Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN vụ án dân sự và KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.05 KB, 3 trang )

ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN
SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân luôn được “công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Trong các
quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận, thì quyền về dân sự có ý
nghĩa rất quan trọng. Nhà nước ta bằng nhiều cách thức, biện pháp luôn bảo hộ các
quyền dân sự của các chủ thể. Trong nhiều biện pháp đó, khởi kiện vụ án dân sự theo
thủ tục tố tụng là một biện pháp hữu hiệu quan trọng, có tính khả thi cao.

Khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ
thể khác có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền khởi kiện VADS để yêu cầu tòa án
có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi
trái pháp luật hoặc phải bổi thường thiệt hại hoặc phải chịu chế tài phạt vi phạm…Tòa
án chỉ thụ lý giải quyết VADS khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Điều 161
BLTTDS không chỉ ghi nhận quyền khởi kiện dân sự mà còn quy định các điều kiện
về thủ tục khởi kiện, yêu cầu khởi kiện.
I. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
1. Về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện VSDS là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham
giam vào quan hệ pháp luật TTDS.
Điều 161 BLTTDS quy định:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi
chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp (QLIHP) của mình.”[1]


Từ quy định trên và các quy định có liên quan, có thể thấy, chủ thể khởi kiện
VADS là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham giam vào quan hệ pháp
luật TTDS (Tố tụng dân sự). Các chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức
đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Cá nhân khi khởi kiện VADS


phải có NLHVTTDS (Năng lực hành vi tố tụng dân sự), đồng thời phải có quyền lợi
bị xâm phạm.
Thứ nhất, người khởi kiện phải có năng lực pháp luật
TTDS và NLHV TTDS. Điều 57 BLTTDS quy định, năng lực pháp luật TTDS là
khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong TTDS do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ
quan, tổ chức có năng lực pháp luật TTDS như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ
QLIHP của mình (Khoản 1). NLHVTTDS là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa
vụ TTDS hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia TTDS (Khoản 2).
- Đối với trường hợp đương sự là cá nhân: người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng
không bị mất hoặc bị hạn chế NLHVDS có đầy đủ NLHVTTDS. Người chưa đủ 06
tuổi hoặc người mất NLHVDS thì không cóTTDS. Việc bảo vệ QLIHP cho những
người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Người từ đủ 06
tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ QLIHP cho những người này tại Toà án do
người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã
tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng
của mình được tự mình tham gia TTDS về những việc có liên quan đến quan hệ lao
động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người
đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ
QLIHP cho họ tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Đối với việc ly
hôn thì không được phép đại diện (Khoản 3 Điều 73 BLTTDS).
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 69 BLTTDS 2015 sắp có hiệu lực, thì người bị
hạn chế NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, trong trường
hợp này, Tòa án sẽ xác định NLHVTTDS của họ. Bởi lẽ, trong trường hợp này, họ
chưa mất hoàn toàn năng lực, họ vẫn còn khả năng tự mình tham gia tố tụng, do đó,
quy định này là rất hợp lý.
- Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.
Cơ quan, tổ chức phải là những cơ quan được thành lập hợp pháp, thường là pháp
nhân (Điều 84 BLDS 2005)[2], người đại diện hợp pháp của cơ quan đó là người do
luật quy định hoặc được chỉ định trong giấy tờ quỷ quyền hợp pháp.
Thứ hai, người khởi kiện phải có mối quan hệ mật thiết với tranh chấp, đồng

thời có QLIHP trực tiếp bị xâm hại (Khoản 2 Điều 56 BLTTDS)[3]. Tuy nhiên, theo
quy định tại Điều 162 BLTTDS, sẽ có trường hợp ngoại lệ, đó là:
- Khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công
cộng, lợi ích của nhà nước: Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên
hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án
về HNGĐ; Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao
động trong trường hợp cần bảo vệ QLIHP của tập thể người lao động; Cơ quan, tổ


chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện để bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Đến BLTTDS năm 2015, tại Điều 187, cơ bản vẫn giữ các trường hợp ngoại lệ
như trên. Tuy nhiên, có bổ sung thêm trường hợp: tổ chức xã hội tham gia bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng tham gia khởi kiện
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc lợi ích công cộng (Khoản 3) và trường hợp cá
nhân có quyền khởi kiện vụ án HNGĐ để bảo vệ quyền, lợi ích của người khác
(Khoản 5).
- Khởi kiện theo nguyên tắc thế quyền: Khi bên có quyền yêu cầu
chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có
quyền yêu cầu và có thể đứng đơn kiện với tư cách là nguyên đơn dân sự để yêu cầu
bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Nguyên tắc thế quyền được thừa nhận rộng rãi
trong pháp luật bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm và pháp luật về mua bán,
chuyển nhượng nợ dân sự.
- Khởi kiện theo nguyên tắc thừa kế quyền và nghĩa vụ:
Việc kế thừa các quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ tài sản được đặt ra đối với các
trường hợp hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia tách pháp nhân (các Điều
94, 95, 96 BLDS 2005)[4];
Thứ ba, người khởi kiện không rơi vào trường hợp bị hạn chế quyền khởi kiện.
Trường hợp hạn chế quyền khởi kiện là trường hợp đương sự có quyền khởi kiện
nhưng lại bị hạn chế về mặt thời gian. Chẳng hạn, trong trường hợp vợ có thai hoặc

đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn
(Khoản 3 Điều 51 Luật HNGĐ 2014);
2. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án
Tòa án chỉ thụ lý VADS đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt
động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm
quyền giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của
mình và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được
xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm
vụ của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các bộ phận trong
một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia tố
tụng bảo vệ QLIHP của mình. Để vụ án được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng
Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xét xử. Cụ thể là:
- Vụ án mà chủ thể khởi kiện thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án
quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS[5].



×