MỤC LỤC.
Phần mở đầu .................................................................................................2
1. Đặt vấn đề..................................................................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu của vấn đề.............................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài........................................................2
Phần nội dung................................................................................................3
Chương 1. Sự ra đời và nội dung của Nho giáo..........................................3
1.1 Những đặc điểm kinh tế chính trị xã hội của Trung Hoa cổ đại..................3
1.2 Sự ra đời và những nội dung của Nho giáo...................................................4
1.2.1 Tiểu sử người sang lập ra Nho giáo.............................................................4
1.2.2 học thuyết chính trị của Khổng Tử.............................................................5
1.2.3 Sự hình thành và nội dung của Nho giáo....................................................8
1.2.3.1 Nội dung.....................................................................................................8
1.2.3.2 Sự phát triển của nho giáo ....................................................................10
Chương 2. sự du nhập và phát triển của Nhoa giáo ở Việt Nam......................12
2.1 Sự du nhập và phát triển Nho giáo ở Việt Nam..........................................12
2.2 vai trò của Nho giáo trên con đường cách mạng ở Việt Nam.....................14
Kết luận........................................................................................................17
Tài liệu tham khảo.......................................................................................18
1
Phần: MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chúng ta đang sống trong thời đại phát triển của khoa học, kỹ thuật. không vì
lẽ đó mà chúng ta lãng quên được vai trò của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng và
ảnh hưởng của nó trong xã hội ta. Cũng giống như một số nước châu Á khác Nho
giáo đã từng bao đời là hệ tư tưởng chính trị trong kiến thức thượng tầng của Việt
Nam. Nho giáo đã từng giúp cho người cầm quyền Việt Nam xây dựng một hệ
thống hành chính và quản lýxã hội bao gồm những trí thức được đào tạo công phu
về kiến thức, về cách ứng xử xã hội, về phẩm chất kẽ làm quan. Chính vì lí do đó
mà em đã chọn đề tài “Nho giáo và sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam”
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA VẤN ĐỀ.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến việt nam, vai trò của Nho giáo đối với xã hội
và cách mạng Việt Nam là đối tượng mà chúng ta cần nghiên cứu. Mặt khác, ta
cũng cần tìm hiểu về lịch sử ra đời, tiểu sử người sáng lập, nội dung của Nho giáo.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Chúng ta phải lập đề cương liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, sau đó là
tham khảo các tài liệu có liên quan đến vấn đề nho giáo, sự phát triển của nho giáo
ở Việt Nam. Sau đó rút ra những ý chung nhất, khái quát nhất của vấn đề trên.
2
Phần: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CỦA NHO GIÁO
1.1 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA TRUNG HOA
CỔ ĐẠI.
Có thể nói cùng với Ấn độ Trung Hoa là cái noi của nền văn minh phương
Đông nói riêng và của nhân loại nói chung. Với những phát minh vĩ đại trên mọi
lĩnh vực khoa học tự nhiên, Trung Hoa cũng là quê hương của những hệ thống triết
học lớn. Trải qua gần 40 thế kỹ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung Hoa bao
hàm nội dung cực kỳ phong phú, với những hệ thống triết học đồ sộ và sâu sắc.
Trung hoa là một nước lớn, dân đông bằng cả châu Âu, với địa hình một bên
là biển cả một bên là những dãy núi cao rất cao và một sa mạc rộng lớn bao bọc.
Đất nước Trung Hoa núi non hiểm trở, sông nước mênh mông nắng sương hòa hợp
với nhau đã tô điểm nên núi non hung vĩ. Người Trung Hoa tự hào gọi tên của mình
là Trung Hoa quốc- nghĩa là nước ở giữa, nước tươi tốt nở hoa.
Triết học Trung Hoa cổ đại phản chiếu một thời đại lịch sử rất dài từ thiên
niên kỹ thứ 2 đến đầu công nguyên với hai sự kiện quan trọng:
• Sự quá độ từ công xã nông thôn tiến tới hình thành các quốc gia phong
kiến, tiêu biểu là Tầng Thủy Hoàng thống nhất giang sơn thu về một mói
xây dựng quốc gia phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Trung
Hoa.
• Quá trình chuyển hoá từ công xã nông thôn tới việc hình thành các quốc
gia nô lệ kéo dài vài ba ngàn năm trước công nguyên. Thời kỳ này có
những phát minh quan trọng như: Toại Nhân tìm ra lửa để nấu chính thức
ăn, Phục Hy phát minh ra lưỡi săn thú bắt cá, chăn nuôi thuần hóa gia
súc, thần Nông phát minh ra cách trồng lúa nước làm ra lưỡi cày tổ chức
chợ cho nông dân buôn bán, tìm ra nhiều thứ cây để trị bệnh… những
phát minh quan trọng này đưa sản xuất phát triển cao làm xuất hiệc chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất dẫn tới việc phân hóa dân cư và hình thành
giai cấp.
3
Dân cư Trung Hoa cổ đại quy tụ trên ba khu vực chính, các chủng tộc hoa
Bắc ở phía Tây Bắc thuộc các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây và cuộc sống du mục săn
bắn là chủ yếu. Họ sẵn sang thôn tín các dân tộc kém phát triển hơn đồng hóa hoặc
du nhập các nền văn hóa. Cuộc sống du mục với điều kiện tác động khắc nghiệt của
tự nhiên là điều kiện thuận lợi để nảy sinh tư tưởng ngủ hành. Các chủng tộc Tam
Miêu sống ở khu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử. Họ sống bằng nghề nông luôn
luôn phải trị thủy nên toán học rất phát triển. Còn các dân tộc bách Việt sống ở khu
vực phía nam sông Dương Tử họ tổ chức xã hội thành quốc gia riêng, yêu chuộng
tự do kinh tế phát triển, dệt vải bông tơ lụa có sản phẩm quý như ngọc trai ngà
voi… văn minh Trung Hoa ảnh hưởng rất nhiều văn minh này.
Thời xuân thu – chiến quốc: bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Chu cho đến khi
hình thành nhà Tần. Dưới thời đại nhà Chu, sản xuất phát triển chuyên môn hóa cao
hình thành các thành thị phong kiến sự phân hóa về lợi ích trong giai cấp chủ nô đã
làm tan rã nhà Chu thành 7 nước lớn gọi là thất hùng: Tần (kinh đô Hàm Dương –
Thiểm Tây ngày nay; Sở kinh đô Đất Sính – Hồ Bắc); Tề (kinh đô ở Lâm Tri Sơn
Đông); Ngụy (kinh đô ở Đại Lương Hà Nam); Triệu (kinh đô ở Hàm Đan Hà Bắc);
Yên (kinh đô ở Ký Gần Bắc Kinh). Xuân thu là thời kỳ chiến tranh liên miên giữa 7
nước nhằm chia lại đất đai và giành quyền bá chủ. Sau đó Tần giành quyền bá chủ
(221 trCN) chia Trung Hoa thành 36 quận nhà Tần chỉ tồn tại 15 năm thì bị nhà Hán
diệt, cũng trong thời kỳ này tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, tư
tưởng triết học có hệ thống được hình thành. Lịch sử gọi thời kỳ này là “bách gia
tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). chính trong thời kỳ này xuất hiện những nhà
tương tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, với
những tư tưởng cơ bản của nó, đã tồn tại trong suốc quá trình phát triển của lịch sử
tư tưởng Trung Hoa, trong đó có 5 trường phái: Âm – Dương gia, Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia và Pháp gia có ảnh hưởng lớn hơn cả.
1.2 SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG NỘI DUNG CỦA NHO GIÁO
1.2.1 TIỂU SỬ NGƯỜI SÁNG LẬP RA NHO GIÁO
Khổng Tử người lập ra học thuyết Nho, lập ra Nho giáo nhà tư tưởng vĩ đại
của Trung Hoa trong thời cổ Đại. Khổng Tử người làng Xương Bình, huyện Khúc
Phụ tỉnh Sơn Đông hạ lưu song Hoàng Hà. Khổng Tử tên là Khâu sinh vào năm thứ
4
hai mươi mốt thời Chu linh vương (551 trCN) tổ tiên Khổng Tử thuộc vào dòng dõi
quý tộc nước Tống đã mất thân thế quý tộc vào khoản trước Khổng Tử mấy đời,
ông tổ ba đời sang nước Lỗ Sơn Đông. Sách Tử ký nói “Khổng tử nghèo và hèn” và
chính Khổng Tử đã nói “ta thuở nhỏ nghèo và hèn nên biết nhiều nghề mọn”. Cha
của Khổng Tử tên là thúc lương Ngột làm quan võ, vợ cả họ Thi sinh 9 người con
gái vợ lẽ sinh một con trai tên Mạnh Bì, tự Bá Ni bị què một chân. Sợ không người
kế tự, năm 70 tuổi Thúc Lương Ngột đến cầu hôn bà họ Nhan. Bà họ Nhan thấy
chồng đã nhiều tuổi lo rằng không sinh được con trai nên đã cùng chồng lên núi Ni
Khâu cầu tự sinh ra Khổng Tử. Khổng Tử được 3 tuổi thì cha mất. ông sống với mẹ
trong cảnh nghèo, khi lớn lên mẹ cho đi học. ông chơi với trẻ hang xóm thích bày
đồ cúng tế.
Khổng Tử năm 15 tuổi lập chí cố gắng học tập và học rất giỏi. Năm 19 tuổi
ông lấy vợ là con cháu họ Thương quan nước Tống năm 20 tuổi sinh một con trai
đặt tên là Khổng Lý tự Bá Ngư. Năm 23 tuổi li dị, hình như từ đó ông không tục
huyền nữa. Khổng Tử người cao lớn và có nhiều tướng lạ như: mắt lồi cổ có lộ hầu,
tai to, răng lộ, lỗ mũi rộng (ngũ lộ) bàn tay như cọp, ngực như rùa, râu rậm, trán gồ
cao lên, miệng rộng môi như môi trâu đi nhanh. Ông mất ngày 18 tháng 2 năm 479
trCN hưởng thọ 73 tuổi được an táng ở phía bắc kinh thành nước Lỗ trên bờ sông
Tứ. Sau khi Khổng Tử mất các học trò lập đền thờ ngay tại nhà ông để tang 3 năm.
1.2.2 Học thuyết chính trị của Khổng Tử
Lý tưởng của khổng tử là phục hưng lễ nhà Chu. Vấn đề Khổng Tử quan tâm
là làm sao cho xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ được ổn định và biện pháp của ông là
khôi phục đường lối Đức trị và Lễ trị thời Tây Chu. Để thực hiện lý tưởng của mình
ông xây dựng học thuyết Nhân-Lễ-Chính-Danh, đây là 3 phạm trù quan trong trong
toàn bộ học thuyết của Khổng Tử. Theo ông, “nhân” là nội dung, “lễ” là hình thức
của “nhân” và “chính danh” là con đường để đạt đến điều “nhân”.
* Thuyết về chữ “nhân”.
Trung tâm học thuyết của khổng tử là chữ nhân, với một phạm vi bao quát
rộng lớn. Khổng tử không nói rõ một cách tập trung chữ nhân bao gồm những nội
dung gì. Song có thể thấy được gốc của chữ nhân theo quan niệm của Khổng Tử là
hiếu đễ. “Nhân còn gồm nhiều tiêu chuẩn đạo đức khác nữa như: trung, hiếu, cung
5
kính, khoan hòa, chính đáng, thật thà, khiêm tốn, dũng cảm… tự trách mình hơn là
trách người biết yêu người đáng yêu ghét người đáng ghét. Như vậy, đức nhân trong
Nho giáo không chỉ là thương người mà thực chất là đạo làm người. Chữ Nhân có ý
nghĩa tích cực, mang tính chất nhân bản, nhưng mặt khác chữ nhân còn bao hàm sự
thừa nhận chế độ đẳng cấp và quan hệ tong pháp (lấy quan hệ huyết thống làm cơ
sở, với việc xác định vị trí chính trị và quyền kế thừa tài sản của con đích trưởng đối
với cha). Nhân không phải chỉ có yêu mà cả có ghét: “duy chỉ người có đức nhân
mới có thể yêu người, ghét người” (luận ngữ).
Học thuyết chữ nhân của khổng tử có rất nhiều điều, nhiều yêu cầu nhưng
chung quy lại là “đối với mình và đối với người”, thể hiện mói quan hệ giữa người
với người. Tình thương được gọi là long nhân ái, nhân đạo dựa trên cơ sở đạo đức.
Nhân đạo này dựa trên hai nguyên tắc:
+ Nguyên tắc thứ nhất: “cái gì mình mong muốn thì cũng mong muốn cho
người khác và ngược lại”.
+ Nguyên tắc thứ hai: “mình lập than bằng cách giúp người lập thân”
Muốn có nhân thì phải:
+ Trừ bỏ tính tham lam, ích kỷ, biết hạn chế dục vọng.
+ Phải biết nhận ra chân lý và hành động theo chân lý.
+ Phải có sức khỏe can đảm để bảo vệ chân lý
Thực chất của nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
làm được điều đó, điều cốt lõi là đào tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu –
người lý tưởng đó là người quân tử.
Người quân tử phải có 3 điều:
- Có đức nhân thì chẳng việc gì lo buồn
- Có đức trí thì chẳng bao giờ nhầm lẫn
- Có đức dũng thì chẳng bao giờ kinh sợ
+ Với người làm chính trị trên chính trường cần có 5 điều:
- Kính dân
- Khoan dung độ lượng
- Giữ lòng tin
- Mẫn cán
6
- Đem lòng nhân ái đối xử với dân
+ Với quân vương trị vì đất nước:
- Kính sự: chăm lo đến việc công
- Nhi tín: giữ long tin với dân
- Tiết dụng: tiết kiệm
Khổng Tử xem nhân lá phạm trù cao nhất của luân lý đạo đức, là phạm trù
trung tâm của học thuyết chính trị của mình. Quan niệm về nhân của Khổng Tử
không rõ rang nhất quán, tùy vào phẩm hạnh, năng lực, hoàn cảnh mả thể hiện.
Nhân trong học thuyết của Khổng Tử chỉ tầng lớp trên của xã hội. Ông luôn luôn
đối lập hai hạng người: quân tử và tiểu nhân. Hai hạng người này đối lập nhau về
chính trị, về luân lý đạo đức.
Như vậy nội dung lớn toát lên trong phạm trù nhân của Khổng Tử là nhân
đạo thương người. Điều này cũng phù hợp với nhân sinh quan của ông là mong
muốn một xã hội mọi ngườitrên dưới điều yêu thương nhau theo phận vị của mình.
Tuy nhiên, học thuyết nhân của khổng tử vẫn chưa đạt tới nhân đạo chân chính đích
thực với ý nghĩ đầy đủ của phạm trù này.
* Thuyết Chính Danh.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại danh và thực oán trách nhau, vua không
làm đúng hiệu vua, tôi không làm đúng danh hiệu tôi… ông cho rằng vì thế mà xã
hội rối loạn. Từ đó ông đưa ra thuyết chính danh định phận làm căn bản cho việc trị
nước. Chính Danh là danh (tên gọi, chức vụ…) và Thực (thực sự của người đó, bao
gồm cả nghĩa vụ và quyền lợi) phải phù hợp với nhau. Danh và phận của mỗi người
trước hết do các mói quan hệ xã hội quy định. Theo quan niệm của Khổng Tử mọi
người mọi vật điều có giá trị sử dụng nhất định nếu biết dung sẽ hữu ích.
Khổng Tử là người đầu tiên vận dụng phạm trù chính danh để giải quyết
những vấn đề hiện thực xã hội, nhằm phục vụ mục đích chính trị của mình.
* Thuyết về Lễ.
Lễ đóng vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức và đời sống chính trị, lễ là
hình thức của nội dung nhân. Theo quan niệm của khổng tử nhân gắn chặt với lễ.
Có thể coi lễ là phương thức giúp người ta đạt tới chữ nhân. Như vậy nhân và lễ chỉ
là hai mặt của một vấn đề, nhân là chuẩn để quy định lễ, lễ là phương tiện đệ thực
7
hiện nhân. Nhân và lễ là hạt nhân tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, từ nhân và lễ có
thể diễn dịch ra cả một hệ thống các khái niệm đạo đức như trung, hiếu, nghĩa, tín…
Lễ là toàn bộ nghi lễ chuẫn mực trong quan hệ giữa người với người, từ hành
vi ngôn ngữ cho đến trang phục… nếu như học thuyết chính danh xét về mục đích
là biểu hiện tư tưởng bảo thủ của Khổng Tử thì học thuyết về lễ bộc lộ rõ tính 2
mặt: bảo thủ và tiến bộ trong tư tưởng của ông: lễ của nhà Chu thuần túy là hình
thức thể hiện hành vi và ý thức của tôn giáo có tính chất điều, Khổng Tử đã biến lễ
thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và có nội dung khác. Ông phản đối đấu tranh
của quàn chúng bị áp bức. Ông khuyên họ nghèo mà vui, nghèo mà không oán, lấy
hòa làm quý. Rõ ràng quan điểm về lễ của Khổng Tử là nhằm điều hòa mâu thuẩn
trong xã hội, cũng cố địa vị cho giai cấp thống trị.
Toàn bộ các học thuyết về nhân, chính danh, lễ… của Khổng Tử nhằm mục
đích là phục vụ đường lối chính trị: đức trị, lễ trị. Ông cho rằng, làm chính trị tức là
“chỉnh sửa xã hội từ hổn loạn trở nên ổn định”. Muốn được như vậy, trước hết
người cầm quyền phải gương mẫu lấy cái đức của mình mà cảm hóa mọi người
khiến mọi người quy thuận. Khổng Tử phản đối cai trị bằng pháp chế và hình phạt
làm như vậy thì dân sợ mà không phục.
1.2.3 SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO.
Quan điểm triết học của Khổng Tử qua các tác phẩm của ông san dịch lại
như: kinh dịch, kinh thư, kinh thi, kinh lễ và kinh xuân thu. Ông hệ thống hóa
những tư tưởng tri thức đời trước và những quan điểm của ông thành học thuyết đạo
đức – chính trị nổi tiếng gọi là Nho giáo.
1.2.2.1 Nội dung
Để tổ chức xã hội điều cốt lõi là đào tạo cho được những người cai trị kiểu
mẫu, người quân tử, để trở thành người quân tử trước hết phải tu thân, có 3 tiêu
chuẩn chính:
1. Đạt “đạo” đạo là con đường là những mói quan hệ mà con người phải
biết cách ứng xử trong cuộc sống, có 5 đạo: vua tôi, cha con, vợ chồng,
an em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu) năm đạo
đó là ngũ luân (luân bằng thứ bậc, cư xử) trong xã hội cách ứng xử hợp lý
hơn cả là trung dung (dung hòa ở giữ).
8
2. Đạt “đức” người quân tử theo Khổng Tử nếu có 3 điều nhân – trí – dũng
thì gọi là đạt đức. về sau Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức: nhân, lễ, nghĩa, trí. Đến đời Hán thêm “tín” thành ngủ
thường
3. Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức người quân tử còn phải biết thi thư lễ
nhạc, Khổng Tử nói rằng con người hưng khởi trong lòng là nhờ học
“thi”, lập thân được là nhờ biết “lễ”, thành công được là nhờ có nhạc
(luận ngữ). Nói cách khác ông đòi hỏi người cai trị không phải là người
dân võ biền mà phải có một vốn văn hóa toàn diện
Tu thân rồi bổn phận của người quân tử là hành động phải tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ kim chỉ nam cho mọi hành động trong công việc cai trị là 2 phương
châm:
Phương châm thứ nhất là nhân trị, nhân là tình người nhân trị là cai trị bằng
tình người, coi con người như bản thâ mình. Sách luận ngữ kể rằng ki học trò hỏi về
nhân Khổng Tử đáp “yêu người” còn khi hỏi thế nào là nhân ông trả lời “điều gì
mình không muốn thì đừng làm cho người khác” “mình muốn lập thân thì phải giúp
người khác lập thân mình muốn người khác thành đạt thì phải giúp người khác
thành đạt”.
Phương châm thứ hai là chính danh, chính danh tức là sự vật phản ứng với
tên gọi mỗi nngười phải ứng với chức phận của mình. Chính danh trong cai trị là
phải làm sao vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (luận ngữ). Nếu danh
không chính thì lời nói không thuận tất việc chẳng thành ( luận ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong kinh sách của học thuyết
nho giáo. Gọn hơn nữa, đó đã được những người sáng lập ra nho giáo tóm gọn trong
9 chữ tu thân, tề gia tị quốc bình thiên hạ và 9 chữ ấy cũng nằm trong 2 chữ cai trị
mà thôi.
1.2.2.2 Sự phát triển của nho giáo.
Xét về ngọn nguồn có thể thấy Nho giáo chính là sự tổng hợp của hai truyền
thống văn hóa du mục phương bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam
* Tin hoa của truyền thống du mục phương Bắc mà Nho giáo nguyên thủy
tiếp thu thể hiện nổi bật ở các đặc điểm sau:
9
Thứ nhất là tham vọng “bình thiên hạ”coi nhẹ quốc gia. Gốc của tham vọng
này là truyền thống trọng sức mạnh của văn hóa gốc du mục thể hiện trong chử
“dũng” 1 trong 3 đức của Nho giáo mà Khổng Tử đã đề ra.
Quan niệm về một xã hội trật tự ngăn nắp có tôn ti rõ ràng thể hiện qua
thuyết chính danh, cũng là một sản phẩm của truyền thống văn hóa gốc du mục
phương Bắc với nếp sống chặc chẽ kỹ cương được đảm bảo bằng sức mạnh.
* Còn tin hoa truyền thống của nông nghiệp phương Nam.
Việc đề cao chữ nhân và nguyên lý nhân trị có nguồn gốc từ lối sống trọng
tình của người nông nghiệp phương Nam. Nho giáo nguyên rất coi trọng văn hóa
đặc biệt là văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc)
Sự phức tạp về nguồn gốc gây nên tính bi kịch của Nho giáo. Cái Nho giáo
mà Khổng Tử tốn bao công gây dựng nên, vừa có thể nói là rất thành công, lại vừa
có thể nói là nó thất bại.
Thất bại bởi trong khi các bật đế vương vốn quen cầm quyền theo lối chuyên
chế bằng vũ lực và pháp trị thì Khổng Tử khuyên họ cầm quyền theo lối nhân trị.
Chính vì đi ngược lại xu thế chung như vậy cho nên sinh thời Khổng Tử hầu như
chẳng ai dùng. Về già ông đã trên một lần tiên đoán về sự suy tàn của đạo mình “ta
đã suy lắm rồi từ lâu không còn mộng thấy Chu Công” (luận ngữ) “thiên hạ không
có đạo đã lâu rồi, không ai biết theo ta”. Khi sắp mất nghe đồn có người bắt được
con kì lân bị què chân trái Khổng Tử nước mắt giàn giụa mà nói “đạo của ta đã đến
lúc tàn rồi”.
Năm 246 TCN Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực thống nhất thiên hạ áp dụng
một chính sách cai trị bằng pháp luật độc đoán vào bật nhất nó đối lập hoàn toàn với
chủ trương cai trị bằng tình người dân chủ của Nho gia, mâu thuẩn đó là nguyên
nhân tất yếu dẫn đến việc nhà Tần tiêu diệt Nho giáo với hành đồng tàn bạo đốt
sách chôn Nho nổi tiếng.
Theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế (140-25 TCN) là ông vua
đầu tiên đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Từ đây Nho giáo trở thành hệ tư tưởng
chính thống và công cụ tinh thần bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốc 2 nghìn
năm lịch sử. Không những thế nó còn được truyền bá khắp nước đông Á. Khổng Tử
10
được tôn lên bật thánh, trên thế giới tên tuổi của ông không ai là không biết. Nhìn
vào sự kiện hiển nhiên này ai lại chẳng nói rằng Nho giáo đã rất thành công.
11
CHƯƠNG 2 SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO Ở
VIỆT NAM
2.1 SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM
Chúng ta điều biết rằng: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo được du nhập vào
Việt Nam từ lâu và có vai trò đáng kể trong hoạt động tư tưởng và văn hóa của nhân
dân. Những trào lưu ấy đã được cải biến cho phù hợp với những truyền thống của
nhân dân và nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của chính nền văn hóa và hệ
tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Nghiiên cứu về Nho giáo không thể tách rời với Phật
giáo, Đạo giáo
Ngay từ thời Bắc thuộc Phật giáo đã có ưu thế hơn nho giáo trong khi Nho
giáo chỉ dừng lại ở những tầng lớp trên chung quanh chính quyền ngoại ban thì Phật
giáo đã xâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền của đất nước.
Trong khi Nho giáo biện hộ cho kẻ xâm lượt và áp bức thì những nhà sư đi
sát cuộc sống của nhân dân nêu cao lòng từ bi bát ái của Đạo Phật, giáo dục tinh
thần đoàn kết trong nhân dân lao động. Trong khi Nho giáo gò bó con người vào trật
tư chính trị đương thời thì Phật giáo kết hợp được mọi truyền thống của dân tộc,
giáo dục tình yêu thương đối với những con người đau khổ khuyến khích tinh thần
chiến đấu chống lại sự nô dịch và bốc lột
Những lãnh tụ gắn bó với nhân dân đã cùng với nhân dân gạt bỏ những tiêu
cực của Phật giáo biến nó thành một học thuyết của nhân dân và chiến đấu. Nhà sư
Khuông Việt một trong những người đứng đầu Phật giáo tuyên bố ông theo đạo
Phật nhưng không nhất thiết phải đi theo con đường mà Phật tổ đã đi.
Qua các triều đại Đin, Lê, Lý, Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV) các vua
chúa Việt Nam những người có đóng góp to lớn vào sự độc lập và phồn vin của tổ
quốc, lại là những người tôn sung đạo Phật. Tuy nhiên trong quá trình cũng cố trật
tự phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước tầng lớp thống trị Việt Nam cảm thấy
không chỉ dựa riêng vào Phật giáo mà cần phải có một học thuyết tích cực hơn Nho
giáo đã đáp ứng yêu cầu ấy.
12
Từ chổ không được yêu thích trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam, Nho
giáo dần dần giữ một vị trí càng tăng trong việc đề cao uy quyền của nhà vua, xây
dựng một hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới bảo đảm mói quan hệ chặc chẽ
giữa nhà nước và nhân dân.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ
của nó nữa. Nó đã được Việt Nam hóa như nó được Nhật bản hóa ở Nhật Bản, Triều
Tiên hóa ở Triều Tiên. Nho sĩ Việt Nam vì lợi ích xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã
khai thác những quan điểm tích cực của Nho giáo để khẳn định những giá trị truyền
thống của dân tộc.
Nho giáo vốn đặt mói quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ
người với người, các nhà Nho Việt Nam cũng đã nhấn mạnh mối quan hệ này
nhưng họ không đến nỗi ngu trung như thường thấy ở các nho sĩ lúc khác, nơi khác.
Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân
dân. Họ đã ủng hộ Lê Hoàn, Lý công Uẩn, Trần Thủ Độ khi những ông này gạt bỏ
các vua quan bất lực của triều đại cũ lập nên triều đại mới.
Nho giáo vốn coi vị hoàng đế của tổ quốc là một nhân vật tối thượng mà tất
cả các nước điều phải phục tùng và kính nể nhưng khi vị hoàng đế ấy đi xâm lược
thì Nho sĩ Việt Nam coi hắn như kẽ thù khi vua nhà Minh nhân danh thiên tử sang
chinh phục Việt Nam thì Nguyễn Trãi đã gọi hắn là “thằng nhãi con Tuyên Đức”.
Nhân nghĩa vốn là hai phạm trù trung tâm đứng hàng đầu trong năm giá trị
cơ bản của đạo đức Khổng giáo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nhân nghĩa trong Khổng
giáo là tình cảm sâu sắc nghĩa vụ thiêng liêing của bề tôi đối với nhà vua, của con
đối với cha, của vợ đối với chồng nhưng ở Nguyễn Trãi và các nhà trí thức Việt
Nam thì “điều cốt lõi trong nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống
thanh bình và độiu quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt đội quân tàn bạo (Bình
Ngô đại cáo).
Cùng với việc truyền bá Nho giáo vào nhân dân, nho sĩ Việt Nam đã có
những đóng góp đáng kể. Các Nho sĩ Việt Nam trong thời kỳ này đã tránh được sự
rang buộc của chủ nghĩa duy tâm vốn tồn taịa ở cả Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.
Ngay cả vua nhà Trần như Thái Tông, Nhân Tông những người tiêu biểu cho thiền
học lại là những anh hùng chỉ đạo cuộc chiến đấu anh hùng chống quân Nguyên.
13
Ngay những quan điểm vô thường của nhà Phật lúc đó cũng khuyến khích được đức
tính hy sinh coi thường sống chết trong cuộc chiến đấu chống xâm lược.
Nhưng tấm huân chương có mặt trái của nó, Nho giáo dù được Việt Nam hóa
và đưa những nhân tố tích cực vào tư tưởng truyền thống của Việt Nam, nhưng mặt
tiêu cực của nó là cũng rất trầm trọng. Để có sự đánh giá đúng mức của Nho giáo
chúng ta cần đi sâu tìm hiểu mặt tiêu cực ấy
2.2 VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRÊN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG ở VIỆT
NAM
Cách mạng Tháng 8 là cuộc cách mạng triệt để đã lật đổ chế độ phong kiến
kéo dài hang ngàn năm và chế độ thực dân thống trị gần một thế kỹ. Cách mạng
Tháng 8 huy động sức mạnh vô tận của nhân dân nhằm xóa bỏ áp bức bốc lột giành
lấy độc lập cho tổ quốc và tự do cho nhân dân. Trên con đường quang minh ấy, cách
mạng đã gặp những chướng ngại vật mà Nho giáo để lại, không gạt bỏ những
chướng ngại đó thỉ cách mạng không thể thành công. Đó là một nét độc đáo của
cách mạng Việt Nam.
Không phải đảng ta là người điên mà chính Nho giáo đã coi nhân dân là gốc.
Nho giáo cũng nhìn thấy sức mạnh của nhân dân “nhân dân có thể đẩy thuyền đi
nhưng cũng có thể là người lật thuyền” tuy nhiên, cái điều quan trọng nhất đối với
nhân dân thì Nho giáo không thừa nhận, đó là quyền dân chủ của quần chúng,
quyền bình đẳng của xã hội, quyền tự do của mỗi con người. Điều đặc biệt là Nho
giáo không coi nhân dân là lực lượng chính là nên lịch sử.
Cách mạng đạt lại vị trí của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng cho tổ quốc
và tự giải phóng cho bản thân mình. Ngược lại với Nho giáo vốn coi nhân dân là
những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến. Hồ Chí Minh đòi
hỏi người cán bộ phải là dày tớ của dân, phải học hỏi nhân dân và yêu quý nhân
dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân biến
nhân dân thành sức mạnh vô địch để chiến thắng những kẽ thù lớn mạnh và hung
hãn nhất của thế kỷ.
14
Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ” từ
chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ trói buộc họ trong bếp núc gia đình, nam
giới gạt bỏ họ ra khỏi công việc chung của xã hội giành riêng cho mình công việc to
lớn hơn “trị quốc bình thiên hạ” cách mạnh Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tư
tưởng lạcc hậu ấy mở tung cửa gia đình để người phụ nữ ra ngoài xã hội, cùng bình
đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất nước cách
mạng đã giải phóng phụ nữ là giải phóng them một nữa dân số để đất nước nâng
sức mạnh chiến đấu lên gấp 2 lần và từ đó đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nho giáo luôn luôn quay về với quá khứ, đời nay không bằng đời xưa, người
ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng thì ngược lại luôn luôn nhìn phía
trước đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. Cách mạng giải phóng cho sức
mạnh hùng hậu của thanh niên nâng cao ý chí và tài năng của họ, đặt lên vai họ
trách nhiệm chung vì độc lập lự do của dân tộc và tương lai tươi sáng của loài
người. Để thực hiện một xã hội lý tưởng theo mô hình Nho giáo với với sự thống trị
của vua hiền tôi giỏi, Nho giáo đặt vấn đề tu dưỡng đạo đức lên hàng đầu “từ bật
thiên tử xuống tới hạng bình dân ai nấy đều phải lấy tu thân làm gốc, cái gốc hư
hoại mà cái ngọn lại tốt tươi, đâu có thể như vậy (đại học). Trong sự nghiệp cách
mạng như vậy, Hồ Chí Minh cũng coi cách mạng là gốc và đòi hỏi người cách mạng
phải có bản lĩnh đạo đức “cây phải có gốc, không có gốc cây héo, người phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Tiến hành đấu tranh trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, nhân dân không
có sức mạnh nào ngoài sức mạnh tinh thần của hàng triệu con người đoàn kết nhau
lại. Không có tự do dân chủ không có võ khí trong tay. Cán bộ cách mạng và nhân
dân phải có nghị lực phi thường để huẩn bị cho cách mạng tháng 8, Hồ Chí Minh
ngay từ năm 1925 trong cuốn đường kách mệnh đã đặt lên hang đầu những phẩm
chất của con người cách mạng, nhắt nhở mọi người phải chịu đựng gian khổ sẵn
sàng hy sinh và quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Hồ Chí Minh chính
mình đã nêu tấm gương sáng trong việc không ngừng rèn luyện đạo đức. Qua 2
cuộc kháng chiến, người đã nhắt đến rất nhiều chữ của Nho giáo để giáo dục cán bộ
và nhân dân. Người mượn câu nói của Mạnh Tử để nêu lên khí phách của người
chiến sĩ cách mạng “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay uy lực
15
không khuất phục” đây chính là câu nói của Mạnh Tử trong thiên đằng văn công –
hạ “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Để cán bộ
có tinh thần chịu đựng gian khổ tránh được sự cám dỗ vật chất vượt qua được mọi
thử thách, Hồ Chí Minh cũng xữ dụng câu nói của Mạnh Tử “dưỡng tâm mạc thiên
ư quả dục” để khuyên cán bộ ít long ham muốn về vật chất (đường kach mệnh).
Qua 2 cuộc chiến đấu đầy gian lao thử thách, có thể nói Hồ Chí Minh đã tiếp
thu và vận dụng khá nhiều kinh nghiệm của Nho giáo vào trong việc giáo dục đạo
đức và phát động tinh thần cho nhân dân. Dưới ánh sang của chủ nghĩa mác – Lênin
người đã phân tích cho nhân dân rõ được những khó khăn những thuận lợi của
kháng chiến động viên mọi người trước những thuận lợi ngày một lại gần cổ vũ mọi
người bằng những tấm gương kiên cường từ trong lịch sử lâu đời của dân tộc. Trong
quá trình lịch sử này không thể bỏ qua sự đóng góp những lời răn dạy rút ra từ trong
Nho giáo. Cố nhiên, không phải để thực hiện mục tiêu của Nho Giáo mà để đi
ngược lại mục tiêu ấy hướng vào sự việc giải phóng cho tổ quốc và đồng bào.
Sau 2 cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và thống
nhất tổ quốc hướng vào thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng mọi mặt
của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường tiến tới một tương
lai tốt đẹp, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chúng ta lại
thường xuyên đụng đến vấn đề Nho giáo, Nho giáo vẫn bám sát chúng ta tiếp tục
đem lại cho chúng ta bài học cả chính diện lẫn phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu
lại những lời hay ý đẹp như đổ thêm dầu mở tạo thuận lợi cho cổ xe cách mạng tiến
về phía trước nhưng lại có những trường hợp Nho giáo thọc gậy vào bánh xe ấy.
Không thể phủ nhận được di sản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong
đầu óc con người Việt Nam hôm nay , mặc dù ít ai nghĩ rằng ý nghĩ và việc làm của
họ lại chính là Nho giáo. Vấn đề đặt ra là làm thế nào khai thác được những nhân tố
tích cực và gạt bỏ những nhân tố tiêu cực trong di sản Nho giáo hôm nay? Điều này
truớc hết dựa vào tri thức tự chủ và tinh thần sang tạo của đảng ta và nhân dân
Phần: KẾT LUẬN
16
Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử. Tư tưởng truyền thống của dân
tộc ta đã đấu tranh và tác động qua lại với Nho giáo trong suốc quá trình du nhập,
phát triển và suy tàn của nó ở Việt Nam. Nho giáo đã có những cố gắn to lớn bền bĩ
và có những cống hiến tích cực trong việc khuyên bảo dạy dỗ cho con người thương
yêu đồng loại, cho người và người có quan hệ tốt với nhau. Nho giáo tỏ rõ tinh thần
tích cực đi sâu vào cuộc sống xã hội, đứng ra đảm nhiệm việc dân việc nước, việc
thiên hạ. Nho giáo phát triển trong mói quan hệ xoaắn xuýt với Phật giáo, Lão giáo,
tác động mạnh mẽ vào văn học, nghệ thuật. Nó thâm nhập vào đời sống nhân dân và
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý dân tộc nó để lại những tàn dư dai dẳn ngay cả trong
xã hội ta ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
1. QUANG ĐẠM, Nho giáo xưa và nay, nhà xuất bản văn hóa Hà Nội –
1994
2. TRẦN NGỌC THÊM, Cơ sở văn hóa Việt Nam, nhà xuất bản giáo dục –
1999
3. VŨ KHIÊU, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, nhà xuất bản khoa học
xã hội – 1997
4. HÀ THIÊN SƠN, lịch sử triết học, nhà xuất bản trẻ - 2004
5. Đại học và trung dung Nho giáo, nhà xuất bản khoa học xã hội – 1991,
chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN ĐỨC DIỆN, Biên tập NGUYỄN
VŨ CŨ
18