Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.08 KB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP HỒ CHÍ MINH
PHÂN HIỆU NINH THUẬN
------

Báo cáo tiểu luận:
Phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh
tế trang trại tại tỉnh Ninh Thuận
ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................

Ninh Thuận, tháng 12 năm 2014
..................................................................................................................................................................


LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thảo luận, Nhóm chúng em đã hoàn
thành Báo cáo tiểu luận học phần môn Quản trị trang trại với Đề tài tiểu luận “Phân
tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh Ninh Thuận.
Để có được kết quả này, trước hết tập thể Nhóm xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến TS. Nguyễn Tài – giảng viên Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM đã tận
tình trong việc truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích về Quản trị trang trại, Kinh tế trang
trại cũng như hướng dẫn tập thể Nhóm tham gia thực hiện nghiên cứu thành công
Đề tài tiểu luận.


Bên cạnh đó, xin chân thành cảm ơn sự cố gắng và tham gia tích cực trong
quá trình hợp tác nghiên cứu của tất cả các thành viên trong Nhóm.
Trân trọng./.


Mục lục
PHẦN I: MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
I. Tính cấp thiết của đề tài:..................................................................................................1
II. Mục tiêu nghiên cứu:......................................................................................................2
1. Mục tiêu chung:..........................................................................................................2
2. Mục tiêu cụ thể:..........................................................................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG.............................................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI...............................................3
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại...........................................................................3
1.1.1. Khái niệm, phân loại và tiêu chí xác định trang trại...........................................3
1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại:................................................................................8
1.1.3. Tính khách quan hình thành kinh tế trang trại:....................................................9
1.1.4. Những đặc trưng của kinh tế trang trại:.............................................................10
1.2. Một số vấn đề cơ bản trong quản trị trang trạng:..................................................11
1.3. Tổng quan về kinh tế trang trại ở Việt Nam..........................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TẠI TỈNH
NINH THUẬN........................................................................................................................21
2.1. Khái quát về tỉnh Ninh Thuận:..............................................................................21
2.1.1. Vị trí địa lý:........................................................................................................21
2.1.2. Địa hình:.............................................................................................................21
2.1.3. Khí hậu:..............................................................................................................22
2.1.4. Tài nguyên nước.................................................................................................22
2.1.5. Tài nguyên đất....................................................................................................24
2.1.6. Nguồn lao động..................................................................................................26
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh Ninh Thuận.................................27

2.3. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh Ninh Thuận:....................34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TẠI TỈNH NINH
THUẬN....................................................................................................................................38
3.1. Quan điểm phát triển:................................................................................................38
3.2. Phương hướng phát triển:..........................................................................................38
3.3. Giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh Ninh Thuận....................39
3.3.1. Công tác quy hoạch............................................................................................39
3.3.2. Chính sách về đất đai.........................................................................................39
3.3.3. Chính sách thuế ưu đãi riêng cho đầu tư kinh tế trang trại................................40
3.3.4. Chính sách về đầu tư và tín dụng.......................................................................40


3.3.5. Chính sách về lao động, đào tạo nguồn nhân lực...............................................41
3.3.6. Chính sách về thị trường và xúc tiến thương mại..............................................41
3.3.7. Chính sách về khoa học công nghệ....................................................................42
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...........................................................................44
1. Kết luận...........................................................................................................................44
2. Kiến nghị.........................................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................46

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong tiến trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã xác định hộ nông dân là chủ
thể kinh tế: tức phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Từ đó đã
tạo góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa nông sản, thủy sản và dịch vụ gia đình
nông thôn. Đời sống nông dân được cải thiện đáng kể như một bộ phận nông dân,
ngư dân giàu có xuất hiện.
Điều đó cho thấy với cơ chế tự chủ trong sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ
ở nông thôn đã giữ vị trí rất lớn thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp
trong thời gian qua. Trong sự nghiệp phát triển đó, một bộ phận nông dân có ý thức

kinh doanh, có kinh nghiệm hơn về sản xuất hàng hóa nên đã tự tạo ra nguồn vốn và
sức lao động vươn lên thành những chủ thể trang trại với quy mô lớn, hình thành
nên một nền kinh tế trang trại với nhiều thành công bước đầu trong công cuộc đổi
mới, đặc biệt là đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành
phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là trạng trại hộ gia đình nông dân và phần
lớn trang trại tập trung phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Có thể nói,
sự phát triển kinh tế trang trại đã, đang và sẽ đóng góp to lớn khối lượng nông sản
được sản xuất, đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước, mặt khác nó còn đóng vai trò
cơ bản trong tiến trình hội nhập với kinh tế quốc tế, với sản lượng và kim ngạch
xuất khẩu hàng năm đều tăng trưởng tích cực và ổn định, không những đem lại lợi
nhuận cho trang trại, mà còn cải thiện đáng kể thu nhập của những người lao động
trong các trang trại.
Trong xu thế đó, kinh tế trang trại của tỉnh Ninh Thuận trong những năm qua
cũng đạt được nhiều thành công đáng kể như các trang trại Nho, Tỏi, Cừu, Bò, Dê.
Dựa trên đặc điểm khí hậu và địa hình đặc trưng của Ninh Thuận, các trang trại đã
vận dụng sáng tạo nguồn vốn, nguồn nhân lực để đầu tư, phát triển sản xuất hàng
hóa đem lại hiệu quả cao, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, thúc
đẩy tiến trình phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh nhà.


Tuy nhiên, định hướng kinh tế trang trại ở tỉnh Ninh Thuận vẫn chưa thật sự
phát triển ổn định bởi còn mang tính tự phát, đa phần các trang trại còn hạn chế về
quy mô, kỹ thuật, nhân lực, nguồn vốn…Trên thực tế đó, để tạo nên bức tranh tổng
thể về thực trạng trên đi đến thảo luận, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại
ở tỉnh Ninh Thuận, nhóm đã chọn đề tài:
“Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại
tại tỉnh Ninh Thuận”.

II. Mục tiêu nghiên cứu:

1. Mục tiêu chung:
Nghiên cứu, đánh giá về thực trạng kinh tế trang trại ở tỉnh Ninh Thuận, từ
đó đưa ra những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Ninh
Thuận.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Nắm rõ các cơ sở lý luận về kinh tế trang trại.
- Tổng quan về kinh tế trang trại của Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Ninh Thuận.
- Thảo luận đưa ra những giải pháp cho sự phát triển loại hình kinh tế trang
trại tại tỉnh Ninh Thuận.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại
1.1.1. Khái niệm, phân loại và tiêu chí xác định trang trại
1.1.1.1. Khái niệm về trang trại:
FAO (1997), đã đưa ra khái niệm trang trại trên cơ sở khái niệm nông trại:
Trang trại là nông trại có qui mô lớn và tập trung vào sản xuất hàng hóa để bán ra
thị trường nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận.
Theo FAO, nông trại (Farm) là một mảnh đất mà trên đó nông hộ thực hiện
các hoạt động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ. Nông trại ở khu
vực châu Á được chia thành 6 loại hình cơ bản theo mục đích sản xuất, diện tích đất
đai và mức độ phụ thuộc khác nhau.
a. Nông trại gia đình qui mô nhỏ sản xuất theo hướng tự cấp tự túc:
Đối với nông trại thuộc loại này, "tự cấp tự túc" (sản xuất để tiêu thụ gia
đình) là mục tiêu chủ yếu của nông trại. Có thể có sản phẩm để bán nhưng không
đáng kể. Nông trại thuộc loại này thường độc lập với bên ngoài (không chịu tác
động của thị trường).
b. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, một phần sản xuất hàng hóa:

Mục tiêu của nông trại thuộc loại này là tiêu thụ gia đình thông qua việc sản
xuất các nông sản phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của gia đình và thu nhập tiền
mặt thông qua việc bán sản phẩm dư thừa so với yêu cầu tiêu dùng gia đình.
c. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, sản xuất chuyên môn hóa và độc lập:


Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là chuyên môn hóa trong một số hoạt
động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi cụ thể. Mục tiêu của nông trại loại này cũng bao
gồm sản xuất hàng hóa và tiêu thụ gia đình nhưng ở mức độ chuyên môn hóa.
d. Nông trại gia đình qui mô nhỏ, chuyên môn hóa sản xuất nhưng phụ
thuộc:
Tương tự như loại hình trang trại 3 nhưng có một khác biệt cơ bản là hộ gia
đình ít có quyền lực trong việc ra quyết định sản xuất của nông trại. Điều này do
một số lý do sau:
- Đất sản xuất của nông trại không thuộc quyền sở hữu của gia đình mà được
thuê mướn từ các chủ đất khác.
- Hộ gia đình phải vay mượn các đầu vào cho sản xuất từ các doanh nghiệp
và sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của các doanh nghiệp.
- Chịu sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động sản xuất của gia đình (ví dụ
như qui hoạch vùng sản xuất…).
e. Nông trại gia đình sản xuất hàng hóa với qui mô lớn:
Nông trại loại này có qui mô như một trang trại và người hưởng lợi của nông
trại là các thành viên trong gia đình, cũng là chủ nông trại mà không phải là người
ngoài gia đình làm chủ và hưởng lợi. Mục tiêu hoạt động của nông trại loại này là
lợi nhuận thông qua sản xuất hàng hóa bán ra thị trường.
f. Trang trại sản xuất hàng hóa.
Đặc trưng của nông trại thuộc loại này là sản xuất chuyên canh, hoặc đa canh
trên diện tích nông trại lớn từ 20 - 2000 ha. Người hưởng lợi chủ yếu của nông trại
là người chủ nông trại, họ chỉ làm công tác quản lý, không tham gia lao động trực
tiếp trên nông trại. Lao động cho nông trại hoàn toàn được thuê mướn. Lợi nhuận là

mục tiêu hàng đầu của các nông trại loại này. Loại hình nông trại e và f được xem
như là trang trại.
Như vậy, trang trại là nông trại có qui mô lớn và tập trung vào sản xuất hàng
hóa để bán ra thị trường nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận.
Ở nước ta hiện nay, có nhiều nhận thức và quan điểm khác nhau về trang
trạimvà kinh tế trang trại:
Ban kinh tế Trung ương cho rằng “Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế
trong nông- lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên có sở phát triển kinh tế
hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ rệt”.


Tác giả Nguyễn Thế Nhã cho rằng "Trang trại là một loại hình tổ chức sản
xuất cơ sở trong nông, lâm, thủy sản có mục đích chính là sản xuất hàng hóa, có tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất
được tiến hành trên quy mô ruộng đất với các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ
thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”.
Tiến sĩ Nguyễn Tài - Trường Đại học công nghiệp thực phẩm TP-HCM và
Đại học Nông Lâm TP-HCM căn cứ trên thuộc tính cơ bản của các tổ chức doanh
nghiệp và trang trại đã được các nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế khẳng định thì
cho rằng: “Trang trại là một tổ chức kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp có các
nguồn lực của tổ chức mang tính đặc trưng và tiên tiến ,Chính tính chất này cho
phép trang trại ứng dụng các tiến bộ khoa học kỷ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp,
cớ giới hóa ,hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách hiệu quả,đồng thời cũng nhờ tính chất
này mà sản xuất của trang trại lại càng nâng cao tính sản xuất hàng hóa hơn . Hay
có thể nói “Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế trong sản xuất nông nghiệp mang
loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn”.
1.1.1.2. Phân loại trang trại:
a. Phân loại theo nguồn gốc hình thành:
- Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các trang

trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc, địa chủ.
- Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn ra sự
phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về quy mô và
kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại.
- Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp tư bản: Các nhà tư bản đầu tư vốn
vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất đai và thuê
lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các trang trại.
Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng giới hạn
trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc theo hướng xuất
khẩu.
b. Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:
- Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi
gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.
- Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo sức
cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước.


- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức theo
nguyên tắc công ty cổ phần.
- Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn
bè quản lý điều hành sản xuất.
c. Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.
- Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một
ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.
d. Phân loại theo nguồn thu nhập:
- Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang
giảm dần.

- Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường kinh
doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.
e. Phân loại theo phương thức điều hành sản xuất:
- Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang trại
này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.
- Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản xuất:
Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các nước công
nghiệp phát triển.
- Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền
cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.
f. Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:
- Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng công
cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.
- Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt đầu
có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm sản xuất
ra phần lớn dùng để tiêu dùng.
- Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích được
tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu,
sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.


- Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao động
kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu nhập bền
vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.
- Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài, sản
xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.
- Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế giới
trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.
Theo thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13 tháng 04 năm 2011 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn tiêu chí và thủ tục cấp giấy

chứng nhận kinh tế trang trại, đã phân loại như sau:
1. Các trang trại được xác định theo lĩnh vực sản xuất như sau:
a) Trang trại trồng trọt;
b) Trang trại chăn nuôi;
c) Trang trại lâm nghiệp;
d) Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;
đ) Trang trại tổng hợp.
2. Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành
chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm. Trường
hợp không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa thì được
gọi là trang trại tổng hợp.
1.1.1.3. Tiêu chí xác định trang trại:
Theo thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT BNN-TCTK ngày 20/06/2000 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Tổng cục Thống kê hướng dẫn các tiêu
chí xác định trang trại như sau:
a. Giá trị sản lượng hàng hóa và giá trị bình quân một năm đạt từ 40 triệu
đồng trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biền miền Trung, từ 50 triệu đồng trở
lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
b. Có qui mô sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại
địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản.


- Đối với các trang trại trồng cây hàng năm là chủ yếu thì ở miền Bắc và
miền Trung phải có diện tích từ 2 ha canh tác trở lên, còn ở các tỉnh Nam Bộ phải
có diện tích từ 3 ha trở lên.
- Đối với trang trại trồng các loại cây lâu năm và cây ăn quả, thì ở các tỉnh
miền Bắc và miền Trung phải có diện tích từ 3 ha trở lên, ở các tỉnh Nam Bộ phải
có diện tích từ 5 ha trở lên.

- Đối với trang trại chăn nuôi như trâu bò phải có từ 50 con trở lên, lợn 100
con trở lên (không kể lợn sữa dưới 2 tháng, gia cầm có từ 2.000 con trở lên (không
tính số con dưới 7 ngày tuổi)
- Đối với trang trại lâm nghiệp phải có 10 ha đất rừng trở lên.
- Đối với trang trại nuôi trồng thủy sản phải có từ 2 ha diện tích mặt nước trở
lên.
c. Có sử dụng lao động làm thuê thường từ 2 lao động/năm. Nếu lao động
thời vụ thì quy mô qui đổi thành lao động thường xuyên.
d. Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông, lâm, ngư
nghiệp và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại.
e. Lấy sản xuất hàng hóa làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với
trung bình của kinh tế hộ tại địa phương.
Như vậy, nông hộ được xem là cơ sở để hình thành trang trại, một nông hộ
bình thường không được xem là trang trại, khi nông hộ phát triển đến một mức độ
nhất định hội đủ các tiêu chỉ trên sẽ được xem là một trang trại. Tuy nhiên, hiện nay
vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định trang trại và phân biệt giữa trang trại
và nông hộ sản xuất hàng hóa giữa các vùng khác nhau, cho nên cũng là một hình
thức tổ chức kinh tế giống nhau nhưng có nơi gọi là trang trại (như Yên Bái, Bình
Dương, Bình Phước), có nơi gọi là hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp (như Sóc
Trăng). Vì thế mà số lượng trang trại được thống kê trên cả nước thường không
chính xác.
1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại:
Kinh tế trang trại là một khái niệm khác, phân biệt với khái niệm "trang trại".
"Kinh tế trang trại" là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối quan hệ
kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Còn “trang trại” là nói kết
hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của của các mối quan hệ kinh tế
đó, trang trại là nơi diễn ra các mối quan hệ.
Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại
của Chính phủ: Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông



nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao
hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản.
1.1.3. Tính khách quan hình thành kinh tế trang trại:
Từ hộ nông dân tự cung tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hóa kinh tế hộ nông
dân nói riêng và kinh tế nông thôn nông nghiệp nói chung có thể phát triển theo các
xu hướng cơ bản như sau:
- Quá trình hình thành các nông trại hay trang trại gia đình. Sự hình thành
các nông trại hay các trang trại gia đình chính là sự hình thành các cơ sở sản xuất
hàng hóa nông nghiệp. Từ hộ gia đình nông dân tự cung tự cấp, sản xuất mang nặng
tính chất hiện vật sang nền kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa là một lịch sử tiến
hóa lâu dài trong quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm. Và con đường
này không phải của riêng các nước tư bản hay là các nước đang phát triển mà đó là
sự phát triển hợp quy luật của nền nông nghiệp toàn cầu.
- Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho nghề nông thương
phẩm và đời sống của dân cư nông thôn diễn ra cùng với quá trình công nghiệp hóa
nông thôn. Quá trình này làm nảy sinh các quan hệ hoạt động trong các lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật ngoài ruộng đất - tức kinh doanh tách khỏi ruộng đất.
- Quá trình làm tan rã hoàn toàn về mặt kinh tế các hộ nông dân nghèo, hiệu
quả sản xuất thấp (có mức thu nhập dưới ngưỡng tích lũy) cùng với quá trình gia
tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là quá trình phi nông nghiệp, giải
phóng dần cư dân khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đây là nội dung quan trọng
của quá trình phân công lại lao động xã hội và chuyển xã hội nông thôn truyền
thống sang xã hội nông thôn hiện đại.
Ba quá trình trên là những bộ phận khác nhau của cùng một nội dung:
Chuyển kinh tế nông thôn truyền thống sang kinh tế hàng hóa. Có thể xem kinh tế
Trang trại gia đình là một hình thức phát triển cao của kinh tế hộ nông dân, là
hạt nhân, là nhân vật trung tâm trong mối quan hệ đan xen với kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã tạo thành kết cấu kinh tế nhiều thành

phần, đặc trưng cho nền kinh tế nông thôn đang trong quá trình xác lập nền kinh tế
hàng hóa hiện đại.
Kinh tế thị trường có sức sống kỳ diệu của chính sự phát triển. Phát triển
kinh tế hàng hóa sẽ khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, phát huy được tính
sáng tạo của người lao đông. Khác với kinh tế tự nhiên, sản xuất hàng hóa là nhằm
mục đích trao đổi, đáp ứng nhu cầu của người khác do đó kinh tế hàng hóa có ưu
thế là phát triển nhu cầu. Mà nhu cầu chính là động lực để thúc đẩy phát triển kinh
tế, phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, cũng chính từ đó tạo ra


động lực kinh tế cho con người, thúc đẩy làm giàu, phát triển đi lên. Chỉ có sản xuất
hàng hóa mới tạo ra được mục tiêu và động lực rõ ràng cho người sản xuất, dịch vụ
và họ tồn tại vì người khác - người tiêu dùng. Kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển
trên cơ sở phân công lao động xã hộ nhưng đến lượt nó, chính sự phát triển của kinh
tế hàng hóa lại tác động, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội ở trình độ
cao hơn.
Chính kinh tế hàng hóa là yếu tố đảm bảo cho sự hòa nhập giữa kinh tế trong
nước và kinh tế thế giới, có tác dụng nâng cao trình độ quản lý sản xuất, chất lượng
sản phẩm nhằm tạo ra cơ chế động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
và xã hội hóa nền sản xuất.
1.1.4. Những đặc trưng của kinh tế trang trại:
a. Trang trại là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp:
- Trang trại là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết
cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản; đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại
là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao
gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
- Trang trại là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó là dựa trên cơ
sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia đình. Chủ trang trại
(thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia đình trong các quan hệ liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Chủ trang trại là người có

kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường và trực tiếp điều hành sản
xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường.
- Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền sở
hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia đình.
Bằng công sức, tài sản và vốn chung, các thành viên của hộ gia đình tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình thức trang trại gia
đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng những
tài sản chung đó.
- Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất kinh
doanh của trang trại luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai nhất định. Thực tế
cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là trụ sở giao dịch
của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại
gia đình đã mở thêm các địa điểm giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm
tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của mình.


b. Mục đích chủ yếu của trang trại là kinh doanh nông sản phẩm hàng hóa
theo nhu cầu thị trường:
- Đây là đặc đểm quan trọng nhất của trang trại. Mục tiêu của trang trại là
sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế hộ tự cấp tự túc. Trang
trại là một hình thức tổ chức sản xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ
sở kinh tế tự chủ trong cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hóa rõ rệt. Vì
vậy, đặc trưng cơ bản của trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa. Kinh
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hóa và tỷ suất
hàng hóa bán ra trong năm luôn được sử dụng làm thước đo chủ yếu của trang trại.
c. Trong trang trại, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn
được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa:
- Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản

xuất hàng hóa chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung với
quy mô nào đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hóa chỉ có thể được thực hiện
khi ruộng đất, vốn, tư liệu sản xuất,…được tập trung với quy mô đủ lớn.
d. Lao động trong các trang trại chủ yếu dựa trên các thành viên trong hộ,
ngoài ra có thuê mướn lao động:
- Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành
viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như: cha
mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản lý điều hành
linh hoạt, dễ dàng và hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh, trang trại còn phải thuê mướn lao động bên ngoài, nhất là vào thời
vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê mướn lao động trong trang trại tùy thuộc vào
quy mô sản xuất kinh doanh của trang trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động
trong các trang trại: thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ.
e. Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại ngày càng
mang tính khoa học, chuyên nghiệp:
- Đối với trang trại, với mục đích chính là sản xuất hàng hóa và bị chi phối
bởi các yếu tố như lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh, đòi hỏi việc sản xuất phải có
phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết
cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất thâm
canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh…Vì
vậy, việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi
phải dựa trên cơ sở những kiến thức khoa học và ngày càng mang tính chuyên
nghiệp, đi vào chiều sâu.


1.2. Một số vấn đề cơ bản trong quản trị trang trạng:
1.2.1. Khái niệm quản trị:
Quản trị là quá trình thực hiện các tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý để phối hợp hoạt động của các cá nhân và tập thể nhằm đạt các mục tiêu đã
đề ra của tổ chức.

Quản trị là quá trình làm việc với người khác và thông qua người khác để
thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn biến động.
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm người để thực hiện
những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách cá nhân riêng lẻ, thì quản trị
đã trở thành một yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp các hoạt động của các cá
nhân.
Quản trị là tiến trình: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra họat động
của các thành viên trong tổ chức, sử dụng các nguồn lực nhằm đạt đến sự thành
công trong các mục tiêu đề ra của doanh nghiệp. Từ khái niệm này giúp chúng ta
nhận ra rằng, quản trị là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con người kết hợp
với nhau trong một tổ chức. Đó là quá trình nhằm tạo nên sức mạnh gắn liền các
vấn đề lại với nhau trong tổ chức và thúc đẩy các vấn đề chuyển động. Mục tiêu của
quản trị là tạo ra giá trị thặng dư tức tìm ra phương thức thích hợp để thực hiện công
việc nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí các nguồn lực ít nhất.
Nói chung, quản trị là một hình thức phức tạp mà các nhà quản trị kinh
doanh phải quản trị từ khâu đầu đến khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thực chất của quản trị kinh doanh là quản trị các yếu tố đầu vào,
quá trình sản xuất kinh doanh các yếu tố đầu ra theo quá trình hoạt động.
• Theo quá trình quản trị kinh doanh: Công tác quản trị trong doanh nghiệp là
quá trình lập kế họach, tổ chức phối hợp và điều chỉnh các hoạt động của các thành
viên , các bộ phận và các chức năng trong doanh nghiệp nhằm huy động tối đa mọi
nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã đặt ra của tổ chức.
• Theo quan điểm hệ thống quản trị: Quản trị còn là việc thực hành những
hoạt động trong mỗi tổ chức một cách có ý thức và liên tục. Quản trị trong một
doanh nghiệp tồn tại trong một hệ thống bao gồm các khâu, các phần, các bộ phận
có mối liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát
triển.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị trang trại:
1.2.2.1. Yếu tố vi mô:



Bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố ngoại cảnh đối với doanh
nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành kinh doanh đó. Có 5
yếu tố cơ bản là: đối thủ cạnh tranh, người mua, người cung cấp, các đối thủ mới
tiềm ẩn và sản phẩm thay thế.
Vì ảnh hưởng chung của các yếu tố này thường là một sự miễn cưỡng đối với
tất cả các doanh nghiệp, nên chìa khóa để ra được một chiến lược thành công là phải
phân tích từng yếu tố chủ yếu đó. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giúp các
doanh nghiệp nhận ra mặt mạnh và mặt yếu của mình liên quan đến các cơ hội và
nguy cơ mà ngành kinh doanh đó gặp phải.
- Các đối thủ cạnh tranh: Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý
nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Các đối thủ cạnh
tranh quyết định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong
ngành.
- Khách hàng: Vấn đề khách hàng là một bộ phận không tách rời trong môi
trường cạnh tranh. Sự tín nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của
hãng. Sự tín nhiệm đó đạt được do biết thỏa mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng so với với các đối thủ cạnh tranh.
- Nhà cung ứng: Các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung
cấp các nguồn hàng khác nhau, như vật tư, thiết bị, lao động và tài chính.
- Người bán vật tư, thiết bị: Các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị có ưu thế
có thể gây khó khăn bằng cách tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm dịch
vụ đi kèm. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như
các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm. Cụ thể là các yếu tố: số
lượng cung cấp ít; không có mặt hàng thay thế khác và không có nhà cung cấp nào
chào bán các sản phẩm có tính khác biệt.
Nếu người cung cấp có được điều kiện thuận lợi như vậy thì các doanh
nghiệp mua hàng cần kiếm cách cải thiện vị thế của họ bằng cách tác động đến một
hay nhiều yếu tố nói trên. Họ có thể đe dọa hội nhập dọc bằng cách mua lại các cơ
sở cung cấp hàng cho chính họ, hoặc có thể mua giấy phép độc quyền.

- Người cung cấp vốn: Trong những thời điểm nhất định phần lớn các doanh
nghiệp, kể cả các doanh nghiệp làm ăn có lãi, đều phải vay vốn tạm thời từ người
tài trợ. Nguồn tiền vốn này có thể nhận được bằng cách vay ngắn hạn hoặc dài hạn
hoặc phát hành cổ phiều. Khi doanh nghiệp tiến hành phân tích về các tổ chức tài
chính thì trước hết cần chú ý xác định vị thế của mình so với các thành viên khác
trong cộng đồng.
- Nguồn lao động: Nguồn lao động cũng là một phần chính yếu trong môi
trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng thu hút và giữ được các nhân viên


có năng lực là tiền đề để dảm bảo thành công cho doanh nghiệp. Các yếu tố chính
cần đánh giá là đội ngũ lao động chung bao gồm: trình độ đào tạo và trình độ
chuyên môn của họ, mức độ hấp dẫn tương đối của doanh nghiệp với tư cách là
người sử dụng lao động và mức tiền công phổ biến.
- Đối thủ tiềm ẩn mới: Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể
là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng
lực sản xuất mới, với mong muốn giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết.
Cần lưu ý là việc mua lại các cơ sở khác trong ngành với ý định xây dựng phần thị
trường thường là biểu hiện của sự xuất hiện đối thủ mới xâm nhập.
Mặc dù không phải bao giờ doanh nghiệp cũng gặp phải đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn mới, song nguy cơ đối thủ mới hội nhập vào ngành vừa chịu ảnh hưởng
đồng thời cũng có ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Sản phẩm thay thế: Sức ép do có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm
năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới
các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại với các thị trường nhỏ
bé. Thí dụ: như các doanh nghiệp sản xuất máy chơi bóng bàn không chú ý tới sự
bùng nổ của các trò chơi điện tử. Vì vậy, các doanh nghiệp cần không ngừng nghiên
cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn.
Phần lớn sản phẩm thay thế mới là kết quả của cuộc bùng nổ công nghệ.
Muốn đạt được thành công, các doanh nghiệp cần chú ý và dành nguồn lực thích

hợp để phát triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
1.2.2.2. Yếu tố vĩ mô:
Các yếu tố môi trường vĩ mô bao gồm: Các yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị
và luật pháp, yếu tố xã hội, yếu tố tự nhiên và yếu tố công nghệ, yếu tố môi trường
quốc tế. Mỗi yếu tố môi trường vĩ mô nói trên có thể ảnh hưởng đến tổ chức một
cách độc lập hoặc trong mối liên kết với các yếu tố khác.
- Các yếu tố kinh tế:
Các ảnh hưởng chủ yếu về kinh tế gồm các yếu tố như lãi suất ngân hàng,
giai đoạn của chu kỳ kinh tế, cán cân thanh toán, chính sách tài chính và tiền tệ. Vì
các yếu tố này tương đối rộng nên cần chọn lọc để nhận biết các tác động cụ thể ảnh
hưởng trực tiếp nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các doanh nghiệp kinh
doanh. Chẳng hạn như lãi suất và xu hướng lãi suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng
tới xu thế của tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư, do vậy sẽ ảnh hưởng tới họat động của
các doanh nghiệp. Lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng
họat động kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra khi lãi


suất tăng cũng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do vậy
cũng sẽ làm cho nhu cầu cầu tiêu dùng giảm xuống.
Xu hướng của tỷ giá hối đoái: Sự biến động của tỷ giá làm thay đổi những
điều kiện kinh doanh nói chung, tạo ra những cơ hội đe dọa khác nhau đối với các
doanh nghiệp, đặc biệt nó có những tác động điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu.
Mức độ lạm phát: lạm phát cao hay thấp có ảnh hưởng đến tốc độ đầu tư vào
nền kinh tế. Khi lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích tiết kiệm và tạo ra những
rủi ro lớn cho sự đầu tư của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút
và làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Trái lại, thiểu phát cũng làm cho nền kinh tế bị
đình trệ. Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác dụng khuyến khích đầu tư
vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng trưởng.
Tuy có nhiều số liệu cụ thể, song việc dự báo kinh tế không phải là một khoa

học chính xác. Một số doanh nghiệp thường sử dụng các mô hình dự báo thay vì
dựa vào các số liệu dự báo sẵn có. Đối với các doanh nghiệp chưa xây dựng được
mô hình đó cũng cần phải xác định các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất đối với
tổ chức.
Các kiến thức kinh tế sẽ giúp các nhà quản trị xác định những ảnh hưởng của
một doanh nghiệp đối với nền kinh tế của đất nước, ảnh hưởng của các chính sách
kinh tế của chính phủ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính ổn định
về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ,
khống chế lạm phát. Đây là những vấn đề các doanh nghiệp rất quan tâm và liên
quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của họ.
- Yếu tố chính trị và luật pháp:
Các yếu tố chính trị và luật pháp có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của
chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, các xu hướng ngoại giao của chính phủ,
những diễn biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Doanh
nghiệp phải tuân theo các quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, an toàn, vật giá,
quảng cáo nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường v.v... .
Luật pháp: Đưa ra những quy định cho phép hoặc không cho phép, hoặc
những ràng buộc đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Chính phủ là cơ quan giám sát, duy trì, thực hiện pháp luật và bảo vệ lợi ích
quốc gia. Chính phủ có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các
chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ, các chương trình chi tiêu của mình. Trong mối
quan hệ với các doanh nghiệp, chính phủ vừa đóng vai trò là người kiểm soát,
khuyến khích, tài trợ, quy định ngăn cấm, hạn chế, vừa đóng vai trò là khách hàng
quan trọng đối với các doanh nghiệp (trong các chương trình chi tiêu của chính


phủ), và sau cùng chính phủ cũng đóng vai trò là nhà cung cấp các dịch vụ cho các
doanh nghiệp: cung cấp các thông tin vĩ mô, các dịch vụ công cộng khác... .
Như vậy, hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ.

Thí dụ, một số chương trình của chính phủ (như biểu thuế hàng ngoại nhập cạnh
tranh, chính sách miễn giảm thuế) tạo cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng hoặc cơ
hội tồn tại. Ngược lại, việc tăng thuế trong một ngành nhất định nào đó có thể đe
dọa đến lợi nhuận của doanh nghiệp .
Nhìn chung, các doanh nghiệp hoạt động được là vì điều kiện xã hội cho
phép. Chừng nào xã hội không còn chấp nhận các điều kiện và bối cảnh thực tế nhất
định, thì xã hội sẽ rút lại sự cho phép đó bằng cách đòi hoi chính phủ can thiệp bằng
chế độ chính sách hoặc hệ thống pháp luật. Thí dụ, mối quan tâm của xã hội đối với
vấn đề ô nhiễm môi trường hoặc tiết kiệm năng lượng được phản ảnh trong các biện
pháp của chính phủ. Xã hội cũng đòi hỏi có các quy định nghiêm ngặt đảm bảo các
sản phẩm tiêu dùng được sử dụng an toàn.
Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hoạt động kinh
doanh. Một chính phủ mạnh và sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của xã
hội sẽ đem lại lòng tin và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã
hội ổn định về chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền
sở hữu các tài sản khác của họ, như vậy họ sẽ sẵn sàng đầu tư với số vốn nhiều hơn
vào các dự án dài hạn. Chính sự can thiệp nhiều hay ít của chính phủ vào nền kinh
tế đã tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn và cơ hội kinh doanh khác nhau cho
từng doanh nghiệp . Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần sớm phát hiện ra những
cơ hội hoặc thách thức mới trong kinh doanh, từ đó điều chỉnh thích ứng các hoạt
động nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận hành, duy trì và đạt được
các mục tiêu đã đặt ra trong kinh doanh. Vấn đề then chốt là cần phải tuân thủ các
quy định có thể được ban hành.
- Yếu tố văn hóa - xã hội:
Môi trường văn hóa - xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp
nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Sự thay đổi của các
yếu tố văn hóa - xã hội một phần là hệ quả của sự tác động lâu dài của các yếu tố vĩ
mô khác, do vậy nó thường biến đổi chậm hơn so với các yếu tố khác. Một số đặc
điểm mà các nhà quản trị cần chú ý là: sự tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội
thường có tính dài hạn và tinh tế hơn so với các yếu tố khác, nhiều lúc khó mà nhận

biết được. Mặt khác, phạm vi tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội thường rất
rộng: "nó xác định cách thức người ta sống, làm việc, sản xuất và tiêu thụ các sản
phẩm và dịch vụ". Các khía cạnh hình thành môi trường văn hóa - xã hội có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các họat động kinh doanh như: những quan niệm về đạo đức,
thẩm mỹ,lối sống, về nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những
quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội... .


Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích rộng rãi các yếu tố xã hội nhằm nhận
biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng
có thể tác động đến doanh nghiệp, như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi
giải trí, chuẩn mực đạo đức và quan điểm về mức sống, cộng đồng kinh doanh và
lao động nữ.
Các yếu tố xã hội học trên thường biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi
thường khó nhận biết. Thí dụ, hiện nay có một số lượng lớn lao động là nữ giới.
Điều nay do quan điểm của nam giới cũng như nữ giới đã thay đổi. Nhưng rất ít
doanh nghiệp nhận ra sự thay đổi quan điểm này để dự báo tác động của nó và đề ra
chiến lược tương ứng. Các thay đổi khác diễn ra nhanh hơn nếu chúng gây ra bởi sự
gián đoạn bên ngoài nào đó trong hành vi chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Trong môi trường văn hóa, các nhân tố nổi lên giữ vai trò đặc biệt quan trọng
là tập quán, lối sống, tôn giáo. Các nhân tố này được coi là "hàng rào chắn" các
hoạt động giao dịch thương mại. Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng có ảnh
hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì ngay cả trong trường hợp hàng hóa thực sự có chất
lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ
chấp nhận. Chính thị hiếu, tập quán người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng
vùng, từng dân tộc và phản ánh yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo của từng địa
phương, từng quốc gia.
Trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, đạo
đức xã hội trong đó có đạo đức kinh doanh được coi là một khía cạnh thiết thực và
quan trọng của môi trường kinh doanh. Đạo đức đặt cương lĩnh cho hoạt động hàng

ngày trong một xã hội và chi phối mọi hành vi và tác phong cá nhân. Đạo đức là
giới hạn ngăn cách những hành vi xấu và là động lực thúc đẩy những hành vi tốt.
Đạo đức có thể coi như một nhu cầu xã hội và vì vậy bất kỳ một thể chế kinh tế nào
cũng phải xây dựng một khuôn khổ đạo đức để làm một trong những nguyên tắc
điều hành.
- Yếu tố tự nhiên:
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên, đất
đai, sông biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên rừng
biển, sự trong sạch của môi trường nước, không khí,... .Tác động của các điều kiệu
tự nhiên đối với các quyết sách trong kinh doanh từ lâu đã được các doanh nghiệp
thừa nhận. Trong rất nhiều trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên trở thành một
yếu tố rất quan trọng để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ.
Tuy nhiên, cho tới nay các yếu tố về duy trì môi trường tự nhiên rất ít được
chú ý tới. Sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách của nhà nước ngày càng
tăng vì công chúng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng môi trường tự nhiên. Các
vấn đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài nguyên thiên
nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến công


chúng cũng như các nhà doanh nghiệp phải thay đổi các quyết định và biện pháp
hoạt động liên quan.
- Yếu tố công nghệ và kỹ thuật:
Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và đe
dọa đối với các doanh nghiệp. Những áp lực và đe dọa từ môi trường công nghệ có
thể là: sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh
của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền thống của ngành hiện hữu.
Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp
lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh
tranh. Sự ra đời của công nghệ mới làm tăng thêm áp lực đe dọa các doanh nghiệp
hiện có trong ngành. Sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công

nghệ có xu hướng rút ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn
thời gian khấu hao so với trước.
Ít có ngành công nghiệp và doanh nghiệp nào mà lại không phụ thuộc vào
cơ sở công nghệ ngày càng hiện đại. Các nhà nghiên cứu phát triển và chuyển giao
công nghệ hàng đầu nói chung đang lao vào công việc tìm tòi các giải pháp kỹ thuật
mới nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại và xác định các công nghệ hiện tại có thể
khai thác trên thị trường.
Các doanh nghiệp cũng phải cảnh giác đối với các công nghệ mới có thể làm
cho sản phẩm của họ bị lạc hậu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Bên cạnh đó, các
nhà quản trị cần lưu ý thêm khi đề cập đến môi trường công nghệ:
Áp lực tác động của sự phát triển công nghệ và mức chi tiêu cho sự phát triển
công nghệ khác nhau theo ngành. Như vậy, đối với những nhà quản trị trong những
ngành bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi kỹ thuật nhanh thì quá trình đánh giá những cơ
hội và đe dọa mang tính công nghệ trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng của việc
kiểm soát các yếu tố bên ngoài.
Một số ngành nhất định có thể nhận được sự khuyến khích và tài trợ của
chính phủ cho việc nghiên cứu và phát triển - khi có sự phù hợp với các phương
hướng và ưu tiên của chính phủ. Nếu các doanh nghiệp biết tranh thủ những cơ hội
từ sự trợ giúp này sẽ gặp được những thuận lợi trong quá trình họat động.
1.3. Tổng quan về kinh tế trang trại ở Việt Nam
1.3.1. Thành tựu đạt được:
Kinh tế trang trại nước ta mở dù còn nhỏ bé những đã góp phần phát huy nội
lực, khơi dậy được tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư, cho đầu tư phát
triển sản xuất nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu vốn của trang


trại chủ yếu là vốn tự có của chủ trang trại chiếm 85%. Phần còn lại là vay ngân
hàng 8%, vay thân nhân 6% và 1% là do liên kết với doanh nghiệp Nhà nước.
Kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, tạo ra các vùng tập trung, chuyên canh, sản xuất hàng hóa làm tiền đề

cho phát triển công nghiệp chế biên nông sản, thực phẩm ; tạo thuận lợi cho việc
đưa công nghiệp, dịch vụ vào nông thôn ,tăng tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
Đến nay nhiều vùng sản xuất tập trung về cây công nghiệp và cây ăn quả
như: Cà phê, điều, hồ tiêu, mía, vải thiều,...về chăn nuôi bò sữa, bò thịt, dê,
cừu,nuôi tôm,... được hình thành phát triển dựa vào phát triển kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại tạo thêm việc làm, góp một phần giải quyết số lao động dư
thừa trong nông thôn, tăng thu nhập cho một phận dân cư, góp phần thúc đẩy việc
nâng cao dân trí và đời sống văn hóa ở nông thôn, đặc biệt là ở vùng trung du, miền
núi, vùng đồng bào dân tộc.
Năm 1997, bình quân giá trị thu hoạch sản phẩm trên 1 ha của nhiều trang
trại khá cao. Một số trang trại trồng hồ tiêu, thu nhập đạt từ 200 đến 500 triệu
đồng/ha; trang trại nuôi tôm đạt từ 80 đến 150 triệu đồng/ha,... Nhờ đó mà nhiều
chủ trang trại đã giàu lên nhanh chóng ; thu nhập của người lao động làm thuê
thường xuyên đạt khoảng 300 dấn 600 ngàn đồng/tháng ; người làm thuê thời vụ
nhận được đến 25000 đồng/ngày.
Kinh tế trang trại gắn với thị trường, phải tham gia cạnh tranh quyết liệt trên
thị trường, chính vì vậy, các trang trại có yêu cầu hợp tác, liên kế lại với nhau với
kinh tế nhà nước về nhiều mặt để có sức cạnh tranh trên thị trường và cùng nhau
chung sức giải quyết các nhu cầu xã hội của người lao động. Mối quan hệ hợp tác sẽ
giúp cho các trang trại vượt qua nhiều khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư cho sản xuất
là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại trong
điều kiện hiện hiện nay.
1.3.1. Những tồn tại:
- Đối với hầu hết các trang trại gia đình, trình độ quản lý của chủ trang trại
còn nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa chú trọng vào việc
áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Hầu hết lao đông làm thuê cho các trang
trại thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật chưa được đào tạo qua các trường lớp.
- Nhiều trang trại còn lúng túng về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp.
Ở Yên Bái, năm 1997, thu nhập bình quân một trang trại chỉ có 14,5 triệu

đồng.


- Các trang trại đều chưa được thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư cách
pháp nhân trong quan hệ giao dịch với cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế
nhất là đối với ngân hàng. Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ
nông dân bình thường, trong khi đó qui mô sản xuất của chủ trang trang trại lớn gấp
trăm thậm chi gấp ngàn lần, nhất là vốn. Thiếu tư cách pháp nhân chủ trang trại chịu
thiệt thòi về nhiều mặt, do đó họ chưa yên tâm và không có điều kiện để mở rộng
sản xuất kinh doanh.
- Các trang trại đều có qui mô ruộng đất vượt quá hạn điền theo quy định của
Luật đất đai hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hóa và
nhận chuyển nhượng từ người khác. Nguồn vốn và lao động của gia đình, nhưng lại
chưa được pháp luật côngnhận. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất
đai vượt quá hạn điền của các trạng trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng phân
tán ruộng đất của các trạng trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn
ra phổ biến.
- Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương, các chủ thể kinh tế
(nông trường, lâm trường, hợp tác xã nông nghiệp) và các hội nông dân trên địa bàn
còn chưa rõ ràng, cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới giữa trang trại và hộ nông
sản xuất giỏi chưa được phân định đúng với thực tế và nói chung là chưa rõ ràng.
- Thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà nước chưa có chính sách tín dụng để hỗ
trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập.
- Thiếu kỹ thuật, hoạt động sản xuất của trang trại còn dựa chủ yếu vào kinh
nghiệm hơn là áp dụng khoa học kỹ thuật, thiếu máy móc, nông cụ và thiêu lao
động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại không có điều kiện đào tạo, bồi
dưỡng trong khi Nhà nước chưa quan tâm.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất.
Hầu hết các trạng trại hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi
đất xấu, địa hình phức tạp, giao thông thủy lợi, điện đều khó khăn. Do đó sản phẩm

làm ra nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển chế biến và tiêu thụ.
- Thị trường và giá cả nông sản chưa ổn định nên nhiều chủ trang trại không
muốn mở rộng qui mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai. lao động vẫn còn.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TẠI
TỈNH NINH THUẬN
2.1. Khái quát về tỉnh Ninh Thuận:
2.1.1. Vị trí địa lý:
Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải Miền Trung, có tọa độ địa lý từ 11 018’14 đến 12009’15” vĩ độ Bắc và từ
109009’08” đến 109014’25” kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Tây
giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Đông giáp biển Đông
với đường bờ biển dài 105 km. Diện tích tự nhiên phần đất liền là 3358 km2 . Về
hành chính, tỉnh có 7 đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh là thành phố Phan Rang-Tháp
Chàm, huyện Bác Ái, Ninh Sơn, Ninh Hải, Ninh Phước, Thuận Bắc và Thuận Nam
(thành lập năm 2009), hiện toàn tỉnh có 65 xã, phường, thị trấn, trong đó: 47 xã, 3
thị trấn và 15 phường.
Trong phạm vi trên, tỉnh Ninh Thuận có quốc lộ 1A, quốc lộ 27 và đường sắt
Thống Nhất chạy qua; cách sân bay quốc tế Cam Ranh khoảng 60km. Trong tương
lai gần, khi đường sắt Thống Nhất (đoạn thành phố Hồ Chí Minh đi Nha Trang)
được nâng cấp và xây mới thành đường sắt cao tốc, tuyến đường sắt Tháp Chàm Đà Lạt được khôi phục và nâng cấp; cùng với các công trình, dự án có qui mô lớn
được triển khai đầu tư trong giai đoạn 2008-2010 và sau năm 2010 như xây dựng
cảng Dốc Hầm, tổ hợp luyện thép, nhà máy điện hạt nhân, các nhà máy điện gió,
khu sản xuất muối công nghiệp và xuất khẩu Quán Thẻ qui mô 2.500 ha, tạo điều
kiện cho Ninh Thuận phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn, thu hẹp
khoảng cách tụt hậu so với cả nước; đẩy mạnh giao thương với quốc tế và các nơi
khác trong cả nước.
Mặt khác, ở vào vị trí địa lý trên, Ninh Thuận nằm trong vùng khí hậu khô
hạn nhất Việt Nam và có vùng nước trồi, đây là một đặc điểm mang tính đặc thù

riêng của Ninh Thuận, vừa mang tính chất là khó khăn lại có ý n ghĩa như một lợi
thế, cần có những phương hướng, giải pháp phát triển, sử dụng, khai thác hợp lý đặc
điểm mang tính đặc thù. Ngoài ra, Ninh Thuận được xác định có vị trí quan trọng về
bảo vệ quốc phòng và an ninh của cả nước trong mối quan hệ với vùng Tây Nguyên
và các tỉnh ở Miền Trung với nhiều cơ sở quân sự đóng trên địa bàn như sân bay
Thành Sơn, Đoàn Đặc công.
2.1.2. Địa hình:
Địa hình của tỉnh có 3 dạng chính là: Núi, đồi gò bán sơn địa và đồng bằng
ven biển. Địa hình đồi núi của tỉnh chiếm 63,2% diện tích toàn tỉnh, chủ yếu là núi
thấp, dốc từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Phía Bắc có Núi Chúa, phía Nam


có một số ngọn núi lại là nơi có những di tích lịch sử như núi Sơn Hải có CK35, Cà
Ná có CK37. Địa hình đồi núi của tỉnh có nhiều điều kiện để phát triển thủy điện
quy mô nhỏ kết hợp với thủy lợi, điều kiện để phát triển du lịch tham quan di tích
lịch sử, du lịch leo núi, cắm trại du khảo.
Địa hình đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân
bố chủ yếu ở phía Tây các huyện Ninh Phước, Thuận Bắc và Ninh Sơn. Địa hình
lượn sóng xen lẫn có các đồi thấp này có nhiều điều kiện để phát triển rừng kinh tế,
các loại cây công nghiệp ngắn ngày; địa bàn chiến lược quốc phòng của khu vực.
Đồng bằng ven biển chiếm 22,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố ở các huyện,
thành phố trong tỉnh. Địa hình bằng phẳng, ven biển có các đồi cát, cồn cát. Đồng
bằng ven biển là nơi có điều kiện để bố trí các công trình công nghiệp, du lịch, nuôi
trồng thủy sản, sản xuất muối, phát triển các cây đặc sản của vùng khô hạn.
2.1.3. Khí hậu:
Nằm trong vùng khô hạn nhất cả nước, khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình
với đặc trưng là khô nóng gió nhiều, bốc hơi mạnh từ 670 - 1.827 mm. Nhiệt độ
trung bình năm 270C. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 - 11; mùa khô từ
tháng 12 - 8 năm sau. Lượng mưa trung bình năm 700 - 800 mm ở Phan Rang và
tăng dần theo độ cao trên 1100 mm ở vùng miền núi. Độ ẩm không khí từ 75 - 77%.

Năng lượng bức xạ lớn 160 Kcl/m2. Tổng lượng nhiệt 9.500 - 10.0000C.
Trong những năm gần đây, cùng với việc tập trung đầu tư các hồ đập tích
nước trên địa bàn tỉnh để giữ nước và cấp nước mùa khô, điều tiết nước mùa mưa,
trồng rừng và trồng cây xanh trong các đô thị nên những khó khăn như khô hạn,
thiếu nước, nắng nóng từng bước đã được cải thiện, đã góp phần điều hoà nhiệt độ
môi trường, cải thiện môi trường sinh thái, thời tiết khí hậu có nhiều thay đổi, mưa
nhiều, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, lượng mưa trung bình qua các năm tăng
dần, năm 2004: 540,1mm, năm 2005: 797,5 mm, năm 2007: 961,7 mm, riêng năm
2008: 1.550 mm, tăng gấp 2,78 so với năm 2004 (là năm bị hạn hán).
Do yếu tố đặc thù khí hậu khô hạn, tạo cho Ninh Thuận có những sản phẩm
đặc thù như thuốc lá, bông, neem, nho..., và những sản phẩm chăn nuôi như dê, cừu,
sản xuất giống thủy sản; du lịch đặc thù trên vùng cát. Tuy nhiên qui mô sản phẩm
hàng hóa còn nhỏ chưa hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung có qui mô lớn.
2.1.4. Tài nguyên nước
Ninh Thuận có 2 hệ thống sông chính chảy qua tỉnh với chiều dài 430 km và
diện tích lưu vực 3.600 km2, gồm:
- Hệ thống sông Cái và các sông nhánh bao gồm sông Trà Co, sông Sắt, sông
Cho Mo, suối Ngang, sông Ông, sông Dầu, sông Than, sông Quao, sông Lu với
tổng chiều dài là 246 km, diện tích lưu vực 1.929,5 km 2. Trữ năng thuỷ điện trên hệ


×