Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Đề tài lịch sử trong tiểu thuyết của nguyễn xuân khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THÚY HẰNG

ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THÚY HẰNG

ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS Phan Trọng Thưởng

HÀ NỘI, 2016



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Phan Trọng
Thưởng, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận
văn.
Chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn, Phòng
đào tạo - Phòng sau đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; Viện Văn học
Việt Nam, khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn, chia sẻ niềm vui này với những người thương
yêu đã luôn bên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thúy Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá
nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS - TS Phan Trọng Thưởng.
Trong khi nghiên cứu luận văn, tôi đã kế thừa thành quả khoa học của các nhà
khoa học và đồng nghiệp với sự trân trọng và biết ơn.
Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được
đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu
của luận văn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thúy Hằng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
NỘI DUNG..................................................................................................... 13
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỂU THUYẾT VÀ
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ .............................................................................
13
1.1. Quan niệm về tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử....................................... 13
1.1.1. Quan niệm về tiểu thuyết. ..................................................................... 13
1.1.2. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử .......................................................... 15
1.2. Đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam..................................................... 19
1.2.1. Đề tài lịch sử ......................................................................................... 19
1.2.2. Đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam sau năm 1986 .......................... 23
1.3. Đề tài lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh ........................... 25
1.3.1. Hiện tượng Nguyễn Xuân Khánh trong văn học đương đại Việt Nam 25
1.3.2. Nguyễn Xuân Khánh và mối duyên nợ về đề tài lịch sử ...................... 27
Chương 233. LỊCH SỬ TRƯỚC CÁC SỰ LỰA CHỌN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................................... 33
2.1. Lựa chọn sự kiện lịch sử .......................................................................... 33
2.1.1. Lựa chọn giai đoạn lịch sử và lựa chọn vấn đề lịch sử ......................... 33
2.1.2. Lựa chọn, khám phá những sự kiện tiêu biểu của lịch sử..................... 36
2.2. Sự lựa chọn nhân vật lịch sử .................................................................... 39
2.2.1. Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật lịch sử .......................................
39
2.2.2. Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh ............... 43
2.2.3. Nghệ thuật khắc họa nhân vật lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh……..55
2.3. Lịch sử trong mối quan hệ với các thành tố khác .................................... 67
2.3.1. Trong mối quan hệ với văn hóa, tư tưởng, tôn giáo ............................. 67
2.3.2. Trong mối quan hệ với bản thân cốt truyện và hệ thống nhân vật ....... 68
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT

VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH .......................... 70


3.1. Kết cấu...................................................................................................... 70
3.1.1. Lý thuyết về kết cấu .............................................................................. 70
3.1.2. Bố cục.................................................................................................... 71
3.1.3. Điểm nhìn và các cấp độ trần thuật....................................................... 72
3.2. Thời gian và không gian........................................................................... 75
3.2.1. Thời gian ............................................................................................... 75
3.2.2. Không gian ............................................................................................ 79
3.3. Các thủ pháp nghệ thuật khác .................................................................. 93
3.3.1. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................ 93
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại ........................................................... 99
3.3.3. Nghệ thuật hư cấu ............................................................................... 107
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 127


1


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX trải qua
không ít những cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng. Trong thế kỷ này,
người Việt Nam không chỉ tiến hành những cuộc chiến tranh kéo dài và khốc
liệt để bảo vệ nền độc lập của dân tộc và sự toàn vẹn của lãnh thổ mà còn tiến
hành những cuộc cách mạng xã hội với những biến cố lớn lao như công cuộc

cải cách ruộng đất, cuộc cải tạo tư sản, hợp tác hoá nông nghiệp và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 và trên toàn quốc sau năm 1975.
Những biến cố như vậy của lịch sử chất chứa những bí ẩn mà sử học và
khoa học xã hội không dễ gì giải quyết trong một sớm một chiều. Mặc khác,
những cuộc chiến tranh và những biến cố xã hội đó đã gây ra những vấn đề
nghiêm trọng đối với số phận của từng cá nhân người Việt Nam nói riêng
cũng như số phận của cả dân tộc trong thời hiện tại nói chung. Một di sản quá
khứ như vậy trở thành nỗi ám ảnh đối với các văn nghệ sỹ, đặc biệt là đối với
các nhà văn đương đại Việt Nam.
1.2. Trong sự vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết được coi là cỗ
máy cái. Việc thiếu vắng thành tựu của thể loại này là một chỗ trống đáng
buồn cho bất cứ nền văn học nào trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những
tiểu thuyết viết về quá khứ luôn luôn luôn ở trong tâm điểm của đời sống văn
chương và là bộ phận đạt được nhiều thành tựu nhất của văn chương Việt
Nam đương đại. Quay về với đề tài lịch sử, bằng cách đào sâu những tìm tòi
cá nhân và theo đuổi các sáng tạo cá nhân, nhà văn Việt Nam là người nói lên
được những vấn đề mà lịch sử đặt ra với dân tộc của mình. Tuy nhiên, điều
quan trọng là đằng sau một hiện tượng văn chương có ý nghĩa cục bộ đó, ẩn
chứa một cuộc cách mạng trong mối quan hệ giữa lịch sử và văn chương.
1.3. Đời sống văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung ở nước ta những
năm đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển nở rộ và thăng hoa của đề tài


lịch sử. Đặc biệt, tinh thần đổi mới từ sau 1986 đã thổi vào nền văn học một
luồng sinh khí mới, phá tan đi sự "đơn điệu" trong tư duy nghệ thuật của văn
học giai đoạn 1945-1975. Trong bầu không khí dân chủ ấy, nhà văn được "cởi
trói", được thỏa sức sáng tạo với tài năng nghệ thuật của mình. Bạn đọc được
chứng kiến sự quy hồi và phục hưng đề tài lịch sử một lần nữa vào thập niên
cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI với những sáng tác Hồ Quý Ly, Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh,

Bão táp Triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…So
với giai đoạn đầu thế kỷ XX với Quả dưa đỏ (1925) của Nguyễn Trọng
Thuật, Nặng gánh cang thường (1930) của Hồ Biểu Chánh, Vì nước hoa
rơi (1925), Lê Triều Lý thị (1931), Một đôi hiệp khách (1929), Việt Nam Lê
Thái Tổ (1929) của Nguyễn Chánh Sắt, Tiếng sấm đêm đông (1928), Vua bà
Triệu ẩu (1929) của Nguyễn Tử Siêu... có sự khác biệt căn bản về quan điểm
lịch sử. Văn học viết về đề tài lịch sử cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI không
chỉ cách tân về ngôn ngữ, thể loại, chức năng (không còn viết truyện để tuyên
truyền lịch sử, đạo đức) mà cái căn bản khác biệt nhất, chính là không lấy
việc tái diễn giải “sự thật” lịch sử làm mục đích sáng tác của diễn ngôn văn
chương. Tức là, không xem việc sáng tạo văn chương là quá trình “diễn
xướng”, “chuyển thể”, “cải biên” diễn ngôn lịch sử (có tính khoa học) thành
diễn ngôn nghệ thuật... Bởi thế, đã có không ít những công trình, bài viết tìm
hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.…Việc tìm hiểu các
tác phẩm viết về đề tài lịch sử rất có ý nghĩa bởi qua đó ta thấy được thái độ,
đánh giá của tác giả trước một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử hay một
triều đại lịch sử đã qua như thế nào; đồng thời việc tìm hiểu các tác phẩm này
cũng giúp ta có cái nhìn mới về tiểu thuyết sau 1986 khi xử lý về đề tài lịch sử.
1.4. Có thể nói, Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết lịch sử của ông có
một vị trí không thể thay thế trong dòng văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Là
một "người lạ mới quen biết" trên văn đàn Việt Nam đương đại, nhà văn "lão


thành" Nguyễn Xuân Khánh luôn mang đến cho người đọc một cảm giác mới
mẻ, một sự khác lạ, bất ngờ mỗi khi trình làng một tác phẩm mới. Tác phẩm
của ông không chỉ mở rộng đề tài, chủ đề theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với
hiện thực đời sống, đời tư thế sự, đời sống văn hóa tâm linh, mà qua đó, quan
niệm về một số vấn đề thể loại và lịch sử cũng mang những màu sắc thẩm mĩ
mới. Lịch sử trong cảm nhận cá nhân, được nhà văn nhìn nhận bằng cái nhìn
triết học và thụ hưởng trên tinh thần nhân văn hiện đại. Đặc biệt, với hai cuốn

tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã
chứng tỏ tài năng sáng tạo, sự nỗ lực tìm tòi nhằm đổi mới tư duy nghệ thuật
tiểu thuyết. Bởi thế, Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn đã được bạn đọc đón
nhận một cách nồng nhiệt suốt thời gian qua.
Thực tế cho thấy, đã có rất nhiều công trình, bài viết đi sâu vào tìm hiểu,
khám phá các giá trị trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, song đi sâu
tìm hiểu về đề tài lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh để thấy
được nét riêng trong phong cách tiểu thuyết lịch sử của ông trong bức tranh
chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại thì cho tới nay, điều đó vẫn
còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu: "Đề tài lịch sử trong
tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh" với mong muốn góp thêm một góc
nhìn mới về tiểu thuyết lịch sử của nhà văn trong xu hướng đổi mới tiểu
thuyết lịch sử sau 1986. Qua đó thấy được đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh
đối với tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử là thể loại xuất hiện khá lâu trong văn học Việt Nam
và cũng là loại tiểu thuyết thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã đề cập đến các tác giả như
Phan Trần Chúc, Đào Trinh Nhất, Nguyễn Triệu Luật, Trần Thanh Mại...
cùng các tác phẩm của họ. Qua đó phân biệt khá rõ ràng giữa lịch sử, kí sự


lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Vũ Ngọc Phan cũng cho rằng "viết tiểu thuyết
lịch sử, nhà văn chỉ phải căn cứ vào vài việc cỏn con đã qua rồi vẽ vời cho ra
chuyện lớn, cất giữ cho mọi việc đừng trái với thời đại mà không phải là sự
thật". Dường như, đây là công trình ít ỏi trước cách mạng tháng Tám bàn về
vấn đề thế nào là tiểu thuyết lịch sử.
Trong luận án tiến sỹ chuyên ngành Ngữ văn có tựa đề Tiểu thuyết Việt
Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 - diện mạo và đặc điểm, tác giả

Bùi Văn Lợi đã đưa ra khái niệm: "Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm
mang trọn đặc trưng tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, làm
cảm hứng sáng tạo nghệ thuật". Trên cơ sở so sánh với các tiểu thuyết giao
thoa, tác giả đã khu biệt kiểu viết về lịch sử mới của tiểu thuyết đầu thế kỷ
XX và những đặc điểm của nó... Tuy nhiên, định nghĩa đưa ra vẫn còn sơ sài
và chưa cụ thể.
Giai đoạn đương đại của nước ta đang chứng kiến sự xuất hiện của một
loạt tiểu thuyết lịch sử có tiếng vang, kể cả của nước ngoài được dịch sang
tiếng Việt lẫn các tác phẩm của các nhà văn trong nước, trong đó có tác phẩm
được tặng giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết lần thứ nhất 1998-2000 của Hội
Nhà văn Việt Nam (Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, trao giải năm
2000); giải thưởng “Bùi Xuân Phái - vì tình yêu Hà Nội” lần thứ nhất (2008)
của Quỹ Bùi Xuân Phái (bộ tứ tiểu thuyết Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc
Hải [đến lần tái bản 2010 được bổ sung thêm hai tập]); giải thưởng hạng A
cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba 2006-2009 (Hội thề của Nguyễn Quang Thân,
trao giải năm 2010). Có thể nói không ngoa rằng tiểu thuyết lịch sử đang lên
ngôi trên văn đàn Việt Nam. Thế nhưng trong lĩnh vực lý luận thì chúng ta
vẫn chưa quan tâm thỏa đáng đến mảng sáng tác này.
Trong thời gian gần đây chúng ta đã được tiếp nhận một số công trình
dịch của văn học nước ngoài bàn về tiểu thuyết như: Bakhtin với Lý luận và
thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu, Bộ Văn


hóa, Thông tin và Thể thao - Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội 1992. In
lần 2: Nxb. Hội Nhà văn, 2003); Bakhtin: Những vấn đề thi pháp của
Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử dịch, Lại Nguyên Ân và Vương Trí Nhàn giúp
dịch chương IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1993). Nhưng các cuốn sách này
không bàn đến tiểu thuyết lịch sử. Hội Nhà văn cũng đã tổ chức một cuộc Hội
thảo về Đổi mới tư duy tiểu thuyết ngày 07-11-2002 và sau đó có xuất bản
một tập kỷ yếu mang tên Đổi mới tư duy tiểu thuyết (Nxb. Hội Nhà văn,

2002), tuy nhiên trong đó các nhà văn và các nhà lý luận - phê bình cũng
không đề cập đến tiểu thuyết lịch sử. Trong bối cảnh đó, các cuốn sách tra
cứu cũng không nói được nhiều về tiểu thuyết lịch sử. Cuốn sách Từ điển
thuật ngữ văn học (2006) do các GS Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn
Khắc Phi chủ biên, đã đưa ra một số nhận định khái quát về tiểu thuyết lịch
sử. Trong cuốn sách này, các tác giả đã xếp "tiểu thuyết lịch sử" vào một mục
từ chung là "thể loại văn học lịch sử", và cho rằng tiểu thuyết lịch sử là "các
tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng tác về các đề tài và nhân vật lịch sử". Quan
niệm này của cuốn sách đến lần tái bản mới nhất (2009) vẫn không có gì thay
đổi. Trong cuốn sách 150 thuật ngữ văn học (2004) của Lại Nguyên Ân, tác
giả không đề cập đến tiểu thuyết lịch sử. Còn trong các cuốn sách về lý luận
văn học ở ta, các nhà lý luận chỉ bàn đến tiểu thuyết nói chung chứ không bàn
riêng về tiểu thuyết lịch sử.
Các công trình chuyên khảo mang tính lý luận về tiểu thuyết nói chung
và về tiểu thuyết lịch sử nói riêng còn rất thưa thớt. Gần đây chúng ta mới có
một số bài viết về tiểu thuyết lịch sử đăng trên các tạp chí, đó là các
bài: Những đóng góp của Nguyễn Tử Siêu cho loại hình tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn đầu thế kỷ (Nguyễn Huệ Chi, Vũ Thanh - Tạp chí văn học, 1996, số
5); Về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Bùi Văn Lợi - Thông
tin KHXH, 1998, số 1); Về tiểu thuyết lịch sử và vấn đề giảng dạy tiểu thuyết
lịch sử trong nhà trường phổ thông (Bùi Văn Lợi - Nghiên cứu giáo dục,


1998, số 8); Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Bùi Văn Lợi - Tạp chí
văn học, 1999, số 9). Và đặc biệt là chúng ta cũng đã có một số luận văn thạc
sĩ và luận án tiến sĩ về tiểu thuyết lịch sử, ví dụ như luận án tiến sĩ Tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay của Nguyễn Thị Tuyết Minh (Viện Văn
học, Hà Nội, 2009). Nhưng nhìn chung, trong bối cảnh của nền văn học
đương đại Việt Nam, khi mà tiểu thuyết lịch sử đang được giới sáng tác nhiệt

tình hưởng ứng, thì giới lý luận gần như chưa quan tâm thoả đáng đến lĩnh
vực này.
Tuy nhiên có thể thấy, đứng về mặt quan niệm thể loại, các nhà nghiên
cứu có một cái nhìn thống nhất cho rằng: tiểu thuyết lịch sử không phải là sự
sao chép lịch sử như nó vốn có, nhà viết tiểu thuyết khác nhà viết sử bởi cái
trục chính của hai từ tiểu thuyết vẫn là hư cấu. Và những những tác phẩm
được nhắc đến hầu hết là những tác phẩm khá mẫu mực của thể loại này,
nghĩa là vấn đề thể loại của nó được ngầm định là tiểu thuyết lịch sử như: Hồ
Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Sông Côn mùa
lũ của Nguyễn Mộng Giác...
2.2. Lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh
Nếu tính từ Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái thì tiểu
thuyết lịch sử là thể loại xuất hiện khá lâu trong văn học Việt Nam. Nối tiếp
mạch nguồn truyền thống, tiểu thuyết lịch sử đương đại có những tác phẩm
gây được sự chú ý với người đọc. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, trong vòng
sáu năm đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết với dung lượng và chất lượng cao
là Hồ Quý Ly (dày 804 trang), Mẫu thượng ngàn (808 trang) đều ra năm 2006.
Mỗi lần ra tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lại khiến các đồng
nghiệp sửng sốt vì cuốn nào cũng dày như… cục gạch.


Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh xuất hiện trên
văn đàn đã gây xôn xao dư luận và trở thành hiện tượng văn học nổi bật. Hồ
Quý Ly tái bản đến 9 lần, số lượng phát hành lên tới 2 vạn bản. Cả Hồ Quý Ly
và Mẫu thượng ngàn đều đã giành được những giải thưởng danh giá. Tiểu
thuyết Hồ Quý Ly đạt giải thưởng trong cuộc thi tiểu thuyết năm 1998 - 2000
do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, đạt giải của Hội Nhà văn Hà Nội năm
2000 - 2001, giải thưởng Thăng Long của UBND TP Hà Nội 2002. Mẫu
thượng ngàn đạt giải thưởng tiểu thuyết Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006.

Những vấn đề mà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đặt ra trong tác phẩm cũng
như những cách tân và đặc sắc nghệ thuật trong Hồ Quý Ly và Mẫu thượng
ngàn đã trở thành mối quan tâm của đông đảo bạn đọc và các nhà phê bình,
nghiên cứu. Qua các cuộc hội thảo, các tác phẩm đã được nhìn nhận ở nhiều
phương diện, nhất là phương diện thể loại. Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã nhận
xét: “Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính
sử. Văn chương mượt mà, có sức cuốn hút, đọc hết 800 trang mà vẫn muốn
đọc lại”. Lại Nguyên Ân trong bài Hồ Quý Ly đăng trên Tạp chí nhà văn số 6
năm
2000, đã nhận định: “Tác giả Nguyễn Xuân Khánh, vừa khai thác tối đa các
nguồn sử liệu, văn liệu vẫn còn, vừa phóng khoáng trong những hư cấu tạo ra
một thực tại tiểu thuyết vừa tương đồng với những thông tin còn lại về một
thời đại đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả”.
Trong bài viết “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch
sử nước nhà” nhà văn Trung Trung Đỉnh viết: sức hấp dẫn của tác phẩm
“không chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã lựa chọn cho mình một thế
đứng với tư thế của một nhà tiểu thuyết trên vấn đề hôm qua và hôm nay”.
Tác giả Hoàng Cát trong bài Tiểu thuyết Hồ Quý Ly - thưởng thức và
cảm nhận đã đánh giá cao cuốn tiểu thuyết này, coi đây là “một tác phẩm văn
học bề thế sâu sắc, hấp dẫn viết về một giai đoạn lịch sử phức tạp của dân tộc
- giai đoạn ruỗng nát của nhà Trần và nhân vật Hồ Quý Ly. Ta đọc những


trang văn rất đẹp lời, sâu sắc về ý, viết về lịch sử, viết về tình yêu đôi lứa
của đủ mọi hạng người, viết về nhân tình muôn thuở mà nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh đã bỏ công sức, tâm huyết hàng chục năm trời, lặng lẽ nhả kén
cho đời”.
Nguyễn Diệu Cầm trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử đang hấp dẫn trở lại
nhấn mạnh đến tính chất hiện đại của ngòi bút Nguyễn Xuân Khánh. Theo
Diệu Cầm, tư duy hiện đại trong cách viết của nhà văn đã đem lại “khoái cảm

thẩm mĩ” cho người đọc và tạo nên sức hấp dẫn: “Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh là tiểu thuyết lịch sử được viết với một phong cách hiện đại và
sức hấp dẫn là ở tính hiện đại của một cuốn tiểu thuyết lịch sử”.
Trong bài viết Hồ Quý Ly cách tân hay bạo chúa, Đỗ Ngọc Yên nhận
định: “Qua Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ đem đến cho thể loại
tiểu thuyết lịch sử một sinh khí, nâng vị thế của nó lên một tầm cao mới về
nội dung, đề tài, chủ đề và hình thức thể hiện. Nhưng theo tôi, với tiểu thuyết
này Nguyễn Xuân Khánh đã vươn lên trên những sự kiện lịch sử, thổi vào đó
luồng cảm xúc thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo, làm cho các sự kiện ấy trở nên
sinh động hơn, gây hứng thú cho bạn đọc”. Tác giả bài viết đã khẳng định
cách tân nghệ thuật quan trọng của Nguyễn Xuân Khánh. Những cách tân đó
đã đem lại cho tiểu thuyết lịch sử một diện mạo mới, mang đậm dấu ấn cá
nhân trong cách nhìn nhận lịch sử, lịch sử chỉ là một phương tiện để nhà văn
sáng tạo tác phẩm nghệ thuật.
Tác giả Thái Sơn trong bài viết Bài học canh tân trong tiểu thuyết Hồ
Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cho rằng với cuốn tiểu thuyết
này, Nguyễn Xuân Khánh được xem là “một cây đại thụ”. Bài viết nhận định:
“Giữa lúc tình trạng văn học nước nhà rơi vào cảnh èo uột, không có tác phẩm
nào đáng kể thì Hồ Quý Ly như một cơn địa lớn chấn lớn khiến độc giả bừng
tỉnh”.
Với bài viết Đọc Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, tác giả Phạm
Toàn đã khẳng định “đây là tiểu thuyết đích thực”. “Nguyễn Xuân Khánh


không vì viết truyện lịch sử mà lệ thuộc vào sự việc, không rơi vào việc dùng
tiểu thuyết chỉ để viết lại thông sử nước nhà theo một cách khác”.
Tiếp tục nguồn mạch sáng tạo về đề tài lịch sử, năm 2006 Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh ra mắt bạn đọc. Ngay sau khi tác phẩm ra đời
đã trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình với
hàng loạt các bài viết như: Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu

thuyết Mẫu thượng ngàn của Trần Thị An trên Tạp chí Văn học, số 6/2007;
Bùi Kim Ánh với bài viết Đạo mẫu trong tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” của
Nguyễn Xuân Khánh (); Sức quyến rũ của Mẫu thượng ngàn
của tác giả Vũ Hà, (); Mẫu Thượng Ngàn nội lực
văn chương Nguyễn Xuân Khánh trong cuộc trao đổi giữa Việt báo với nhà
nghiên cứu phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên; Nguyễn Xuân Khánh tuổi
74



cuốn

tiểu

thuyết

mới

của

tác

giả

Quỳnh

Châu,

(); Mẫu Thượng Ngàn – Cơ duyên của Nguyễn Xuân
Khánh của Hoà Bình (); “Nơi bắt đầu Mẫu thượng ngàn

của Nguyễn Xuân Khánh” trên báo Tiền phong cuối tuần, số 11/2007; “Nỗi
đau lịch sử và sự đổi thay” của Yến Lưu (); “Một cuốn tiểu
thuyết thật hay về văn hoá Việt” của nhà văn Nguyên Ngọc trên Việt báo...
Nhìn chung, các bài viết trên đều thống nhất ý kiến khẳng định thành công và
tài năng của Nguyễn Xuân Khánh trong Mẫu thượng ngàn khi tiếp tục khai
thác đề tài lịch sử. Bùi Kim Ánh nhận định: “Với tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã thực sự thành công khi dựng lại một
không gian văn hoá làng với hạt nhân là tín ngưỡng dân gian”. Dương Thị
Huyền cho rằng: “Trước hết, có thể nói rằng đây (Mẫu thượng ngàn) là cuốn
tiểu thuyết có giá trị, nhất là khi nhà văn đã thể hiện một cách vô cùng độc
đáo những nét đặc sắc về tín ngưỡng, phong tục tập quán của nền văn hoá
Việt”. Cũng theo tác giả Dương Thị Huyền thì “thể hiện những yếu tố về lịch
sử văn hoá cũng là một hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam” mà thành


10

công của Mẫu thượng ngàn chính là một “sự mở đường”. Nhà văn Nguyên
Ngọc khi so sánh với Hồ Quý Ly trước đó cho rằng “Mẫu thượng ngàn còn
dày dặn, bề thế, phong phú hơn cả cuốn Hồ Quý Ly từng gây xôn xao của anh
mấy năm trước”.“Bằng cuốn tiểu thuyết này, bằng khám phá này - tôi muốn
nói vậy - Nguyễn Xuân Khánh một lần nữa khiến ta kinh ngạc vì bút lực còn
dồi dào đến tràn trề và say đắm của anh”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng vấn đề chúng tôi nghiên cứu được triển
khai bởi một cách tiếp cận mới. Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn, chúng
tôi muốn tập trung vào hai tác phẩm cụ thể của Nguyễn Xuân Khánh là Hồ
Quý Ly và Mẫu thượng ngàn để tìm hiểu, xác định những đặc điểm cơ bản của
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh; Qua đó hi vọng sẽ góp phần - dù nhỏ bé trong việc hệ thống, tiếp thu, kế thừa những vấn đề về lý luận nói chung, tiểu
thuyết về đề tài lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu, chỉ ra những nét chung và khác biệt của Nguyễn Xuân
Khánh trong tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử.
- Từ đó, khẳng định những đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh cho tiểu
thuyết viết về đề tài lịch sử.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài này hướng tới các nhiệm vụ sau:
- Khảo sát hai tiểu thuyết tiêu biểu về đề tài lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh
- Dựa trên các mục tiêu khoa học của luận văn, triển khai nội dung nghệ
thuật của từng chương.
- Rút ra các kết luận về mặt khoa học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Đề tài lịch sử trong sáng tác của
Nguyễn Xuân Khánh.


11

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát hai tiểu thuyết xuất sắc nhất
của Nguyễn Xuân Khánh là Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn. Những tác
phẩm khác của Nguyễn Xuân Khánh, luận văn chỉ sử dụng để đối chiếu tham
khảo và củng cố thêm nhận định của mình về hai tiểu thuyết xuất sắc nhất của
ông. Dĩ nhiên, việc khảo sát đề tài lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh được chúng tôi đặt trong bối cảnh của tiểu thuyết Việt Nam hiện nay.
Văn bản tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh mà luận văn dựa vào để
khảo sát là: Hồ Quý Ly, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2006; Mẫu thượng
ngàn, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2006.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp
nghiên cứu sau:

6.1. Phương pháp lịch sử
Viết về đề tài lịch sử, chúng tôi chú ý tìm hiểu lịch sử để nắm vững bối
cảnh lịch sử của từng giai đoạn, đồng thời thấy được tính chân thực lịch sử và
sự sáng tạo, hư cấu trong các tiểu thuyết lịch sử.
6.2. Phương pháp so sánh
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi so sánh tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Xuân Khánh với một số tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn khác
cùng thời và khác thời để làm nổi bật những đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh.
6.3. Phương pháp thống kê - phân tích
Khảo sát thống kê, phân loại, đi sâu vào từng phương diện về nội dung
và nghệ thuật của hai tác phẩm từ đó rút ra những đặc điểm của tiểu thuyết
lịch sử Nguyễn Xuân Khánh.


12

6.4. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Chúng tôi đặt các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh trong
hệ thống tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1986 đến nay để thấy được quá
trình vận động của tiểu thuyết lịch sử nước nhà và làm nổi bật những cách tân
trong nghệ thuật viết tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
6.5. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh ở góc
độ tiếp cận thi pháp học..
7. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
7.1. Đóng góp của đề tài
- Chỉ ra những đóng góp riêng, đặc sắc, mới mẻ của Nguyễn Xuân
Khánh với tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử.
- Góp phần nghiên cứu sâu hơn về tài năng, phong cách tác giả Nguyễn

Xuân Khánh.
7.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai trong ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử
Chương 2: Lịch sử trước các sự lựa chọn trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh
Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết về đề tài lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh.


13

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỂU THUYẾT
VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
1.1. Quan niệm về tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử.
1.1.1. Quan niệm về tiểu thuyết.
So với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn. Không những
thế, nó "là một thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình".
Việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết là một yêu cầu chủ yếu, luôn có tính
thời sự của lý luận văn học. Vì vậy, đi tìm quan niệm tiểu thuyết cũng là vấn
đề có ý nghĩa về mặt lý thuyết.
Có thể khẳng định rằng: Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu,
thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn
và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật,
tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
Trong một cách hiểu khác, Belinski cho rằng: "tiểu thuyết là sử thi của
đời tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập

trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển
của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ
thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách.
Ở nước ta việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết xuất hiện khá sớm.
Những năm đầu thế kỷ thứ XX, ở miền Bắc bạn đọc được tiếp cận với công
trình Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh trên tạp chí Nam phong năm 1921.
Sau đó là các công trình chuyên khảo về tiểu thuyết: Theo dòng (1941) của
Thạch Lam, Khảo về tiểu thuyết (1941) của Vũ Bằng. Ngoài ra, còn có một số
công trình khác cũng bàn về một số vấn đề của tiểu thuyết...


14

Ở đô thị miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975, việc nghiên cứu thể loại
tiểu thuyết cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận phê bình với một
số công trình tiêu biểu như Nhân vật trong tiểu thuyết (Nhiều tác giả, Sáng
tạo số 1/1960); Viết và đọc tiểu thuyết (Nhất Linh, Nxb Đời nay, 1961); Hiện
hữu của tiểu thuyết (Lê Tuyên, Đại học số 4/1961......Ở các công trình này
nhiều vấn đề lý luận về tiểu thuyết được đặt ra với một cái nhìn đa diện, đa
chiều như: Quan niệm về tiểu thuyết, nhân vật và phương thức xây dựng nhân
vật tiểu thuyết, cốt truyện trong tiểu thuyết...
Nếu ở những giai đoạn trước, cách hiểu tiểu thuyết còn mang tính khái
quát để chỉ chung cho tác phẩm văn xuôi dù đó là truyện ngắn, truyện vừa,
truyện dài thì ở giai đoạn này, khi sự phân định về mặt thể loại ngày càng
cụ thể hơn, khái niệm về tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 cũng được các
nhà lý luận phê bình văn học đô thị miền Nam hiểu một cách rõ ràng, sát với
đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận “xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”,
Nguyễn Văn Trung cho rằng: “yếu tính của tiểu thuyết là cái tưởng tượng,
không thể kiểm chứng được”. Đó cũng là quan niệm của Duyên Anh "Tiểu
thuyết mà thiếu tưởng tuợng không phải là tiểu thuyết. Và bắt buộc, nó khó

lòng thoát lên cao. Nó chỉ là đất trên mặt cỏ". Còn với Võ Phiến “tiểu thuyết
là công trình giả tưởng. Màu trời, sắc nắng, cây, lá, gió, trăng, mọi hoạt động
trong đó đều bịa đặt”. Và theo Trần Văn Nam “Tiểu thuyết là truyện bịa đặt y
như sự thật.”. Tuy cách diễn đạt có khác nhau, song trong quan niệm của các
tác giả trên đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu thuyết là tưởng tượng,
hư cấu. Nhưng tiểu thuyết có phải hoàn toàn là sản phẩm của tưởng tượng và
hư cấu? Điều ấy chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong quan niệm tiểu thuyết
của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam.
Dù đề cao vai trò tưởng tượng và hư cấu của tiểu thuyết, nhưng các nhà
lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam cũng thấy được mối tương liên


15

giữa tưởng tượng, hư cấu trong tiểu thuyết với hiện thực cuộc đời. Vì vậy
trong quan niệm của họ, nhà văn dẫu có hư cấu cũng phải trên cơ sở tôn trọng
sự thực đời sống. Bởi lẽ ngoài việc phản ánh thực tại cuộc đời, tiểu thuyết còn
phải phản ánh được thế giới thẳm sâu của tâm hồn con người và “giá trị của
một cuốn tiểu thuyết là đi sâu vào tâm hồn người đời”. Vì thế, nếu chúng ta
mãi băn khoăn, tiểu thuyết phản ánh được bao nhiêu phần trăm sự thật ở đời,
lấy đó làm căn cứ thẩm định giá trị tác phẩm tiểu thuyết thì vô hình trung làm
nghèo thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi đi thế giới tưởng tượng
của người tiếp nhận. Giá trị tiểu thuyết cần nhất là sâu sắc và “Sâu sắc chính
là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí ẩn của tâm hồn”.
Như vậy quan niệm về tiểu thuyết của lý luận phê bình văn học là một
cái nhìn đa diện, đa chiều. Tuy các ý kiến đều thống nhất cho rằng yếu tính
của tiểu thuyết là tưởng tượng, hư cấu nhưng dù là tưởng tượng, hư cấu thì
tiểu thuyết cũng phải tái tạo cuộc sống, phải mang hình bóng của cuộc đời.
Thoát ly cuộc đời, tiểu thuyết sẽ không còn là tiểu thuyết, sẽ đánh mất giá trị
nhân bản; sẽ không thể sống trong lòng người đọc. Vì từ trong ý thức sáng

tạo, nhà tiểu thuyết “bao giờ cũng muốn trình bày những con người sống
thực. Mà con người sống thực bao giờ cũng có liên hệ chặt chẽ với xã hội, với
quá khứ”.
1.1.2. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử là một trong những thể loại của văn xuôi lịch sử.
Đây là loại tiểu thuyết lấy các sự kiện, biến cố lịch sử làm đề tài. Nói cách
khác, đây là một phân loại nhỏ chia theo đề tài của thể loại tiểu thuyết.
Trong những năm gần đây, tiểu thuyết lịch sử đã nhận được sư chú ý
của các nhà văn cũng như nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, bàn về thể loại
tiểu thuyết lịch sử, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi.


16

Trong cuốn Tiểu thuyết hiện đại, Giáo sư người Pháp Dorothy Brewster
và Jonh Bureell đã định nghĩa về tiểu thuyết lịch sử như sau: "Những truyện
đó chỉ là những tiểu thuyết về thời quá khứ, và chỉ vì nhân nhượng mà ta gọi
là tiểu thuyết lịch sử. Gọi theo tên hiệu này hay tên hiệu khác tùy thuộc vào
cách phê bình định nghĩa, đọc và ưa thích (hay chán ghét) chúng. Vì khi thích
một cuốn truyện nào thì nhà phê bình thường muốn đưa nó vào một loại văn
học có danh" (9; 141)
Với quan niệm này, tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết viết về
“thời quá khứ" của một dân tộc hay một quốc gia nào đó và quan trọng hơn,
nó phụ thuộc vào chủ quan của người phê bình muốn xếp nó vào danh mục
nào. Đây là một định nghĩa khá giản đơn, song không phải không có lí.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi,
Trần Đình Sử chủ biên), tiểu thuyết lịch sử được quan niệm như sau: “Tiểu
thuyết lịch sử là tác phẩm viết về các đề tài lịch sử và nhân vật lịch sử.Quan
niệm này đã chỉ rõ đặc trưng cơ bản về đề tài của tiểu thuyết lịch sử. Đề tài
lịch sử có thể được sử dụng ở nhiều tác phẩm văn học tuy nhiên ở tiểu thuyết

lịch sử nó mang đặc trưng riêng.
Để làm rõ điều này các tác giả cuốn Từ điển văn học (Lại Nguyên Ân,
Nguyễn Huệ Chi) chỉ rõ: “Tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội
dung chính. Lịch sử trong ý nghĩa khái quát, là quá trình phát triển của tự
nhiên và xã hội. Các khoa học xã hội (cũng được gọi là khoa học lịch sử) đều
nghiên cứu quá khứ của loài người trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy
vậy, những tiêu điểm chú y của các sử gia cũng như các nhà văn quan
tâm đến đề tài lịch sử, thường đều là sự hình thành, hưng thịnh, diệt vong của
các Nhà nước, những biến cố lớn trong đời sống xã hội của cộng đồng quốc
gia, trong quan hệ giữa các quốc gia như chiến tranh, cách mạng…cuộc sống
và sự nghiệp của các nhân vật có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử” [4, tr.725].


17

Như vậy chúng ta có thể thấy đề tài lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử là những
vấn đề trọng đại của quốc gia dân tộc, liên quan đến sư hình thành, hưng
thịnh, diệt vong của quốc gia dân tộc ấy. Các nhà tiểu thuyết lịch sử có quyền
lưa chọn một giai đoạn lịch sử của một quốc gia dân tộc làm tiêu điểm để
phản ánh. Các nhân vật lịch sử trong giai đoạn ấy có thể được nhà văn hư cấu,
tưởng tượng tuy nhiên vẫn phải dưa trên những sử liệu xác thưc để tôn trọng
tính chân thực của thể loại.
G.Lukacs nhà tiểu thuyết lịch sử người Hunggary đã khẳng định: Tiểu
thuyết lịch sử về nguyên tắc không khác gì tiểu thuyết thông thường nhưng
phải thể hiện sự vĩ đại của con người trong lịch sử với những khả năng của
tiểu thuyết nói chung. Nhận định này đòi hỏi tiểu thuyết phải thể hiện được
tầm vóc của con người lịch sử đồng thời phải giữ được những đặc trưng của
tiểu thuyết qua khả năng phản ánh cuộc sống của nó.
Nhà tiểu thuyết lịch sử người Pháp Alexandre Duymas cho rằng: “tiểu
thuyết lịch sử có quyền hiếp dâm quá khứ miễn là cho ra đời những đứa con

đẹp”. Ông coi lịch sử “chỉ là cái đinh” để nhà văn treo lên những bức họa
nghệ thuật, nói cách khác đối với nhà văn lịch sử chỉ là phương tiện để từ
đó nhà văn xây dưng những tác phẩm của mình. Đã coi lịch sử như một
phương tiện nghệ thuật, nhà văn sẵn sàng “mổ xẻ”, biến đổi nó sao cho phù
hợp với y đồ và tư tưởng nghệ thuật của mình miễn sao thuyết phục được
người đọc tin rằng điều đó có thể đã xảy ra. Đồng quan điểm với
Alexandre Duymas, nhà tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Hà Lan Hella
S.Haasse nhấn mạnh: “chủ đích của tôi không bao giờ lấy việc tái hiện quá khứ
làm nhiệm vụ hàng đầu. Trong văn học đề tài lịch sử là một phương tiện chứ
không phải là một cứu cánh... Một cuốn tiểu thuyết lịch sử hay không, luôn là
một phản chiếu cái thế giới bên trong của tác giả ở một thời điểm nhất định
trong cuộc đời của họ”. (Dẫn theo Nguyễn Thị Tuyết Minh) [64, tr.36].


18

Như vậy, tiểu thuyết lịch sử là loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử
làm nội dung chính. Đối tượng của nó là nhân vật, sự kiện, giai đoạn có vai
trò, ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình lịch sử của cộng đồng, quốc gia, dân
tộc. Xét về thể loại, tiểu thuyết lịch sử là một thể loại tiểu thuyết được cấu
thành từ hai yếu tố: tiểu thuyết và lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử trước hết phải là
một cuốn tiểu thuyết, tuân thủ những qui tắc của thể loại. Lịch sử được sử
dụng trong thể loại tiểu thuyết này không nhất thiết phải chính xác như nó
vốn có. Nhà văn có quyền hư cấu, sáng tạo lại lịch sử tuy nhiên đó không phải
sư hư cấu, sáng tạo tùy tiện mà đó phải là sự sáng tạo với thái độ tôn trọng
lịch sử nhằm giữ được tính chân thực của lịch sử.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khi trả lời phỏng vấn của phóng viên báo
Văn nghệ trẻ (10/2005), đã nói: “Theo tôi lịch sử chỉ là cái cớ để tôi bám
vào… tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà là
phản ánh những vấn đề của con người hiện tại”. Lịch sử là cái đã qua nhà tiểu

thuyết không phải là người minh họa lại lịch sử. Nhà văn chỉ sử dụng lịch sử
như một phương tiện để từ đó nhà văn sáng tạo, truyền tải những tư tưởng và
triết lí của minh đối với cuộc sống và con người. Từ những câu chuyện lịch
sử, nhà văn biến đổi nó, kể một câu chuyện hấp dẫn hơn và gần gũi hơn với
con người hiện tại để từ đó đem đến cho người đọc những suy ngẫm và trải
nghiệm gần với thực tại chứ không phải là những bài học lịch sử xa xôi. Đó
mới chính là sự sáng tạo thực sự của nhà tiểu thuyết. PGS-TS Phan Trọng
Thưởng quan niệm: “Thưc chất sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử là khai
thác lịch sử theo một cách thức tiếp cận mới… trên nguyên tắc vừa tôn trọng
sự thật lịch sử vừa tôn trọng sự thật nghệ thuật” [Phan Trọng Thưởng, “Rừng
trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử”,
Tạp chí văn học số 11, 1999].


×