạo
đức truyền thống của sĩ quan trẻ trong Binh chủng Đặc công.

* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ
7


thể: hệ thống cấu trúc, lịch sử và logic; phân tích và tổng hợp; khái quát hóa,
trừu tượng hóa; điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao đạo đức truyền
dân tộc của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công; đồng thời có thể làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, nâng cao đạo đức truyền thống của sĩ
quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục và các công trình nghiên cứu của tác giả đã được công bố.

8


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ QUY ĐỊNH PHÁT TRIỂN
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA SĨ QUAN TRẺ
BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG
1.1. Thực chất phát triển giá trị đạo đức truyền thống của Sĩ quan
trẻ Binh chủng Đặc công
1.1.1. Quan niện về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và giá trị
đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công
Con người tồn tại có tính cộng đồng và mức độ tính cộng đồng cao hay
thấp biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nhóm, mỗi cộng đồng xã hội. Một

trong những sáng tạo đặc trưng phản ánh sự khác biệt căn bản giữa tính cộng
đồng loài người và tính bày đàn loài vật đó là đạo đức. Là sản phẩm trực tiếp
phản ánh quan hệ người, đạo đức xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng sự phát
triển của xã hội loài người. Đạo đức là thước đo trình độ phát triển của mỗi cá
nhân, cộng đồng và xã hội. Một xã hội phát triển trước hết được biểu hiện ở
quan hệ giữa các thành viên và mỗi thành viên có hay không đặt lợi ích cộng
đồng lên trên, lên trước. Nghĩa là các quan hệ người được giải quyết trước hết
bởi quan hệ đạo đức.
Quan niệm của nhân loại về đạo đức có sự khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện lịch sử thực tiễn khác nhau. Nhưng khuynh hướng chủ đạo thì, đạo
đức luôn được quan niệm một cách hiện thực gắn bó chặt chẽ với đời sống xã
hội, dưới dạng những quy tắc, chuẩn mực chung để điều chỉnh các mối quan
hệ của con người. Các quan niệm về đạo đức đều thống nhất ở mấy điểm sau:
đạo đức bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, quy tắc chuẩn mực...
phán ánh mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; đạo đức được
thực hiện do sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội và lương tâm
của mỗi con người; đạo đức điều chỉnh hướng cho lợi ích cá nhân phù hợp với

9


lợi ích chung hoặc đặt lợi ích chung của cộng đồng lên trên, lên trước để xã
hội luôn ổn định và phát triển.
Trên lập trường duy vật triệt để khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin có
thể quan niệm rằng: Đạo đức là một hiện tượng xã hội thuộc lĩnh vực đời
sống tinh thần, bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc,
chuẩn mực… được dùng để đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử của con
người, được thực hiện do sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội
và lương tâm của mỗi người cho phù hợp với lợi ích và tiến bộ xã hội.
Đạo đức trước hết được xem xét là một hình thái ý thức xã hội phản

ánh tồn tại xã hội mà trực tiếp là phản ánh quan hệ kinh tế xã hội. Là một
trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất, ngay từ đầu đạo đức
đã phản ánh tồm tại xã hội với kiểu quan hệ cộng sản nguyên thủy. Khi loài
người còn săn bắn hái lượm, lao động chung, hưởng thụ chung thì quy tắc đạo
đức đầu tiên điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân sẽ củng cố thêm mỗi quan hệ
cộng đồng. Lúc đầu do nhu cầu sinh tồn mà cá nhân phải liên kết lại với nhau,
xong chính trong quá trình liên kết sinh tồn ấy các quy tắc đạo đức: phải săn
bắn chung, phải ăn ở tập trung, phải hái lượm chung... được hình thành. Khi
xã hội bắt đầu có của cải dư thừa và xuất hiện hành vi lấy của chung sử dụng
riêng gây mất ổn định cộng đồng và được phản ảnh ở chuẩn mực “không
được ăn cắp”. Hình thái ý thức chính trị, tôn giáo, pháp quyền... xuất hiện sau
và chỉ có trong xã hội có giai cấp và mất đi khi tiến tới xã hội không có đối
kháng giai cấp. Nhưng hình thái ý thức đạo đức vẫn tồn tại và trở thành công
cụ chủ yếu điều chỉnh hành vi của các cá nhân.
Đối tượng phản ánh của đạo đức là nhu cầu, lợi ích xã hội. Đây là đặc
trưng cơ bản phản ánh bản chất của đạo đức. Cái làm cho đạo đức khác biệt
với các hình thái ý thức xã hội khac và nhất là hình thái ý thức pháp luật, tuy
cùng phản ánh một tồn tại xã hội, một quan hệ kinh tế và cùng là công cụ điều
tham gia điều chỉnh quan hệ con người. Nhu cầu, lợi ích xã hội không chỉ là
10


cái hiện tại mà còn là sự bảo đảm cho tương lai, bảm đảm sự phát triển của
mỗi cộng đồng và nhân loại. Nhưng quy tắc, quan điểm, quan niệm và chuẩn
mực là đạo đức nếu nó phản ánh và đại diện cho nhu cầu ổn định và phát triển
của cộng đồng. Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, ý
thức và hành vi chỉ được gọi là đạo đức nếu cá nhân biết làm cho lợi ích của
mình phù hợp với lợi ích xã hội, có khi phải hy sinh lợi ích cá nhân trong
trường hợp có sự đối lập. Sự phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của đạo đức
cho thấy sự lựa chọn của cộng đồng trong các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và

phát triển. Qua đó định hướng ý thức và hành vi của cá nhân cho phù hợp với
lợi ích, yêu cầu xã hội.
Đạo đức được xem xét là một phương thức điều chỉnh hành vi của con
người. Cá thể người không tồn tại đơn lẻ mà tồn tại trong mối quan hệ với các
cá thể khác, nhóm xã hội. Hành vi của mỗi cá nhân ảnh hưởng trực tiếp tới sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, mỗi cá nhân không thể hành động
một cách tùy tiện, ngược lại bị xã hội điều chỉnh bởi các phương thức khác
nhau. Trong đó, đạo đức và pháp luật là hai phương thức căn bản. Hai phương
thức này có sự khác nhau căn bản. Nếu như pháp luật sử dụng các quy phạm
pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người bằng sức mạnh của bạo lực,
cưỡng bức, thì ngược lại, đạo đức sử dụng các quy tắc, chuẩn mực làm thành
khuân mẫu để mỗi người thực hiện vì lợi ích chưng của cộng đồng, xã hội.
Mặc dù vậy, đạo đức và pháp luật luôn có mối liên hệ, bổ sung hỗ trợ cho
nhau, có khi còn chuyển hóa lẫn nhau. Có những khuân mẫu, chuẩn mực đạo
đức cần phải luật hóa trở thành quy phậm pháp luật, ngược lại có những quy
phạm pháp luật được mọi người công nhận và tự nguyện tuân theo thì trở
thành khuân mẫu, chuẩn mực đạo đức.
Truyền thống là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội truyền từ đời
này qua đời khác và được lưu giữ trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội
trong quá trình lâu dài. Truyền thống được thể hiện trong chế định xã hội,
11


chuẩn mực, hành vi, các giá trị tinh thần, phong tục tập quán và lối sống …
truyền thống tác động khống chế đến mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Theo giáo sư Trần Văn Giàu trong “Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam” cho rằng “truyền thống là những đức tính hay
những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác
dụng, tác dụng đó cũng có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực” [27, tr.92].
Truyền thống là những gì được các thế hệ tiếp nhận, trao truyền từ đời này

qua đời khác mà tương đối ổn định. Truyền thống được thể hiện ở ý thức,
hành vi của cá nhân và ở chế định, chuẩn mực, phong tục tập quán, lối sống..
của nhóm, cộng đồng, dân tộc. Truyền thống tác dụng có thể tích cực, tác dụng
tiêu cực nên có cái tốt cái xấu. Hồ Chí Minh dạy “Cái gì tốt thì ta nên khôi
phục và phát triển, còn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi” [43, tr557] . Tức là những
cái gì còn có tác dụng tích cực với sự nghiệp cách mạng mới, với sự tồn tại và
phát triển của dân tộc thì mới nên khôi phục, còn những gì mà sự tồn tại của nó
chỉ cản trở bước tiến, sự phát triển của dân tộc thì nên loại dần ra.
Có thể quan niệm: Đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam là hệ thống
các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực điều chỉnh các quan hệ xã hội, thái độ
ứng xử và hành vi con người được các thế hệ người Việt Nam trao truyền
và tiếp nối trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nếu lấy nhu
cầu, lợi ích của dân tộc làm hệ quy chiếu phản ánh của đạo đức thì, đạo đức
truyền thống dân tộc Việt Nam phản ánh nhu cầu, lợi ích xuyên suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Như thế, sự hình thành,
phát triển và chuyển hoá về mặt nội dung, kết cấu của mỗi một hệ thống tư
tưởng đạo đức; cũng như quá trình giao thoa, tiếp biến với các nền văn hóa
bên ngoài đã phác thảo nên lịch sử quá trình tồn tại và phát triển của dân
tộc Việt Nam thông qua lịch sử hình thành, phát triển của các chuẩn mực
đạo đức truyền thống dân tộc.

12


Nhu cầu tồn tại và phát triển thì dân tộc nào cũng có, nhưng vào từng
địa vị, từng hoàn cảnh khác nhau mà lựa chọn phương thức khác nhau. Có
những dân tộc vẫn tồn tại, phát triển nhưng lại mất đi bản sắc riêng có mà
chịu sự quy định của dân tộc khác. Do đó, cùng là nhu cầu tồn tại và phát
triển, nhưng các nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực đạo đức truyền thống của
mỗi dân tộc cũng đậm nhạt và biểu hiện khác nhau. Tuy nhiên, từng dân tộc ở

mỗi giai đoạn khác nhau có nhu cầu, lợi ích khác nhau. Nhưng không phải
mọi quan điểm, quan niệm, chuẩn mực được nào nảy sinh từ nhu cầu, lợi ích
của dân tộc cũng là đạo đức truyền thống, mà chỉ những nguyên tắc, quan
niệm, chuẩn mực được trao truyền từ thế hệ này, sang thế hệ khác mới là đạo
đức truyền thống. Nghĩa là đạo đức truyền thống không phải là cái gì bất biến
mà quá trình trao truyền luôn bao hàm sự lọc bỏ, bổ sung và phát triển thêm.
Giá trị là sự khẳng định ý nghĩa của đối tượng, khách thể (vật chất hay
tinh thần) đối với chủ thể (cá nhân, nhóm, cộng đồng) về một phương diện
nào đó. Giá trị gắn bó chặt chẽ với các nhu cầu của chủ thể. Giá trị thể hiện
thông qua các quan hệ xã hội. Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống
kinh tế, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị
tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể
hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập
quán... Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần và
chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái
sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người
với con người, con người với xã hội.
Là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội, giá trị
đạo đức là cái được con người lựa chọn và đánh giá, xem nó như là việc làm
có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư
luận biểu dương. Ở đây giá trị đạo đức là phẩm chất người được hết tinh trong
ý thức và hành vi và biểu hiện ở những chuẩn mực, những khuân mẫu lý
13


tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi con
người. Mỗi tư tưởng và hành vi đạo đức đều chứa đựng những giá trị đạo đức
nhất định nhằm khẳng định ý nghĩa xã hội của nó. Giá trị đạo đức được thể
hiện thông qua việc thực hiện các chức năng điều chỉnh hành vi, chắc năng
giáo dục và chức năng nhận thức.

Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam là phần kết tinh của
những tư tưởng và hành vi đạo đức truyền thống chứa đựng trong những
khuân mẫu lý tưởng, quy tắc ứng xử, chuẩn mực hành vi đạo đức nhằm điều
chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người đem lại lợi ích cho tổ quốc, dân
tộc, nhân dân. Những khuân mẫu, chuẩn mực, quy tắc, quan điểm, quan niệm
đạo đức hình thành trong quá khứ được trao truyền từ đời này qua đời khác và
đang tham gia đánh giá điều chỉnh hành vi ứng xử của con người Việt Nam
hiện nay một cách tự giác tự nguyện góp phần quan trọng để dân tộc Việt
Nam tiếp tục phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống chính là đạo đức truyền
thống đã đang và sẽ tham gia đánh giá, điều chỉnh quan hệ xã hội để dân tộc
Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển không ngừng.
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là những quy tắc, chuẩn mực đạo
đức lớn để phân biệt phải trái, để nhận định nên hay không nên thực hiện gắn
với từng thời điểm, giai đoạn nhất định nhưng đều nhằm bảo vệ sự tồn tại và
phát triển của dân tộc ta. Những quy tắc, chuẩn mực này tiềm ẩn trong mỗi
người mà bất kỳ đâu, khi nào họ cũng sẵn sàng, tự giác, tự nguyện tuân theo.
Nội dung giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam bao gồm: Yêu nước là
giá trị đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị đạo đức truyền
thống; Lòng thương người sâu sắc xuất phát từ tình cảm yêu quý con người,
là kết quả của quá trình lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của
dân tộc; Đoàn kết là sản phẩm đặc thù của điều kiện thiên nhiên khắc nghiệp
và điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam; Lao động cần cù, tiết kiệm là một giá
trị đạo đức nổi bật trong hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức
14


truyền thống dân tộc tồn tại trong phong tục tập quán, trong ca dao tục ngữ,
trong thói quen hành vi.
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Quân đội ta được Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, từ ngày thành lập

đến nay đã luôn xứng đáng là một đội quân cách mạng, tuyệt đối trung thành
với Đảng, với nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. “Bộ đội Cụ Hồ” danh hiệu thân thiết
và cao quý mà nhân dân trao tặng là sự khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
của một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó cũng là sự
khẳng định những giá trị đạo đức quân nhân cách mạng do chính cán bộ,
chiến sĩ quân đội tạo ra bằng sự hi sinh, chiến đấu quên mình vì độc lập, tự do
cho Tổ quốc, vì hành phúc của nhân dân. Giá trị đạo đức truyền thống quân
đội ta hình thành, phát triển là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó,
tinh hoa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc; tinh hoa giá trị đạo đức
nhân loại và thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta.
Những giá trị đạo đức truyền thống của quân đội ta là, tuyệt đối trung thành
với Đảng, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; hiếu với dân, một lòng, một dạ phục vụ
nhân dân, vì nhân dân quyên mình, vì nhân dân chiến đấu; dân chủ, kỷ luật,
đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội; khắc phục khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ, mưu trí sáng tạo, quyết chiến quyết thắng; sống trong sạch, lành
mạnh, có văn hóa, lạc quan yêu đời, trunh thực, giản dị, tiết kiệm và đoàn kết
quốc tế trong sáng, thủy trung, nhân đạo với tù hàng binh.
Binh chủng Đặc công được thành lập ngày 19 tháng 3 năm 1967, nhưng
từ những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cách đánh “công đồn đặc
biệt” – dùng lực lượng nhỏ, trang bị gọn nhẹ bí mật tiếp cận các mục tiêu, bất
ngờ tiến công tiêu diệt sinh lực đối phương, đã xuất hiện ở chiến trường Nam
bộ. Cách đánh và tổ chức Đặc công đã phát triển nhanh chóng ở cả ba lực
lượng: Đặc công bộ, Đặc công biệt động và Đặc công nước. Trải qua 50 năm
15


xây dựng, chiến đấu và trưởng thành BCĐC hiện nay được tổ chức thành 7
đầu mối lớn với các chức năng, nhiệm vụ đặc trưng khác nhau, bao gồm: Cơ
quan Bộ tư lệnh Đặc công, ngoài lãnh đạo chỉ huy các đơn vị trực thuộc, Bộ

tư lệnh Đặc công; 03 Lữ đoàn Đặc công bộ đứng chân trên địa bàn Tây
Nguyên, Đông nam bộ và trung du bắc bộ; 01 Lữ đoàn Đặc công nước đứng
chân trên địa bàn Nam trung bộ; 01 Lữ đoàn Đặc công biệt động đóng quân
trên địa bàn thành phố Hà Nội; 01 Trường sĩ quan Đặc công là trung tâm đào
tạo cán bộ đặc công cho toàn quân.
Hình thành và phát triển trong thực tiễn chiến đấu, cách đánh đặc công
là sản phẩm của chiến tranh nhân dân phát triển cao dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là cách đánh tiêu biểu cho nghệ thuật quân sự
Việt Nam lấy ít đánh nhiều, dùng quân cốt tinh không cốt nhiều. Trong tác
chiến, cách đánh đặc công triệt để lợi dụng yếu tố bí mật luồn sâu áp sát mục
tiêu, bất ngờ tấn công nhanh, mãnh liệt, chính xác, đạt hiệu suất chiến đấu
cao. Hiệu quả chiến đấu của bộ đội đặc công còn nằm ở khả năng cơ động tác
chiến trên nhiều loại địa hình, có thể luồn sâu vào đội hình của đối phương,
mục tiêu tác chiến thường là chỉ huy, thông tin liên lạc, lực lượng xung yếu
của đối phương. Bộ đội đặc công có thể tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng với
các quân binh chủng khác.
Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành BCĐC luôn nêu cao ý
chí quyết chiến, quyết thắng phát huy trí thông minh và lòng dũng cảm làm
tròn chức năng của một binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của
QĐNDVN, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chiến đấu và công tác. Trong
thời kỳ đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, BCĐC đã làm tốt
công tác tham mưu với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về xây dựng
và phát triển lực lượng đặc công theo hướng tinh, gọn, mạnh; thực hiện tốt
chức năng chủ nhiệm - đơn vị đầu ngành chống khủng bố của toàn quân.
BCĐC hai lần vinh dự được phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực
16


lượng vũ trang nhân dân và 16 chữ vàng truyền thống “Đặc biệt tinh nhuệ;
Anh dũng tuyệt vời; Mưu trí táo bạo; Đánh hiểm thắng lớn”.

Sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công là những quân nhân, tuổi đời không
quá 30, có cấp hàm từ thiếu úy đến đại úy, có chức vụ là cán bộ cấp phân đội
(mũi, đội, liên đội), giáo viên ở nhà trường, trợ lý các cơ quan hiện đang công
tác tại BCĐC. Đây là đối tượng đặc thù, vừa mang những đặc điểm của sĩ
quan trẻ trong QĐNDVN, vừa mang đặc điểm của sĩ quan trẻ trong binh
chủng đặc biệt tinh nhuệ. Họ là lớp người trẻ, nên rất năng động, nhạy bén
nhưng thiếu kinh nghiệm, kỹ năng chỉ huy, quản lý. Tuy được đào tạo cơ bản
tại các nhà trường quân đội có trình độ tri thức, sức khỏe tốt và lòng nhiệt tình
với công việc. Nhưng lại là đối tượng cần tiếp tục được bồi dưỡng và rèn
luyện nâng cao bản lĩnh, hoàn thiện nhân cách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Sĩ quan trẻ BCĐC là những người trực tiếp quản lý con người, vũ khí
trang bị ở các đơn vị; trực tiếp huấn luyện, giáo dục bộ đội chuẩn bị chiến đấu
và sẵn sàng chiến đấu, chỉ huy chiến đấu khi có tình huống; trực tiếp chỉ huy
phân đội thực hiện mọi nhiệm vụ được giao; trực tiếp giáo dục, rèn luyện xây
dựng nhân cách cho chiến sĩ thuộc quyền; là lực lượng kế tục sự nghiệp xây
dựng và phát triển BCĐC hôm nay và mai sau. Sĩ quan trẻ vừa là người lãnh
đạo, người chỉ huy và người giáo dục cấp dưới thuộc quyền. Đăc điểm nổi bật
của Sĩ quan trẻ BCĐC nằm ở yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, tính chất nhiệm
vụ phải thực hiện đòi hỏi ở họ bản lĩnh, mưu trí, dũng cảm và tinh thần làm
gương rất lớn trong thực hiện các nhiệm vụ. Quá trình học tập, phấn đấu và
rèn luyện sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công đã tiếp nhận giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc, truyền thống quân đội và truyền thống binh chủng định hình
thành giá trị đạo đức truyền thống của bản thân.
Giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc công là
phần kết tinh của những tư tưởng và hành vi đạo đức chứa đựng trong khuân
mẫu lý tưởng, quy tắc ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống
17


Binh chủng Đặc công nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của sĩ quan trẻ

Binh chủng Đặc công đem lại lợi ích cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Đây
là những quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đã hình
thành trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của binh chủng đặc công và được
trao truyền tới ngày nay và vẫn đang tham gia đánh giá điều chỉnh ý thức, thái
độ, hành vi của sĩ quan trẻ BCĐC. Biểu hiện ở với sự đồng tình ủng hộ của dư
luận tập thể quân nhân, dư luận xã hội và lương tâm của mỗi sĩ quan trẻ góp
phần hoàn thiện nhân cách quân nhân cách mạng, hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện tô thắm thêm
truyền thống anh hùng của BCĐC.
Thực chất giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ BCĐC là giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc phát triển cao bởi tính chất “đặc biệt” quán
xuyến trong truyền thống và yêu cầu nhiệu vụ xây dựng và chiếu đấu của
BCĐC trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Nghĩa là giá trị đạo đức truyền thống dân tộc tham gia điều
chỉnh ý thức, thái độ và hành vi của sĩ quan trẻ BCĐC trong các quan hệ với
công việc, với người khác và với chính bản thân mình. Tùy tính chất nhiệm
vụ, cương vị công tác khác nhau mà sự tham gia điều chỉnh có thể khác nhau
và như thế giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ BCĐC có thể biểu hiện
đậm nhạt khác nhau ở từng yếu tố. Tuy nhiên, giá trị đạo đức truyền thống của
Sĩ quan trẻ BCĐC biểu hiện trên những nét chính:
Lập trường chính trị đặc biệt vững chắc, đối với Đảng đặc biệt trung
thành. Đây là chuẩn mực đạo đức hàng đầu, tiêu biểu trong hoạt động chính trị
xã hội, đấu tranh cách mạng của sĩ quan trẻ BCĐC. Yêu nước là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành chuẩn mực cao nhất, đạo lý
làm người của con người Việt Nam. Từ yêu nước truyền thống tới yêu nước xã
hội chủ nghĩa trong thời đại Hồ Chí Minh là hành trình mấy nghìn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc
18



mà các thế hệ kế tiếp nhau biết lưu giữ, trao truyền, phát huy làm cho khí nước
mạnh, trái lại sẽ làm cho khí nước suy, vận nước vì thế mà lâm nguy.
Trung thành với Đảng, với Tổ quốc và với nhân dân là chuẩn mực đạo
đức cách mạng hàng đầu, cơ sở tạo nên sức mạnh làm nên chiến thắng của
quân đội ta. Với sĩ quan trẻ BCĐC, trung với Đảng, hiếu với dân được nâng
lên tầm cao mới bởi tính chất hoạt động tác chiến, yêu cầu nhiệm vụ của Binh
chủng đặc biệt và là giá trị đạo đức cao nhất. Đó là chấp hành nghiêm sự phân
công, điều động của Đảng, tinh thần khắc phục khó khăn quán triệt và thực
hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên, vai trò hạt nhân của Đảng ở cơ sở.
Đồng thời phản ánh tân tư nguyện vọng của cấp dưới, của quần chúng nhân
dân về đường lối, chính sách của Đảng và góp phần tích cực xây dựng đường
lối ấy. Mỗi hàng vi của sĩ quan trẻ BCĐC đáp ứng được chuẩn mực này luôn
nhận được sự đồng tính, tán thưởng của tập thể quân nhân, dư luận xã hội và
lương tâm bản thân sĩ quan trẻ được an vui.
Mưu trí đặc biệt linh hoạt, quyết tâm đặc biệt cao, đặc biệt dũng cảm.
Đây là giá trị đạo đức truyền thống thông minh sáng tạo, dũng cảm kiên
cường được hình thành trong quá trình chiến đấu bảo vệ sự tồn tại và phát
triển của dân tộc trong cuộc chiến chống lại kẻ thù luôn mạnh hơn nhiều lần,
được phát huy cao độ trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại
Hồ Chí Minh và kết tinh trong thực tiễn xây dựng chiến đấu và trưởng thành
của binh chủng Đặc công.
Sĩ quan trẻ BCĐC tiếp nhận giá trị đạo đức truyền thống mưu trí đặc
biệt linh hoạt, quyết tâm đặc biệt cao, đặc biệt dũng cảm thông qua quá trình
nuôi dưỡng trong không gian văn hóa Việt Nam từ văn hóa gia đình, làng xã,
dân tộc, mà hạt nhân là giá trị đạo đức truyền thống; học tập rèn luyện trong
nhà trường quân đội, công tác tại đơn vị được tiếp nhận các giá trị văn hóa
quân sự Việt Nam trong quá trình hình thành nhân cách người sĩ quan
QĐNDVN; môi trường tính chất nhiệm vụ đặc biệt từ cách thức tổ chức, nghệ
19



thuật tác chiến, kỹ thuật, chiến thuật đặc công... đều mang dấu ấn đặc biệt,
làm cho giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, quân đội mang tính chất đặc biệt
ở sĩ quan trẻ BCĐC.
Tinh thần sẵn sàng nhận và hoàn thành công việc là một trong những
biểu hiện rõ nét của giá trị đạo đức của cá nhân. Tính chất công việc, mức độ
khó khăn và khả năng phải hy sinh lợi ích cá nhân hay yêu cầu cống hiến vì
cộng đồng của công việc làm gia tăng giá trị của hành vi đạo đức đã được
thực hiện. Lao động của người quân nhân là dạng lao động đặc biệt không chỉ
bởi tính mục đích của lao động mà còn ở tính chất của chính lao động ấy.
Phẩm chất đạo đức của người quân nhân trước hết được đánh giá bởi khả
năng sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sĩ quan trẻ đứng ở vị
trí “đầu binh, cuối cán” mọi công to việc lớn từ trên xuống hay từ dưới lên
đều thông qua vị trí này. Ngoài việc nhận chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên quán
triệt cụ thể hóa xuống thành kế hoạch, phân công tổ chức thực hiện, si quan
trẻ còn phải lắng nghe tâm tư nguyện vọng của cấp dưới, giải quyết kịp thời
các vấn đề nảy sinh, báo cáo những vấn đề ngoài phạm vi chức trách. Với sĩ
quan trẻ Binh chủng Đặc công yêu cầu sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao trở thành cơ sở cho giá trị đạo đức mưu trí đặc biệt linh
hoạt, quyết tâm đặc biệt cao, đặc biệt dũng cảm.
Nội bộ đặc biệt đoàn kết, với dân đặc biệt thân ái. Đây là chuẩn mực cơ
bản trong giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ BCĐC. Tình đồng chí
đồng đội gắn bó keo sơn, tình quân dân như cá với nước được ghi ở lời thế
thứ 6 và lời thế thứ 9 trong mười lời thề danh dự của quân nhân cách mạng.
Xuất phát từ chính tình yêu thương con người trong giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc và bản chất truyền thống tốt đẹp quân đội của giai cấp vô
sản. Các quan hệ của sĩ quan trẻ BCĐC trước hết là quan hệ của một quân
nhân trong QĐNDVN, tức là trong quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, quan hệ
với cấp trên được đặt trong mối quan hệ giữa con người cùng dân tộc, cùng
20



giai cấp, cùng lý tưởng cách mạng. Do tính chất nhiệm vụ, đặc điểm tác chiến
thường độc lập sâu xa trong lòng địch với quân số ít, vũ khí trang bị gọn nhẹ,
trong BCĐC tình cảm đồng chí, đồng đội, tình cảm quân dân càng trở nên gắn
bó, yêu thương đùm bọc đặc biệt.
Sĩ quan trẻ phải hết lòng yêu thương đồng chí đồng đội, thương yêu
chiến sĩ, đồng cam cộng khổ, coi chiến sĩ như ruột thịt của mình. Trong chiến
đấu chiến sĩ là người cuối cùng thực hiện mệnh lệnh, mục tiêu có bị tiêu diệt,
nhiệm vụ có được hoàn thành hay không phụ thuộc rất lớn vào hành động của
chiến sĩ. Trong đời sống chia ngọt sẻ bùi, vui cùng niềm vui của chiến sĩ,
buồn cùng nỗi buồn của họ, chiến sĩ đói cán bộ không được kêu đói, chiến sĩ
ngủ chưa ấm cán bộ không được kêu lạnh. Trong huấn luyện sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu tận tình chu đáo, tỉ mỉ giúp đỡ sửa sai, rèn luyện thuần thục
động tác kỹ chiến thuật, nâng cao bản lĩnh chiến đấu cho chiến sĩ thuộc
quyền. Với cấp trên kinh trọng, lễ phép cầu tiến bộ, ham học hỏi. Thực sự trở
thành hạt nhân đoàn kết ở đơn vị.
Xuất phát từ nghệ thuật chiến tranh nhân dân, chiến tranh du dích phát
trienr đặc biệt cao mà hình thành và phát triển nghệ thuật tác chiến, lực lượng,
tổ chức biên chế và cách đánh đặc công. Suốt quá trình chiến đấu xây dựng và
trưởng thành các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đặc công đã gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, dựa vào dân để chiến đấu và chiến thắng. Sĩ quan trẻ BCĐC là người
trực tiếp chỉ huy đơn vị xây dựng địa bàn, điểm đứng để thực hiện nhiệm vụ
thì tự mình phải gắn bó mật thiết với nhân dân và chỉ huy phân đội chủ động,
tích cực xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện tốt 12
điều kỷ luật khi quan hệ tiếp xúc với nhân dân.
Kỷ luật đặc biệt nghiêm minh. Đây là chuẩn mực đạo đức phán ảnh sắc
thái riêng trong tổ chức quân sự và hoạt động quân sự. Lịch sử dân tộc Việt
Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước gắn với giữ nước, lịch sử lao động sản
xuất gắn với đấu tranh quân sự. Hoạt động quân sự luôn song hành cùng các

21


hoạt động sống khác của dân tộc. Một dân tộc nhỏ bé để chiến thắng kẻ thù
lớn mạnh, cả dân tộc phải trở thành một đội quân đoàn kết thống nhất. Trái
ngược với dấu ấn văn hóa phương đông, văn hóa lúa nước trong đời sống
hàng ngày. Con người sống phụ thuộc, hòa quyện với thiên nhiên và văn hóa
làng xã, con người Việt Nam nói chung ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật
không cao. Trong thời đại mới, trước yêu cầu sự nghiệp cách mạng thì yêu
cầu cao về kỷ luật tự giác nghiêm minh được phát triển thành nét truyền thống
tốt đẹp, trở thành chuẩn mực đạo đức quân nhân và là nơi kết tinh cô đọng giá
trị đạo đức truyền thống quân đội ta
Kỷ luật đặc biệt nghiêm minh của sĩ quan trẻ BCĐC do tính đặc thù
trong huấn luyện chiến đấu, chiến đầu, công tác và được thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực hoạt động quân sự như: học tập, huấn luyện, lao động sản xuất,
công tác... và được thực hiện ở mọi thời điểm, cả trong đơn vị, cả khi công tác
dã ngoại, sống trong nhà dân. Hơn thế, sĩ quan trẻ BCĐC ngoài tự giác chấp
hành còn là người đi giáo dục, rèn luyện phân đội thuộc quyền thực hiện nên
còn là tấm gương sáng về chấp hành kỷ luật tự giác nghiêm minh cho cán bộ,
chiến sĩ quán triệt và làm theo. Tự mình giữ nghiêm kỷ luật chưa đủ mà còn
đặt ra yêu cầu cao đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền cùng thực hiện, sĩ
quan trẻ còn phải biết quản lý tốt kỷ luật của phân đội, giáo dục rèn luyện cán
bộ chiến sĩ, đồng thời kiên quyết đấu tranh với hành vi vi phạm kỷ luật giữ
nghiêm kỷ luật. Không ngại khó khăn, gian khổ chấp hành nghiêm kỷ luật của
sĩ quan trẻ BCĐC mang lại cho họ sự vui sưởng của lương tâm, mà còn tạo ra
dư luận tập thể quân nhân, dư luận xã hội tốt đẹp thôi thúc cán bộ, chiến sĩ
thuộc quyền học tập và làm theo.
1.1.2. Quan niệm về phát triển giá trị đạo đức truyền thống của Sĩ
quan trẻ Binh chủng Đặc công
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phát triển là một trong hai

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít, là dạng đặc biệt
22


của vận động, phản ánh xu hướng tiến lên cả về số lượng và chất lượng của sự
vật. Phát triển là tự thân trên cơ sở nhu cầu giải quyết mâu thuẫn nội tại không
thể điều hòa giữa các mặt đối lập, bằng cách đi từ những thay đổi về lượng đi
đến bước nhảy về chất tại điểm nút, thông qua hai lần phủ định cho cái mới ra
đời trên cơ sở cái cũ nhưng ở trình độ cao hơn. Phát triển là quá trình kế thừa
cái cũ còn giá trị đồng thời gia tăng yếu tố mới để làm nên chất mới, không
phải là phủ định sạch trơn loại bỏ hoàn toàn cái cũ. Từ đó có thể quan niệm
phát triển giá trị đạo đức truyền thống của Sĩ quan trẻ BCĐC như sau:
“Phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh chủng
Đặc công là quá trình liên tục vừa kế thừa, lọc bỏ đạo đức truyền thống, vừa
xây dựng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng nhằm kết tinh ngày cáng nhiều ý
thức và hành vi đạo đức của sĩ quan trẻ trong khuân mẫu lý tưởng, quy tắc
ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống Binh chủng Đặc công;
góp phần nâng cao phẩm chất, năng lực của sĩ quan trẻ Binh chủng Đặc
công sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao”.
Phát triển giá trị đạo của Sĩ quan trẻ BCĐC là quá trình khách quan
nhưng có mục đích. Tính mục đích chi phối quá trình nhận thức, tác động và
định hướng mọi hoạt động của các chủ thể. Tuy nhiên, hoạt động có mục đích
của con người không thể vượt qua được tính quyết định của điều kiện khách
quan với hoạt động của chủ thể. Việc xác định đúng mục đích biểu hiện tính
năng động, sáng tạo của chủ thể, đồng thời góp phần làm sáng tỏ nội dung,
cách thức phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ BCĐC. Mục
đích phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ BCĐC là nhằm
kết tinh ngày càng nhiều ý thưc và hành vi đạo đức của sĩ quan trẻ vào
khuân mẫu lý tưởng, quy tắc ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền
thống Binh chủng Đặc công. Quá trình diễn ra đồng thời hai nội dung là giữ

lại những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức truyền thống còn giá
trị và xây dựng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng vào khuân mẫu lý tưởng, quy
23


tắc ứng xử, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống Binh chủng Đặc
công, đồng thời kết tinh ý thức, hành vi của sĩ quan trẻ vào khuân mãu lý
tưởng, quy tắc ứng cử và chuẩn mực. Tức là làm chuyển hóa, nâng lên trình
độ mới về tính tự giác chấp hành điều chỉnh hành vi của Sĩ quan trẻ theo
quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực của giá trị đạo đức truyền thống
và bản thân đóng góp của sĩ quan trẻ vào quá trình bồi đắp truyền thống của
binh chủng, quân đội và dân tộc.
Sĩ quan trẻ BCĐC đã có hiểu biết về truyền thống dân tộc, truyền thống
QĐNDVN, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị văn hóa dân tộc và
văn hóa quân sự, đồng thời hình thành thói quen lối sống quân sự. Tuy nhiên,
thời gian đào tạo ngắn, kinh nghiệm còn thiếu, tuổi trẻ năng động sáng tạo
những rất dễ thay đổi thói quen nếu không được thường xuyên bồi dưỡng, rèn
luyện để phát triển lên một tầm cao mới. Đặc biệt là những thói quen, hành vi
theo chuẩn mực đạo đức truyền thống rất khó để sửa chữa và cải biến phát
triển để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sĩ quan trẻ hiện nay. Vì thế, quá trình
công tác tại BCĐC, sĩ quan trẻ cần tiếp tục được bồi dưỡng và đào tạo lại theo
nhu cầu của đơn vị, theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhất là về đao đức cách
mạng của người quân nhân, người sĩ quan quân đội của một quân đội anh
hùng, của một binh chủng anh hùng.
Chủ thể phát triển giá trị đạo đức truyền thống của sĩ quan trẻ Binh
chủng Đặc công là cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp, cơ quan chuyên môn,
các tổ chức quần chúng trong Binh chủng và bản thân mỗi sĩ quan trẻ.
Hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng từ Đảng ủy Binh chủng xuống cấp ủy,
chi bộ ở cơ sở là chủ thể lãnh đạo quá trình phát triển giá trị đạo đức của Sĩ
quan trẻ BCĐC. Là nơi trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra mục tiêu giải pháp

cụ thể cho quá trình này. Hệ thống chỉ huy các cấp từ Bộ tư lệnh tới cấp Đội
là chủ thể trực tiếp quán triệt triển khai thực hiện nghị quyết lãnh đạo của cấp
ủy đảng cấp trên và cấp mình bằng kế hoạch, chương trình phát triển giá trị
24


×