Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn sử dụng kiểm tra đánh giá một số kiến thức chương điện tích điện trường sách vật lý 11 nâng cao THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 175 trang )

Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Kiểm tra đánh giá là một khâu có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá tốt sẽ phản ánh được việc dạy của thầy,
việc học của trò, từ đó giúp cho thầy có kế hoạch hoàn thiện phương pháp
giảng dạy của mình, giúp cho trò tự đánh giá, hoàn thiện việc học tập. Kiểm
tra đánh giá giúp cho các nhà quản lý và điều hành.
Làm thế nào để kiểm tra đánh giá được tốt? Đây là một vấn đề mang tính
thời sự, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Từ trước tới nay, chúng ta đã sử dụng nhiều hình thức thi và kiểm tra
trong giáo dục. Các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập rất đa
dạng, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm nhất định, không có một
phương pháp nào hoàn mĩ đối với mọi mục tiêu giáo dục. Thực tiễn cho thấy,
trong dạy học cần thiết phảỉ tiến hành kết hợp các hình thức thi và kiểm tra một
cách tối ưu mới có thể đạt được yêu cầu của việc đánh giá kết quả dạy học,thi.
Kiểm tra viết là hình thức được sử dụng nhiều trong dạy học, nó được chia
thành 2 loại: Loại luận
đề ( trắc nghiệm tự luận ) và loại trắc nghiệm khách quan. Đối với luận đề, đây

loại được sử dụng một cách phổ biến từ trước đến nay.Ưu điểm của loại này là
nó cho học sinh cơ hội phân tích và tổng hợp dữ kiện theo lời lẽ riêng của
mình, nó có thể dùng để kiểm tra khả năng tư duy ở trình độ cao, song nó có
những hạn chế là: Loài này chỉ cho phép khảo sát một số kiến thức trong thời
gian nhất định, việc chấm điểm loại này mất nhiều thời gian, thiếu khách quan,
khó ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, do đó trong một số trường hợp không
xác định được thực chất trình độ của học sinh.
Trắc nghiệm khách quan có các ưu điểm là tính khách quan khi chấm,
kiểm tra đánh giá những mục tiêu đánh giá khác nhau, độ tin cậy cao và tốt.
Học sinh phát xét đoán và phân biệt kỹ càng trước khi trả lời.
1



Xuất phát từ nhận thức và suy nghĩ ở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “
Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn sử dụng

2


trong kiểm tra đánh giá một số kiến thức chương “Điện tích - Điện
Trường”sách Vật lý 11 nâng cao THPT” với mong muốn góp phần nghiên cứu
nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm tra đánh giá trong dạy học Vật lý ở
trường Phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu xây dựng được một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
nhiều lựa chọn đáp ứng những yêu cầu khoa học của hệ thống câu hỏi đáp ứng
những đòi hỏi của việc kiểm tra đánh giá, trình độ nắm vững kiến thức của học
sinh phần “Điện tích- Điện trường” sách Vật lý 11 Nâng cao – THPT.
3. Giả thuyết khoa học.
Nếu có một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
được soạn thảo một cách khoa học phù hợp với mục tiêu dạy học và nội dung
kiến thức chương “Điện tích- Điện trường” Vật lý 11 Nâng cao – THPT để sử
dụng trong kiểm tra đánh giá thì có thể đánh giá chính xác, khách quan trình
độ kiến thức của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn sử dụng trong
kiểm tra đánh giá kết quả học tập một số kiến thức chương ‘’Điện tích - Điện
trường ’’ của học sinh lớp 11 nâng cao - THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu phương pháp trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
để soạn thảo hệ thống câu hỏỉ sử dụng trong kiểm tra kiến thức chương “ Điện

tích- Điện trường” của lớp 11 nâng cao - THPT và thực nghiệm trên một số
lớp 11 các trường THPT của tỉnh Bắc Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
nhiều lựa chọn vận dụng cơ sở lý luận.
3


- Nghiên cứu mục tiêu nội dung kiến thức phần “Điện tích- Điện trường”
xác định mục tiêu kiểm tra.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn cho
một số kiến thức thuộc chương “Điện tích- Điện trường”.
- Thực nghiệm sư phạm đánh giá hệ thống câu hỏi đã soạn thảo
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu lý luận về kiểm tra đánh giá, trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn.
- Nghiên cứu thực tiễn.
+ Điều tra những khó khăn cơ bản, sai lầm của học sinh.
+ Thực nghiệm sư phạm, đánh giá hệ thống câu hỏi.
+ Phương pháp thống kê toán học, đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
7. Đóng góp của đề tài.
- Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài đã nghiên cứu, hệ thống lại lí luận về
kiểm tra đánh giá và việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn để kiểm tra đánh giá trình độ nắm vững kiến thức của học sinh.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Góp phần khẳng định tính ưu việt của
phương pháp trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn trong kiểm tra đánh giá,
làm tài liệu tham khảo về kiểm tra đánh giá trong bộ môn Vật lý ở trường phổ
thông. Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan đã soạn thảo có thể xem như

là một hệ thống bài tập, thông qua đó học sinh có thể tự kiểm tra đánh giá kết
quả học của mình và có thể sử dụng làm tài liệu.
8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 03 chương.
Chương I : Cơ sở lý luận về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong dạy học ở trường phổ thổng.
Chương II: Soạn thảo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn một số kiến thức chương “Điện tích- Điện trường”.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.
4


Chương I. Cơ sở lý luận về kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh trong dạy
học ở nhà trường phổ thông
1.1.Cơ sở lý luận về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học.

13
1.1.1.Khái niệm về kiểm tra đánh giá.
Kiểm tra đánh giá được hiểu là sự theo dõi tác động của người kiểm tra
đối với người học cần thu được những thông tin cần thiết để đánh giá.
Quá trình đánh giá gồm các khâu:
- Đo: Trong dạy học đo là việc giáo viên gắn các số ( điểm ) cho các sản
phẩm của học sinh. Để việc đo được chính xác thì đề ra phải đảm bảo:
+ Độ giá trị: Đề ra phải căn cứ vào mục tiêu chương trình học.
+ Độ trung thực: Đó là khả năng luôn cung cấp cùng một giá trị của cùng
một đại lượng với cùng một dụng cụ đo.
+ Độ nhậy: Đó là khả năng của dụng cụ đo có thể phân biệt được khi hai
đại lượng chỉ khác nhau rất ít.

- Lượng giá: Là việc giải thích các thông tin thu được về kiến thức kĩ
năng của học sinh, làm sáng tỏ trình độ tương đối của một học sinh so với
thành tích chung của tập thể hoặc trình độ của học sinh so với yêu cầu của
chương trình học tập.
+ Lượng giá theo chuẩn: Là sự so sánh tương đối với chuẩn trung bình
chung của tập hợp.
+ Lượng giá theo tiêu chí: Là sự đối chiếu với những tiêu chí đã đề ra.
- Đánh giá: Là việc đưa ra những kết luận nhất định, phán xét về trình
độ của học sinh.
Các bài kiểm tra, bài trắc nghiệm được xem như phương tiện để kiểm tra
kiến thức, kĩ năng trong dạy học. Vì vậy việc soạn thảo nội dung cụ thể của
5


các bài kiểm tra có tầm quan trọng đặc biệt trong việc kiểm tra đánh giá kiến
thức, kĩ năng.
1.1.2.Mục đích của kiểm tra đánh giá. 14 
- Việc kiểm tra đánh giá có thể có các mục đích khác nhau tuỳ trường
hợp. Trong dạy học kiểm tra đánh giá gồm 3 mục đích chính:
+ Kiểm tra kiến thức kĩ năng để đánh giá trình độ xuất phát của người
học có liên quan đến việc xác định nội dung phương pháp dạy học một môn
học, một học phần sắp bắt đầu.
+ Kiểm tra nhằm mục đích đánh giá thành tích kết quả học tập hoặc
nhằm nghiên cứu đánh giá mục tiêu phương pháp dạy học.
+ Kiểm tra đánh giá nhằm mục đích dạy học: Bản thân việc kiểm tra
đánh giá nhằm định hướng hoạt động chiếm lĩnh kiến thức cần dạy.
- Mục đích đánh giá trong đề tài này là:
+ Xác nhận kết quả nhận biết, hiểu, vận dụng theo mục tiêu đề ra.
+ Xác định xem khi kết thúc một phần của dạy học, mục tiêu của dạy
học đã đạt đến mức độ nào so với mục tiêu mong muốn.

+ Tạo điều kiện cho người dạy nắm vững hơn tình hình học tập của học
sinh giúp giáo viên giảng dạy tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học vật lý.
1.1.3.Chức năng của kiểm tra đánh giá. 14 
Chức năng của kiểm tra đánh giá được phân biệt dựa vào mục đích kiểm
tra đánh giá. Các tác giả nghiên cứu kiểm tra đánh giá nêu ra các chức năng
khác nhau.
GS. Trần Bá Hoành đề cập ba chức năng của đánh giá trong dạy học:
Chức năng sư phạm, chức năng xã hội, chức năng khoa học.
GS.TS Phạm Hữu Tòng, trong thực tiễn dạy học ở phổ thông thì chủ yếu
quan tâm đến chức năng sư phạm, được chia nhỏ thành ba chức năng: Chức
năng chuẩn đoán; chức năng chỉ đạo, định hướng hoạt động học; chức năng
xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học.
6


+ Chức năng chuẩn đoán.
Các bài kiểm tra, trắc nghiệm có thể sử dụng như phương tiện thu lượm
thông tin cần thiết cho việc xác định hoặc việc cải tiến nội dung, mục tiêu và
phương pháp dạy học.
Dựa trên kết qủa kiểm tra đánh giá kiến thức ta biết rõ trình độ xuất phát
của người học để điều chỉnh nội dung phương pháp dạy học cho phù hợp, cho
phép đề xuất định hướng bổ khuyết những sai sót, phát huy những kết quả
trong cải tiến hoạt động dạy học đối với những phần kiến thức đã giảng dạy.
Dùng các bài kiểm tra đánh giá khi bắt đầu dạy học một học phần để
thực hiện chức năng chuẩn đoán.
+ Chức năng định hướng hoạt động học.
Các bài kiểm tra, trắc nghiệm kiểm tra trong quá trình dạy học có thể
được sử dụng như phương tiện, phương pháp dạy học. Đó là các câu hỏi
kiểm tra tùng phần, kiểm tra thường xuyên được sử dụng để chỉ đạo hoạt động

học.
Các bài trắc nghiệm được soạn thảo công phu, nó là một cách diễn đạt
mục tiêu dạy học cụ thể đối với các kiến thức, kĩ năng nhất định. Nó có tác
dụng định hướng hoạt động học tập tích cực của học sinh. Việc thảo luận các
câu hỏi trắc nghiệm được tổ chức tốt, đúng lúc nó trở thành phương pháp dạy
học tích cực, sâu sắc và vững chắc, giúp người dạy kịp thời điều chỉnh, bổ
sung hoạt động dạy có hiệu quả.
+ Chức năng xác nhận thành tích học tập, hiệu quả dạy học.Các bài kiểm
tra trắc nghiệm sau khi kết thúc dạy một phần được sử dụng để đánh giá thành
tích học tập, xác nhận trình độ kiến thức, kĩ năng của người học.
Với chức năng này đòi hỏi nội dung các bài kiểm tra trắc nghiệm và các
tiêu chí đánh giá, căn cứ theo các mục tiêu dạy học cụ thể đã xác định cho từng
kiến thức kĩ năng. Các bài kiểm tra trắc nghiệm như vậy có thể được sử dụng
để nghiên cứu đánh giá mục tiêu dạy học và hiệu quả của phương pháp dạy học.
1.1.4.Các yêu cầu sư phạm đối với việc kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh. 13
1.1.4.1.Đảm bảo tính khách quan trong quá trình đánh giá.
7


- Là sự phản ánh trung thực kết quả lĩnh hội nội dung tài liệu học tập của

8


học sinh so với yêu cầu chương trình qui định.
- Nội dung kiểm tra phải phù hợp với các yêu cầu chương trình qui định.
- Tổ chức thi phải đảm bảo tính nghiêm túc, công bằng và dân chủ.
Để đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra, đánh giá từ khâu ra đề, tổ
chức thi tới khâu cho điểm, xu hướng chung là tuỳ theo đặc trưng môn học mà

lựa chọn hình thức thi thích hợp.
1.1.4.2.Đảm bảo tính toàn diện.
Trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phải chú
ý đánh giá cả số lượng và chất lượng cả nội dung và hình thức.
1.1.4.3.Đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống.
- Cần kiểm tra, đánh giá học sinh liên tục, thường xuyên trong mỗi tiết
học, sau mỗi phần kiến thức, mỗi chương và học kì.
- Các câu hỏi kiểm tra cần có tính lôgíc và hệ thống.
1.1.4.4.Đảm bảo tính phát triển.
- Hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng.
- Trân trọng sự cố gắng của học sinh, đánh giá cao những tiến bộ trong
học tập của học sinh.
1.1.5.Nguyên tắc chung cần quán triệt trong kiểm tra đánh giá. 13
Để đảm bảo tính khoa học của việc kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng
thì việc đó phải được tiến hành theo một qui trình hoạt động chặt chẽ.Qui trình
này gồm:
- Xác định rõ mục đích kiểm tra đánh giá.
- Xác định rõ nội dung cụ thể của các kiến thức kĩ năng cần kiểm tra
đánh giá, các tiêu trí cụ thể của mục tiêu dạy học với từng đơn vị kiến thức kĩ
năng đó, để làm căn cứ đối chiếu các thông tin cần thu. Việc xác định nội
dung kiến thức cần chính xác, cụ thể, cô động. Việc xác định các mục tiêu,
tiêu chí đánh giá cần dựa trên quan niệm rõ ràng về mục tiêu dạy học.
- Xác định rõ hình thức kiểm tra phù hợp với đặc điểm của nội dung
kiến thức kĩ năng cần kiểm tra, phù hợp với mục đích kiểm tra. Cần nhận rõ
ưu nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra để có thể sử dụng phối hợp và tìm
9


biện pháp phát huy ưu điểm và khắc phục tối đa các nhược điểm của mỗi hình
thức đó.

- Xây dựng các câu hỏi, các đề bài kiểm tra, các bài trắc nghiệm cho
phép thu lượm các thông tin tương ứng với các tiêu chí đã xác định.
- Tiến hành kiểm tra, thu lượm thông tin, xem xét kết quả và kết luận đánh
giá.
1.1.6.Các hình thức kiểm tra đánh giá cơ bản. 13
Ta chỉ đi sâu nghiên cứu loại trắc nghiệm viết được chia thành hai loại.
Luận đề và trắc nghiệm khách quan đều là những phương tiện kiểm tra
khả năng học tập và cả hai đều là trắc nghiệm.Danh từ “luận đề” ở đây không
chỉ giới hạn trong phạm vi các bài “ luận văn” mà nó bao gồm các hình thức
khảo sát khác thông thường trong lối thi cử, chẳng hạn như những câu hỏi lý
thuyết, những bài toán.Các chuyên gia đo lường gọi chung các hình thức kiểm
tra này là “trắc nghiệm loại luận đề” cho thuận tiện để phân biệt với loại trắc
nghiệm gọi là “trắc nghiệm khách quan”.Thật ra việc dùng danh từ “khách
quan” này để phân biệt hai loại kiểm tra nói trên cũng không đúng hẳn, vì trắc
nghiệm luận đề không nhất thiết là trắc nghiệm “chủ quan” và trắc nghiệm
khách quan không phải là hoàn toàn “khách quan”.
Giữa luận đề và trắc nghiệm khách quan có một số khác biệt và tương
đồng, song quan trọng là cả hai đều là những phương tiện khảo sát thành quả
học tập hữu hiệu và đều cần thiết miễn là ta nắm vững phương pháp soạn thảo
và công dụng của mỗi loại.
Với hình thức luận đề việc kiểm tra thường bộc lộ nhiều nhược điểm là
không phản ánh được toàn bộ nội dung, chương trình, gây tâm lý học tủ và khi
chấm bài giáo viên còn nặng tính chủ quan vì thế để nâng cao tính khách quan
trong kiểm tra đánh giá nhiều tác giả cho rằng nên sử dụng trắc nghiệm khách
quan. Nhìn chung nếu xây dựng và sử dung có hiệu quả hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm khách quan thì góp phần vào khắc phục những hạn chế của hình thức
kiểm tra, thi tự luận.

1
0



1.2.Mục tiêu dạy học. 14 
1.2.1.Tầm quan trọng của các mục tiêu dạy học.
- Xác định được phương hướng, tiêu chí để quyết định về nội dung,
phương pháp, phương tiện dạy học.
- Có được lý tưởng rõ ràng về cái cần kiểm tra đánh giá khi kết thúc mỗi
môn học, học phần hay trong quá trình giảng dạy từng kiến thức cụ thể.
- Thông báo cho người học biết những cái mong đợi ở đầu ra của sự học
là gì? Điều này giúp họ tự tổ chức công việc học tập của mình.
- Có được ý tưởng rõ ràng về các kiến thức, kĩ năng, thái độ cần có của
giáo viên.
1.2.2.Cần phát biểu mục tiêu như thế nào?
Các câu phát biểu mục tiêu cần:
- Phải rõ ràng, cụ thể, chính xác, khoa học.
- Phải đạt tới được trong khoá học hay đơn vị học tập.
- Phải bao gồm nội dung học tập thiết yếu của môn học.
- Phải qui định rõ kết quả của việc học tập, nghĩa là các khả năng mà
người học sẽ có được khi họ đã đạt đến mục tiêu.
- Phải đo lường được.
- Phải chỉ rõ những gì người học có thể làm được vào cuối giai đoạn học
tập.
1.2.3.Phân biệt các mục tiêu nhận thức.
Các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều cách phân loại các mục tiêu khác
nhau. Ba mục tiêu lớn thường được khảo sát bằng các bài trắc nghiệm ở lớp
học là: Nhận biết- Thông hiểu- Vận dụng.
1.2.3.1.Nhận biết.
Trình độ này thể hiện ra ở khả năng nhận ra được, nhớ lại được, phát biểu
lại được đúng sự trình bày kiến thức đã có, giải đáp được câu hỏi thuộc dạng
“A là gì? Thế nào? Thực hiện A như thế nào?”.

Trong vật lý câu hỏi kiểm tra trình độ này là những câu hỏi đòi hỏi: Ghi

1
1


nhớ một định luật, một qui tắc, nhận biết các dấu hiệu của một sự vật, hiện
tượng, ghi nhớ các công thức đơn vị đo.

1
2


1.2.3.2.Thông hiểu ( áp dụng kiến thức giải quyết tình huống quen thuộc).
Trình độ này bao gồm cả nhận biết, nhưng ở mức cao hơn là trí nhớ, nó
liên quan tới ý nghĩa và các mối liên hệ của những gì học sinh đã biết, đã học.
Khi học sinh lặp lại đúng một định luật vật lý chứng tỏ học sinh biết định
luật ấy. Nừu học sinh ấy giải thích được ý nghĩa của những khái niệm quan
trọng trong định luật, hay minh hoạ bằng một ví dụ về các mối liên hệ biểu thị
bởi định luật đó thì có nghĩa là học sinh đã hiểu định luật này.
- Sự thông hiểu khái niệm.
Đòi hỏi học sinh phải giải thích được khái niệm bằng ngôn ngữ của riêng
mình. Câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm trình độ này phải được diễn đạt
bằng thứ
ngôn ngữ khác những gì đã được viết trong sách giáo khoa.
- Sự thông hiểu các ý tưởng phức tạp.
Mục tiêu loại này đòi hỏi các quá trình suy luận phức tạp, nó được chứng
tỏ bằng khả năng giải thích mối liên hệ giữa các yếu tố. Những câu trắc
nghiệm thuộc loại này yêu cầu học sinh phải.
+ Giải thích

+ Phân biệt các sự kiện phù hợp ( hay không phù hợp ) giữa sự kiện và
quan điểm.
+ Lựa chọn thông tin cần thiết để giải quyết một vấn đề.
+ Suy diễn từ các dự kiện đã cho.
Trong vật lý loại câu hỏi kiểm tra trình độ này thường là: Giải thích một
hiện tượng, vận dụng các định luật, định lý, qui tắc để giải quyết các bài toán
quen thuộc.
1.2.3.3.Vận dụng sáng tạo.
Khả năng vận dụng được đo lường khi một tình huống mới được tình bày
ra, người học phải quyết định nguyên lý nào cần được áp dụng như thế nào
trong tình huống như vậy. Giải quyết câu hỏi: Các A nào giải quyết X và giải
quyết như thế nào?
10


1.3. Phương

pháp

và kỹ thuật trắc nghiệm khách quan nhiều

lựa chọn. 13
1.3.1.Các hình thức trắc nghiệm khách quan.
1.3.1.1.Trắc nghiệm điền khuyết.
Có thể có hai dạng, chúng có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn, hay
cũng có thể gồm những câu phát biểu với một hay nhiều chỗ trống mà học
sinh phải điền vào một từ hay một cụm từ.
-Ưu điểm: Thí sinh có cơ hội trình bầy những câu trả lời phát huy óc
sáng tạo của học sinh, phương pháp chấm điểm nhanh và tin cậy hơn, mất cơ
hội đoán mò, luyện trí nhớ.

- Nhược điểm: Chấm bài mất nhiều thời gian, thiếu yếu tố khách quan
khi chấm điểm, phạm vi các vấn đề khảo sát hẹp, không có khả năng kiểm tra
phát hiện sai lầm của học sinh.
1.3.1.2.Trắc nghiệm đúng- sai.
Loại này được trình bầy dưới dạng một phát biểu và học sinh phải trả lời
bằng cách chọn( Đ) hay sai ( S ).
- Ưu điểm: Đây là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm về những
kiến thức. Nó giúp cho việc trắc nghiệm một lĩnh vực rộng lớn trong khoảng
thời gian thi ngắn, soạn nhanh.
- Nhược điểm: Có thể khuyến khích sự đoán mò nên khó có thể xác định
sai lầm chủ yếu của học sinh khi học một kiến thức cụ thể, có độ tin cậy thấp.
Học sinh rễ có thói quen học thuộc lòng vì loại câu hỏi này được giáo viên
trích nguyên văn sách giáo khoa, không gây hứng thú cho học sinh giỏi.
1.3.1.3.Trắc nghiệm ghép đôi ( xứng hợp ).
Là loại rất thông dụng gồm có hai cột, gồm nhóm chữ hay không. Dựa
vào câu hỏi hiểu biết của mình học sinh sẽ ghép chữ, nhóm chữ tương ứng.
Mỗi phần tử trong câu trả lời có thể dùng một hay nhiều lần với một câu hỏi.
- Ưu điểm: Các câu hỏi ghép đôi dễ viết và dễ sử dụng, ít tốn giấy hơn
khi in, giảm được yếu tố may rủi.
- Nhược điểm: Không thích hợp cho việc thẩm định khả năng vận dụng,

11


mất nhiều thời gian đọc.
1.3.1.4.Phương pháp trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn.
Dạng trắc nghiệm khách quan hay dùng nhất là loại trắc nghiệm khách
quan nhiều lựa chọn. Đây là loại câu hỏi mà chúng tôi sử dụng trong hệ thống
chương sau.
Một câu hỏi dạng nhiều lựa chọn gồm hai phần: phần “gốc” và phần “lựa

chọn”.
+ Phần gốc: Là một câu hỏi hoặc là một câu bỏ lửng ( chưa hoàn tất).
Yêu cầu phải tạo căn bản cho sự lựa chọn, bằng cách đặt ra một vấn đề hay
đưa ra một ý tưởng rõ ràng giúp cho người làm bài có thể hiểu rõ câu hỏi ấy
muốn đòi hỏi điều gì để lựa chọn câu trả lời thích hợp.
+ Phần lựa chọn ( thường là 4 hay 5 lựa chọn ) gồm có nhiều giải pháp có
thể lựa chọn, trong đó có một lựa chọn được dự định là đúng, hay đúng nhất,
còn những phần còn lại là những “mồi nhử ”. Điều quan trọng là làm sao cho
những “mồi nhử ” ấy đều hấp dẫn ngang nhau vói những học sinh chưa học kĩ
hay chưa hiểu kĩ bài học.
Trong đề tài, chúng tôi chọn trắc nghiệm khách quan 4 lựa chọn vì theo
chúng tôi nếu ít lựa chọn hơn thì không bao quát được sai lầm của học sinh,
nhiều lựa chọn hơn thì có những mồi thiếu căn cứ.
- Ưu điểm:
+ Tính khách quan khi chấm.
+ Kiểm tra đánh giá những mục tiêu đánh giá khác nhau.
+ Độ tin cậy cao và tốt.
+ Học sinh phải xét đoán và phân biệt kĩ càng trước khi trả lời.
+ Phân tích được tính chất của câu hỏi.
- Nhược điểm:
+ Khó soạn câu hỏi.
+ Thí sinh nào óc sáng tạo có thể tìm ra câu trả lời hay hơn phương án đã
cho, nên họ có thể sẽ không thoả mãn.

12


+ Các câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn có thể không đo được
khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách
hiệu nghiệm bằng loại câu hỏi tự luận soạn kĩ.


13


+ Tốn nhiều giấy để in loại câu hỏi này hơn loại câu hỏi khác, tốn nhiều
thời gian để đọc câu hỏi.
1.3.2.Các giai đoạn soạn thảo một bài trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn.
- Cách tốt nhất để lên kế hoạch cho một bài trắc nghiệm là liệt kê các
mục tiêu giảng dạy cụ thể hay năng lực cần đo lường hay nói cách khác là xác
định rõ mục đích của bài trắc nghiệm.
- Sự phân tích về nội dung sẽ cho ta một bản tóm tắt ý đồ chương trình
giảng dạy được diễn đạt theo nội dung.Những lĩnh vực nào trong các nội dung
đó nên đưa vào trong bài trắc nghiệm đại diện này.
Cần phải suy nghĩ cách trình bày các câu dưới hình thức nào cho hiệu
quả nhất và mức độ khó dễ của bài trắc nghiệm đến đâu.
1.3.2.1.Mục đích của bài trắc nghiệm.
Một bài trắc nghiệm có thể phục vụ nhiều mục đích, nhưng bài trắc
nghiệm lợi ích và hiệu quả nhất khi nó được soạn thảo để nhằm phục vụ cho
mục đích chuyên biệt nào đó.
- Nếu bài trắc nghiệm là một bài thi cuối kì sử dụng để xếp hạng học
sinh thì các câu soạn phải đảm bảo điểm số được phân tán rộng, như vậy mới
phát hiện ra được học sinh giỏi và học sinh kém.
- Nếu bài trắc nghiệm là một bài kiểm tra để sử dụng kiểm tra những
hiểu biết tối thiểu về một phần nào đó thì ta soạn thảo những câu hỏi sao cho
hầu hết học sinh đều đạt được điểm tối đa.
- Nếu bài trắc nghiệm sử dụng trong việc chuẩn đoán, tìm ra những chỗ
mạnh, chỗ yếu của học sinh, giúp cho giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy
phù hợp thì các câu trắc nghiệm được soạn thảo sao cho tạo cơ hội cho học
sinh phạm tất cả sai lầm về môn học nếu chưa học kĩ.

Bên cạnh các mục đích nói trên ta có thể dùng trắc nghiệm với mục đích
luyện tập giúp cho học sinh hiểu thêm bài học và có thể làm quen với nối thi
trắc nghiệm.
Như vậy, trắc nghiệm có thể phục vụ nhiều mục đích, người soạn trắc
14


nghiệm phải biết rõ mục đích của mình thì mới soạn được bài trắc nghiệm có
giá trị vì mục đích chi phối nội dung, hình thức bài trắc nghiệm.
1.3.2.2.Phân tích nội dung môn học.
- Tìm ra những kiến thức, những khái niệm quan trọng trong nội dung
môn học để đưa ra khảo sát trong các câu trắc nghiệm.
- Phân ra hai loại thông tin được trình bày trong môn học.
+ Một là những thông tin nhằm giải nghĩa hay minh hoạ.
+ Hai là những khái niệm quan trọng của môn học, lựa chọn những gì
học sinh cần nhớ.
-

Lựa chọn một số thông tin và ý tưởng đòi hỏi học sinh phải có khả

năng ứng dụng những điều đã biết để giải quyết vấn đề trong tình huống mới.
1.3.2.3.Thiết lập dàn bài trắc nghiệm.
Sau khi nắm vững mục đích của bài trắc nghiệm và phân tích nội dung
môn học ta lập được một dàn bài cho trắc nghiệm. Lập một bảng ma trận hai
chiều, một chiều biểu thị nội dung và chiều kia biểu thị các quá trình tư duy (
mục tiêu ) mà bài trắc nghiệm muốn khảo sát. Số câu hỏi cần được đưa vào
trong mỗi loại phải được xác định rõ và ma trận này phải được chuẩn bị xong
trước khi các câu hỏi trắc nghiệm được viết ra.
Một mẫu dàn bài:
Hiểu

Mục tiêu
Nội dung

Nhận biết
(Số câu)

áp dụng kiến thức

Vận dụng

giải quyết tình

Sáng tạo

huống quen thuộc

(Số câu)
5

20

Tổng
cộng

Khái niệm điện tích

8

(Số câu)
7


Khái niệm điện trường

6

9

5

20

Công của lực điện

3

5

2

10

Tổng cộng

17

21

12

50


15


1.3.2.4.Số câu hỏi trong bài.
- Số câu hỏi được trong bài trắc nghiệm phải tiêu biểu cho toàn thể kiến
thức mà ta đòi hỏi ở học sinh phải có.
- Số câu hỏi phụ thuộc vào thời gian dành cho nó, nhiều bài trắc nghiệm
được giới hạn trong khoảng thời gian một tiết học hoặc kém hơn. Ta có thể giả
định rằng ngay cả những học sinh làm chậm cũng có thể trả lời một câu trắc
nghiệm nhiều lựa chọn trong 1,5 phút.
1.3.3.Một số nguyên tắc soạn thảo những câu TNKQNLC. 13
Câu hỏi thuộc dạng này gồm hai phần: Phần gốc và phần lựa chọn. Phần
gốc là một câu hỏi hay một câu bỏ lửng. Phần lựa chọn gồm một số ( thường
là 4 hoặc 5 ) câu trả lời hay câu bổ sung để lựa chọn.
Viết các câu trắc nghiệm sao cho phân biệt được học sinh giỏi và học
sinh kém.
- Đối với phần gốc: Dù là một câu hỏi hay câu bổ sung đều phải tạo cơ
sở cho sự lựa chọn bằng cách đặt ra một vấn đề hay đưa ra những ý tưởng rõ
ràng giúp cho sự lựa chọn được dễ dàng.
+ Cũng có khi phần gốc là một câu phủ định, trong trường hợp ấy phải in
đậm hoặc gạch dưới chữ diễn tả sự phủ định để học sinh phải nhầm.
+ Phần gốc và phần lựa chọn khi kết hợp phải mang ý nghĩa trọn vẹn, tuy
nhiên nên sắp xếp các ý vào phần gốc sao cho.
. Phần lựa chọn được ngắn gọn.
. Người đọc thấy nội dung cần kiểm tra.
- Đối với phần lựa chọn:
+ Trong 4 hay 5 phương án lựa chọn chỉ có một phương án đúng.
+ Câu lựa chọn không nên quá ngây ngô.
+ Nên tránh 2 lần phủ định liên tiếp.

+ Các câu trả lời phải có vẻ hợp lí.
+ Các câu chọn phải đồng nhất về đồng nghĩa, âm thanh
+ Không nên có những câu hỏi giống hay tương tự sách giáo khoa.
+ Các câu chọn đúng phải được sắp xếp ở các vị trí khác nhau với số lần
16


tương đương.
1.4.Cách trình bày và chấm điểm một bài trắc nghiệm khách quan
nhiều lựa chọn
1.4.1.Cách trình bày.
- Cách 1: Dùng máy chiếu, ta có thể viết bài trắc nghiệm trên phim ảnh
rồi chiếu lên màn ảnh từng phần hay từng câu. Mỗi phần, mỗi câu được chiếu
lên màn ảnh trong khoảng thời gian nhất định đủ cho học sinh bình thường có
thể trả lời được. Cách này có ưu điểm.
+ Kiểm soát được thời gian.
+ Tránh được sự thất thoát đề thi
+ Tránh được phần nào gian lận
+ Đảm bảo tính công bằng trong kiểm tra, đánh giá.
- Cách 2: Thông dụng hơn là in bằng trắc nghiệm ra nhiều bản tương ứng
với số người dự thi. Trong phương án này có hai cách trả lời khác nhau:
+ Bài có dành phần trả lời của học sinh ngay trên đề thi, thẳng ở phía bên
phải hay ở phía bên trái.
+ Bài học sinh phải trả lời bằng phiếu riêng theo mẫu:
Câu 1

A

B


C

D

E

Bỏ trống

Câu 2

A

B

C

D

E

Bỏ trống

.

.

.

.


.

.

.

.

.

.

.

.

.

.

- Lưu ý khi in bài trắc nghiệm.
+ Tránh in sai, in không rõ ràng, thiếu sót
+ Cần được trình bày rõ ràng dễ đọc
+ Cần làm nổi bật phần gốc, phần lựa chọn, cần xếp các câu theo hàng
hoặc theo cột cho dễ đọc
+ Để tránh sự gian lận của học sinh ta có thể in thành những bộ bài trắc
nghiệm với những câu hỏi giống nhau nhưng thứ tự các câu hỏi bị đảo lộn.
17



1.4.2.Chuẩn bị học sinh.
- Báo trước cho học sinh ngày giờ thi, hình thức, nội dung thi. Huấn
luyện cho học sinh về cách thi trắc nghiệm, nhất là trong trường hợp học sinh
dự thi lần đầu.
- Phải nhắc nhở học sinh trước khi làm bài.
+ Học sinh phải lắng nghe và đọc kĩ càng những lời chỉ dẫn cách làm bài
trắc nghiệm.
+ Học sinh phải được biết về cách tính điểm.
+ Học sinh phải được nhắc nhở phải đánh dấu các câu lựa chọn một cách
rõ ràng, sạch sẽ.
+ Học sinh cần được khuyến khích trả lời tất cả các câu hỏi dù không
hoàn toàn chắc chắn.
+ Học sinh nên bình tĩnh khi làm bài trắc nghiệm không nên lo nắng quá.
+ Trang bị cho học sinh những kĩ thuật làm bài thi trắc nghiệm.
1.4.3.Công việc của giám thị.
- Đảm bảo đúng, đủ thời gian làm bài của học sinh.
- Xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho các học sinh ngồi cạnh nhau không
cùng một mã đề.
- Phát đề thi xen kẽ hợp lý.
- Không cho học sinh mang tài liệu và máy điện thoại vào phòng thi.
1.4.4.Chấm bài.
- Dùng máy chấm bài.
- Dùng máy vi tính chấm bài.
- Nhưng cách chấm bài thông dụng nhất của giáo viên ở lớp học là dùng
bảng đục lỗ. Bảng này có thể dùng một miếng bìa đục lỗ ở những câu trả lời
đúng. Đặt bảng đục lỗ lên trên bảng trả lời, những dấu gạch ở các câu trả lời
đúng hiện qua lỗ.
1.4.5.Các loại điểm của bài trắc nghiệm.
Có hai loại điểm:
- Điểm thô: Tính bằng điểm số cho trên bài trắc nghiệm. Trong bài trắc

18


nghiệm mỗi câu đúng được tính một điểm và câu sai là 0 điểm. Như vậy điểm
thô là tổng điểm tất cả các câu đúng trong bài trắc nghiệm.
- Điểm chuẩn: Nhờ điểm chuẩn có thể so sánh điểm số của học sinh
trong nhiều nhóm hoặc giữa nhiều bài trắc nghiệm của nhiều môn khác nhau.
Công thức tính điểm chuẩn: Z =

x
x
s

Trong đó: x: Điểm thô
x: Điểm thô trung bình của nhóm làm bài trắc nghiệm
s: Độ lệch chuẩn của nhóm ấy
Bất lợi khi dùng điểm chuẩn z là:
+ Có nhiều trị số z âm, gây nhiều khó khăn khi tính toán
+ Tất cả các điểm z đều là số lẻ
Để tránh khó khăn này người ta dùng điểm chuẩn biến đổi T:
+ T = 10Z + 50 ( Trung bình là 50, độ lệch chuẩn là 10 ).
Hoặc V = 4Z ( Trung bình là 10, độ lệch chuẩn là 4 )
+ Điểm 11 bậc ( Từ 0 đến 10 ) dùng ở nước ta hiện nay, ở đây chọn điểm
trung bình là 5, độ lệch tiêu chuẩn là 2 nên V = 2Z + 5.
Ví dụ: Sinh viên có điểm thô là 49; điểm trung bình của nhóm học sinh
làm bài trắc nghiệm là 31,56; độ lệch tiêu chuẩn là 8,64. Ta có:
+ Điểm tiêu chuẩn Z:
Z=

(49 


31,56)
8,64

= 2,027

+ Điểm chuẩn T:
T = 10Z + 50 = 10.2,027 + 50 = 70,27
+ Điểm V:
V = 2Z + 5 = 2.2,027 + 5 = 9,054
- Cách tính điểm trung bình thực tế và trung bình lý thuyết của bài trắc
nghiệm
+ Trung bình thực tế: Tổng số điểm thô toàn bài trắc nghiệm của tất cả
19


mọi người làm bài trong nhóm chia cho tổng số người. Điểm này tuỳ thuộc
vào bài làm của từng nhóm.

20


=  x

x

i

N


+ Trung bình lý thuyết: Là trung bình cộng của điểm tối đa có thể có với
điểm may rủi có thể làm đúng ( số câu chia số lựa chọn ). Điều này không
thay đổi với một bài trắc nghiệm cố định.
Ví dụ: Một bài có 50 câu hỏi, mỗi câu có 4 lựa chọn, ta có
Điểm may rủi:

50
= 12,5
4

Trung bình lý thuyết:

12,5  50
= 31,25
2

1.5.Phân tích câu hỏi. 13
1.5.1.Mục đích của phân tích câu hỏi.
- Kết quả bài kiểm tra giúp giáo viên đánh giá mức độ thành công của
công việc giảng dạy và học tập để thay đổi phương pháp lề lối làm việc.
- Để xem học sinh trả lời mỗi câu như thế nào, và từ đó sửa lại các câu
hỏi để bài trắc nghiệm có thể đo lường thành quả khả năng học tập một cách
hữu hiệu hơn.
1.5.2.Phương pháp phân tích câu hỏi.
Phương pháp phân tích câu hỏi của một bài trắc nghiệm thành quả học
tập chúng ta thường so sánh câu trả lời của học sinh ở mỗi câu hỏi với điểm số
chung toàn bài. Chúng ta mong có nhiều học sinh ở nhóm điểm cao và ít học
sinh ở nhóm điểm thấp trả lời đúng mỗi câu hỏi. Nếu kết quả không như vậy,
có thể câu hỏi viết chưa chuẩn hoặc vấn đề chưa được dạy đúng mức.
Để xét mối tương quan giữa cách trả lời mỗi câu hỏi với điểm tổng quát

chúng ta có thể lấy 25- 27% học sinh có nhóm điểm cao nhất và 25- 27% học
sinh có nhóm điểm thấp nhất.
Chúng ta đếm số câu trả lời cho mỗi câu hỏi trong bài trắc nghiệm. ở mỗi
câu hỏi cần biết có bao nhiêu học sinh trả lời đúng, bao nhiêu học sinh chọn
mỗi câu sai, bao nhiêu học sinh không trả lời. Khi đếm sự phân bố các câu trả
lời như thế ở các nhóm có điểm cao, điểm thấp và điểm trung bình ta sẽ suy ra:


- Mức độ khó của câu hỏi
- Mức độ phân biệt nhóm giỏi và nhóm kém của mỗi câu hỏi
- Mức độ lôi cuốn của các câu mồi
Sau khi chấm một bài trắc nghiệm chúng ta thực hiện các giai đoạn sau đây.
- Sắp xếp các bài làm theo tổng số điểm từ cao xuống thấp
- Chia tập bài ra 3 phần:
+ Phần 1: 25% hoặc 27% những bài điểm cao
+ Phần 2: 50% hoặc 46% bài trung bình
+ Phần 3: 25% hoặc 27% những bài điểm thấp
- Lập một bảng có dạng như sau:
Câu hỏi
số

Số người

Câu trở

Tổng số

Số giỏi

lời để


Nhóm

Nhóm

Nhóm

người

trừ số

chọn

giỏi

TB

kém

chọn

kém

A
B
C*

1

D

Bỏ trống
Tổng ộng
+ Ghi các số đã thống kê được trên bài chấm vào bảng với từng nhóm và

từng câu
+ Hoàn thiện bảng đã lập
+ Cột số giỏi trừ số kém có thể có giá trị âm, tổng đại số ở cột này bằng 0
1.5.3.Giải thích kết quả.
1.5.3.1.Phân tích sự phân bố số người chọn các câu trả lời cho mỗi câu hỏi.
- Phân tích xem câu mồi có hay không, có hiệu nghiệm không. Nếu cột
cuối cùng có giá trị âm và trị tuyệt đối càng lớn thì mồi càng hay. Nếu cột
cuối bằng 0 cần xem xét lại câu mồi đó vì nó không phân biệt được nhóm giỏi
và nhóm kém, câu trả lời đúng bao giờ cũng có giá trị dương cao.
20


×