Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

ĐIỂM mới của BLDS 2015 về BIỆN PHÁP bảo LÃNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.97 KB, 3 trang )

ĐIỂM MỚI CỦA BLDS 2015 VỀ BIỆN
PHÁP BẢO LÃNH

Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về biện pháp bảo lãnh
Thứ nhất, về hình thức bảo lãnh. BLDS 2015 không quy định về
hình thức bảo lãnh. Trong khi đó, Điều 362 BLDS 2005 quy định bắt buộc việc bảo
lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong
hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải
được công chứng hoặc chứng thực.
Đây là điểm mới rất tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bởi lẽ, việc
không quy định về hình thức bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn
trong việc thiết lập quan hệ bảo lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn hình thức là
văn bản, bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể[1], trừ trường hợp pháp luật bắt buộc
phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân
theo quy định đó.
Tuy nhiên, do không được lập thành văn bản, nên, nếu trường hợp bên bảo
lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì đây sẽ là một
vướng mắc lớn. Rõ ràng, bên nhận bảo lãnh không có chứng cứ hay tài liệu nào để
chứng minh bên bảo lãnh đã đứng ra bảo lãnh, do đó, quyền yêu cầu bên bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh sẽ không thể
thực hiện được.
Thứ hai, điểm mới về phạm vi bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể cam
kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Tuy nhiên,
BLDS 2015 có mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả”
so với quy định chỉ có “tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp có thoả thuận khác” ở BLDS 2005[2]. Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 336


BLDS 2015 cũng quy định thêm việc các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp
bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Với quy định trên, việc BLDS 2015 mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả


“lãi trên số tiền chậm trả” nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh. Rõ
ràng, khi bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh chậm trả nợ cho bên nhận bảo lãnh,
thì bên nhận bảo lãnh không thể sử dụng khoản tiền đáng ra là của họ để thực hiện
công việc khác, do đó, pháp luật đã bổ sung thêm quy định này với mục đích bảo
đảm lợi ích đáng ra bên nhận bảo lãnh sẽ được hưởng, nếu không có hành vi vi
phạm nghĩa vụ của bên kia.
Ví dụ: M vay N số tiền 100 triệu đồng, thời hạn 3 tháng, lãi suất 1% /tháng. K bão
lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của M. Sau 3 tháng, nếu M không có khả năng thanh
toán, thì K phải thực hiện nghĩa vụ đó thay M. BLDS 2015 quy định rằng, K sẽ
phải thay M trả số tiền 100 triệu đồng cho N, cùng với đó là số tiền lãi 3 triệu đồng
(1% /tháng) và số tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). Giả sử, 1 tháng sau
đó, K mới trả 100 triệu cho N, thì K buộc phải thanh toán cho N thêm lãi trên số
tiền chậm trả (100 triệu đồng) trong 1 tháng đó theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng
Nhà nước.
Ngoài ra, Khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định trường hợp nghĩa vụ
được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao
gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm
dứt tồn tại.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh. Điều 340 BLDS
2015 quy định rằng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu
cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo
lãnh đã thực hiện. So với quy định bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã
hoàn thành nghĩa vụ tại Điều 367 BLDS 2005.
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với
bên nhận bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói
cách khác, bên bảo lãnh, họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến
đâu (trong phạm vi bảo lãnh) thì họ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn
trả lại cho họ đến đó. Rõ ràng, thời điểm bên bảo lãnh có quyền yêu cầu theo quy

định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định bên bảo lãnh chỉ được quyền yêu
cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay khi họ đã
hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
Ví dụ: C vay D số tiền 300 triệu đồng, thời hạn vay là 6 tháng. E bảo lãnh toàn bộ
khoản vay trên của C. Theo quy định của BLDS 2015, khi hết thời hạn, nếu C
không có khả




×