Phan anh c ơng
Con đờng trở thành kẻ sĩ hiện đại
Nguyễn Khắc Viện
Trong số những gơng mặt trí thức tiêu biểu của Việt Nam thế kỉ XX, Nguyễn
Khắc Viện là một nhân cách khá đặc biệt. Ông đợc d luận rộng rãi đánh giá là một
nhà văn hoá, có những đóng góp lớn trong việc làm cho thế giới, trớc hết là thế giới
phơng Tây hiểu thêm, hiểu đúng về đất nớc, con ngời và cách mạng Việt Nam thời kì
nhân dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cũng là thời
diễn ra chiến tranh lạnh giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và t bản chủ nghĩa. Trong
cuộc đời mình, ông đã gặp những thuận lợi (thuộc phạm trù cơ duyên) không phải ai
cũng có đợc. Nhng cũng không phải với ông, mọi điều đều diễn ra suôn sẻ, may mắn.
Mắc bệnh lao từ năm 1942, chỉ sống với hơn nửa lá phổi trong mấy chục năm, lại
phải chịu khá nhiều sự nghi kị, hiểu nhầm đến từ nhiều phía, trong đó có cả phía "ng-
ời mình", Nguyễn Khắc Viện vẫn vợt lên, trụ vững, trở thành con ngời giản dị, lão
thực, bền bỉ cống hiến, làm việc, vì thế hệ trẻ và vì một xã hội Việt Nam dân chủ,
văn minh. Có lẽ, ông là ngời có đủ thẩm quyền để luận bàn về sự tu dỡng, sự hoàn
thiện mình trong bối cảnh phức tạp, đầy biến động của xã hội và thời đại mà chúng ta
đang sống.
Con đờng trở thành kẻ sĩ hiện đại là một trích đoạn của bài Noi theo đạo nhà, in
trong cuốn Bàn về đạo Nho xuất bản năm 1993. Đây không phải là một hồi kí văn
học mà là một áng văn nghị luận có kèm theo những mẩu hồi ức. Nó đợc viết với
mục đích chính luận khá rõ ràng. Ngoài việc (đúng hơn là thông qua việc) kể về quá
trình tu dỡng của bản thân, tác giả muốn gợi ý cho thế hệ sau về con đờng phấn đấu
để trở thành một kẻ sĩ hiện đại, có nhiều đóng góp cho cộng đồng, dân tộc. Nguyễn
Khắc Viện là thế. Ông không có nhu cầu tự ngắm nghía mình. ý chí hành đạo luôn
thôi thúc ông, chi phối việc làm của ông trong mọi nơi, mọi lúc.
Đọc đoạn trích, độc giả có thể thấy khá rõ con đờng tu dỡng của chính tác giả
Nguyễn Khắc Viện. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, trớc hết ông tiếp nhận và
thấm nhuần một cách tự nhiên tinh thần duy lí cùng phép xử thế của đạo Nho, nhất là
phép ứng xử với thần quyền, thế quyền, với cộng đồng xã hội, gia đình và đặc biệt là
với bản thân. Lớn lên, đợc đào tạo thành một trí thức Tây học, sống ở Pháp tới 26
năm ròng, dĩ nhiên ông đã tích cực thu hút dỡng chất từ khoa học và các hệ t tởng
triết học - chính trị phơng Tây. Nhiều yếu tố nền tảng mà Nho giáo tạo nên trong cấu
trúc nhân cách con ngời ông đợc bồi đắp dày thêm nhờ những sự "gặp gỡ" t tởng giữa
Đông và Tây, giữa truyền thống và hiện đại. Ông khẳng định : "Cái gốc duy lí của
đạo Nho không đối lập với khoa học, với học thuyết Mác". Chính bởi thế, ông đã
sống một đời : "Không nhìn lên trời, không nghĩ đến những gì xảy ra khi chết, không
thấy cần thiết biết có thần linh hay không có, không tìm tuyệt đối, không mong trở
về với Chúa, thoát khỏi vòng luân hồi, chỉ mong làm con ngời cho ra ngời". Có thể
nói thế nào về loại hình nhân cách đợc mô tả trong đoạn văn trên ? Đó là con ngời
Nho giáo không a bàn chuyện ma quỷ quái dị chăng
1
? Là con ngời cá nhân chỉ tin
vào mình chăng ? Là con ngời khoa học không nhìn đời và hành xử theo kiểu cảm
tính mà theo sự chỉ đạo của trí tuệ sáng suốt chăng ? Là con ngời cộng sản vô thần,
1
Trong Luận ngữ, Khổng Tử có nói : Vị năng sự nhân, an năng sự quỷ, nghĩa là cha thờ đợc ngời, thờ thế nào đợc
quỷ thần. Ngài cũng dứt khoát : Tố ẩn hành quái, ngô bất vi chi, nghĩa là những việc bí ẩn quái dị, ta không làm.
Tài liệu s u tầm - riêng tặng hằng nga 1
Phan anh c ơng
không tin có cuộc sống siêu nhiên chăng ?... Trong trờng hợp này, mỗi "phơng án"
trả lời đều có cái lí riêng của nó !
Trên hành trình khẳng định nhân cách, Nguyễn Khắc Viện đã tự thu nạp nhiều
yếu tố mới mà giáo dục gia đình thuở nhỏ cha thể đa lại. Đó là tinh thần tôn trọng tự
do cá nhân, tinh thần phân tích, cải tạo xã hội nhằm xác định con đờng đi lên cho
lịch sử, thái độ coi trọng dỡng sinh... Tuy nhiên, điều đáng nói nhất không phải là
chuyện "bồi thêm", "cộng vào" mà là chuyện "tổng hợp" trên cơ sở một nguyên tắc
sống đã đợc xác lập. Những cụm từ nh "tôi thích", "tôi thích thú" cho thấy sự chủ
động rất cao của ông trong việc lựa chọn những yếu tố cần thiết phục vụ cho sự tu
thiện bản thân.
Nguyên tắc sống của Nguyễn Khắc Viện đợc hình thành trong cả một quá
trình. Không khí gia đình, "phong cách và thân phận" của ông bố là những điều kiện
thuận lợi đầu tiên giúp nó nảy mầm. Tiếp đó, việc so sánh, đối chiếu các "gơng
sống", các "cách xử thế của bao chế độ" diễn ra trong suốt cuộc đời phong phú của
tác giả đã tạo nên độ chín cho nó. Đạo lí - đó là từ thâu tóm toàn bộ nguyên tắc sống
mà Nguyễn Khắc Viện cuối cùng đã đúc rút đợc cho mình và cho nhiều ngời khác
nữa. Theo tác giả, con ngời sống có đạo lí thì sẽ không "đứt chân" với truyền thống,
với gốc gác cha ông, với đất nớc, dân tộc, mà đã thế, sẽ không bị rơi vào tình cảnh cô
đơn thờng thấy ở "con ngời phơng Tây". Tất nhiên, việc trung thành với đạo lí không
ngăn cản ngời ta thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong lựa chọn chính trị. Tác giả cho
rằng, chính kiến (hiểu là quan điểm chính trị, thái độ chính trị) là cái có thể thay đổi
tùy hoàn cảnh xã hội, bởi chính trị là cái chỉ có tính nhất thời, gắn với từng giai đoạn
lịch sử cụ thể. Khi làm chính trị, ngời ta phải biết "tùy cơ ứng biến" làm sao đạt đợc
mục đích cuối cùng. Việc hoạch định đờng lối cho sự phát triển của đất nớc không
phải chỉ làm một lần là xong. Nó luôn phải đợc nhận thức lại, bổ sung thêm, điều
chỉnh, sửa đổi, trên cơ sở thâu nạp thêm nhiều dữ kiện mới nảy sinh trong cuộc sống.
Không thể trách ai đó có lúc thay đổi chính kiến, nếu cái gốc đạo lí vẫn đợc anh ta
giữ vững. Đạo lí là yếu tố cơ bản tạo nên nhân cách, làm cho con ngời sống ra con
ngời, biết "khép mình vào lễ nghĩa", "thấu hiểu bản thân, tri thiên mệnh", "không vì
giàu sang mà sa đọa, không vì nghèo khó mà xa rời, không khuất phục trớc uy
quyền","gắn bó với ngời khác". Nói cách khác, chính đạo lí giúp con ngời biết xử
thế, tu thân (xử thế, tu thân là hai trong ba hớng tu dỡng mà tác giả muốn nêu lên
nh một kinh nghiệm sống ; hớng còn lại là dỡng sinh).
Do có nguyên tắc sống rõ ràng, Nguyễn Khắc Viện giữ đợc thái độ độc lập với
thế quyền (tác giả thích cách ứng xử truyền thống của nhà nho đối với vua chúa) và
không ngại bộc lộ chủ kiến về các vấn đề gai góc. Ông đã đa ra một so sánh rất gọn
và rất sáng : "Phân tích xã hội, để hiểu rõ lịch sử, xác định đờng lối thì chủ nghĩa
Mác hơn hẳn, nhng Mác trong đạo lí không đợc cụ thể và nổi bật nh trong Nho giáo".
ở một chỗ khác, ông có mấy lu ý bỏ trong ngoặc đơn thật đáng suy nghĩ : "Nhân
văn là tìm hiểu con ngời về cả ba mặt sinh học xã hội tâm lí để cố luyện mình
theo ba hớng : dỡng sinh (thầy Khổng bỏ qua mặt này), xử thế, tu thân (Mác xem
nhẹ mặt này)". Trong một thời, không phải ai cũng dám nói ra những điều nh
Nguyễn Khắc Viện đã nói, dù nói có sở cứ. Cũng vậy, cần phải nhìn nhận là tác giả
đã can đảm và thẳng thắn khi nêu những u điểm của Nho giáo - một học thuyết có
lúc bị giới học thuật chính thống đánh giá hết sức tiêu cực. Ưu điểm của Nho giáo,
theo ông là : đặt vấn đề "xử thế" một cách rõ ràng và đầy đủ hơn nhiều học thuyết
khác ; rất quan tâm đến vấn đề "tu thân" và luôn đề cao trách nhiệm của con ngời đối
Tài liệu s u tầm - riêng tặng hằng nga 2
Phan anh c ơng
với xã hội ; trong hệ thống ứng xử của Nho giáo, tinh thần "có mức độ" (không cực
đoan, thái quá) luôn hiện diện. Những u điểm nói trên của Nho giáo đã đợc trình bày
xoay quanh vấn đề đạo lí và mục đích là để làm sáng tỏ khái niệm đạo lí
2
. Nhìn
chung, tác giả đã có một cái nhìn duy lí, thấu suốt về vấn đề, có tinh thần tự chủ cao
độ, hiểu rất rõ việc mình cần làm, đang làm. Ông không hề né tránh đối thoại với
những ngời "chê trách mình", thẳng thắn thừa nhận mình "có thay đổi chính kiến",
không ngại ngần tuyên bố quan điểm "có thể liên minh chính trị với quỉ" và "liên
minh chỉ nhất thời". Qua cách lí giải vấn đề của ông, ta thấy ở ông nổi bật cốt cách
của một kẻ sĩ thấm nhuần đạo lí Nho gia, tiếp thu đợc tinh thần duy lí của phơng Tây
và có những nét dờng nh là "gàn" (theo một góc nhìn nào đó) của ông đồ xứ Nghệ.
Nh đã nói ở trên, khi viết Noi theo đạo nhà, tác giả không hề thể hiện nhu cầu
tự ngắm. Điều ông quan tâm hơn hết là thảo luận về việc xây dựng một mẫu hình
nhân cách cho thời đại, của thời đại, phù hợp với thời đại (dĩ nhiên là nhân cách con
ngời Việt Nam, trên nền tảng văn hoá Việt Nam). Đó là lí do vì sao trong bài, sau
từng mẩu hồi ức ngắn ngủi là những đoạn dài "phân tích", trong đó, tác giả lật qua lật
lại vấn đề để mọi ngời cùng suy ngẫm. Không có gì lạ khi đọc bài viết, độc giả dễ có
cảm tởng mình đang đợc tham gia trao đổi cùng tác giả về một vấn đề có liên quan
mật thiết đến cuộc sống của tất cả chúng ta.
Văn phong của tác giả đợc thể hiện trong bài viết rất trong sáng, giản dị và
cứng cỏi. Đúng là văn phong của một cây bút báo chí lão luyện. Có khá nhiều câu
không có chủ ngữ : "Không nhìn lên trời, không nghĩ đến những gì xảy ra khi chết,
không thấy cần thiết biết có thần linh hay không có, không tìm tuyệt đối, không
mong trở về với Chúa, thoát khỏi vòng luân hồi, chỉ mong làm con ngời cho ra con
ngời" ; "Phải thông qua phong cách và thân phận của một ông bố mới hiểu thấu sách
của Khổng - Mạnh" ; "Khi học về các nhà văn Pháp, nh Ra-xin, Huy-gô chỉ chú ý
đến tác phẩm và lời văn" ; "Nhng khi học về Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Ngô Thì Nhậm, Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu,... chủ yếu là nhớ đến những con ngời, những thân phận, những con
ngời mà xã hội xa gọi là nho sĩ..." v.v. Chọn cách diễn đạt nh vậy, phải chăng tác giả
muốn tránh việc phô bày cái tôi, tránh việc tô vẽ cho bản thân ? Kể chuyện riêng của
mình không có ý gì khác ngoài việc thấy cần thiết phải nêu một ví dụ về con đờng
phấn đấu. Tớc bỏ đại từ "tôi", trong trờng hợp này, tác giả muốn hớng thẳng đến đối
tợng, phá bỏ khoảng cách giữa ngời viết với ngời tiếp nhận để độc giả có thể nhập
ngay vào phần cốt lõi của vấn đề.
Từ những gì đợc trình bày trong bài viết của Nguyễn Khắc Viện, có thể nói
việc phấn đấu trở thành kẻ sĩ hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng đối với tầng lớp trí
thức trong bối cảnh Việt Nam đang mở rộng quan hệ giao lu và tích cực hội nhập với
thế giới hiện nay
3
. Thứ nhất, nó giúp họ đứng vững đợc trớc nhiều cám dỗ, đặc biệt là
cám dỗ vật chất, giữ đợc cái gốc đạo lí, không "đứt hết gốc rễ" với truyền thống. Thứ
hai, nó giúp họ khôi phục đợc vị trí đáng trọng của mình trong xã hội với t cách là
một tầng lớp tinh hoa, có nhiều cống hiến xứng đáng cho công cuộc xây dựng một xã
2
Điều vừa nói không mâu thuẫn gì với điều tác giả đã viết : "Thế nào là nhân ? Cả đạo Nho xoay quanh một chữ".
Nhân và đạo lí dĩ nhiên không phải là một. Nhân là khái niệm triết học của Khổng Tử, còn đạo lí là tinh thần của
triết học Khổng Tử mà tác giả chiêm nghiệm thấy và rút ra đợc để thực hành "chữ" nhân (ở đây, chúng ta đang tìm
hiểu bài văn và t tởng của Nguyễn Khắc Viện trên một vấn đề có liên quan đến Nho giáo chứ không phải là tìm hiểu
về Nho giáo).
3
Cần chú ý câu cuối cùng của bài viết. ở đó, tác giả tỏ rõ sự phân biệt hai khái niệm nho sĩ ngày nay và kẻ sĩ hiện
đại. Nh vậy, bài viết trớc hết gợi ý con đờng phấn đấu cho tầng lớp trí thức chứ không phải cho bất cứ ai muốn trở
thành trí thức. Đó là hai vấn đề khác nhau.
Tài liệu s u tầm - riêng tặng hằng nga 3
Phan anh c ơng
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên thực tế, trí thức và kẻ sĩ hiện đại không phải
là một. Đây là hai phạm trù có sự khác biệt về chất ; từ trí thức đến kẻ sĩ hiện đại có
một quãng dài cần vợt qua bằng sự tu dỡng bản thân không ngừng, kết hợp với sự
mài sắc ý thức cống hiến cho đất nớc, cho dân tộc, theo tinh thần của những nho sĩ
chân chính xa. Xét trong bối cảnh rộng, việc ngời trí thức phấn đấu trở thành kẻ sĩ
hiện đại hoàn toàn thuận với con đờng phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay : phát
huy sức mạnh truyền thống, thâu thái những kinh nghiệm quý của thế giới để tạo nên
một cuộc bứt phá tốt đẹp hớng về phía tơng lai.
TS : Phan Huy Dũng
Tài liệu s u tầm - riêng tặng hằng nga 4