Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Một số giải pháp đổi mới quản lí chỉ đạo trong trường THCS nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.9 KB, 30 trang )

UBND HUYỆN
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO
TRONG TRƯỜNG THCS NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẠI
TRÀ VÀ TỶ LỆ ĐỖ VÀO LỚP 10 THPT

Năm học 2013 - 2014
0


Phần 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “ Một số giải pháp đổi mới quản lí chỉ đạo trong
trường THCS nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào
lớp 10 THPT”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lí trường học THCS
3. Tác giả:
Họ và tên: Nam (nữ): Nam
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ, đơn vị công tác: HT trường THCS
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Tên đơn vị: trường THCS
Địa chỉ: Khu
Điện thoại: 03203.
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) :
Tên đơn vị: trường THCS
Địa chỉ: Khu
Điện thoại: 03203


6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Các trường THCS không là trường chuyên, không là trường chất lượng cao,
có quy mô lớp trường hạng 3
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: từ năm học 2012 - 2013.
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Chất lượng giáo dục nhà trường thuộc vùng trũng của huyện và tỉnh, nó
luôn là điều trăn trở đối với tôi. “Làm thế nào để nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục?” không còn là một câu hỏi mới nhưng câu trả lời thì luôn là
một vấn đề mà các nhà quản lý giáo dục của các cấp luôn quan tâm và tìm
cách giải đáp. " Một số giải pháp đổi mới quản lí chỉ đạo trong trường
THCS nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào lớp 10
THPT” là ý tưởng tôi đã ấp ủ từ sau khi tôi được chuyển về đơn vị trường
mới. Đề tài này tôi chọn nghiên cứu vận dụng thực hiện từ năm học 2012 2013 đến nay, kết quả đã cho thấy có hiệu quả rất tốt, nhờ đó đã làm cho chất
lượng đại trà và đặc biệt là chất lượng học sinh thi đỗ vào lớp 10 THPT của
nhà trường có bước tiến bộ nhảy vọt. Mặc dầu các điều kiện đảm bảo chất
lượng của nhà trường thua kém các trường trong huyện rất nhiều, từ cơ sở vật
chất thiếu và yếu, chất lượng tuyển sinh đầu vào lớp 6 rất thấp, đội ngũ thì
bình thường không có gì hơn các trường bạn, thậm chí tỉ lệ trên chuẩn còn
thấp gần nhất huyện. Nhưng kết quả thi đầu vào lớp 10 của nhà trường năm
học 2012 - 2013 đã xếp lên tốp đầu trong huyện, riêng năm học 2012 - 2013
xếp thứ 2 trong toàn huyện - tăng 6 bậc, xếp thứ 150/ 273 trường trong tỉnh tăng 50 bậc. Các giải pháp tôi nêu ra ở đây bao gồm các nhóm giải pháp về
đổi mới công tác quản lí, về cơ sở vật chất, về đội ngũ, về công tác phối hợp

với gia đình và các tổ chức Đoàn đội trong nhà trường...Mặc dầu đã có hiệu
quả đối với nhà trường trong những năm qua, tuy nhiên không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự chia sẻ và đóng góp ý kiến của các
cấp lãnh đạo, các bạn đồng sự để đề tài này được đầy đủ hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

2


Phần 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÍ CHỈ ĐẠO
TRONG TRƯỜNG THCS NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẠI TRÀ
VÀ TỶ LỆ ĐỖ VÀO LỚP 10 THPT
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số cơ sở lý luận:
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng dộng và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
- Chất lượng dạy và học phụ thuộc vào quá trình dạy học. “ Quá trình
dạy học là một quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Trong đó dưới
tác động chủ đạo như tổ chức, điều khiển của giáo viên, học sinh tự giác tích
cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy
học đã đặt ra”.
- Chất lượng giáo dục là trình độ và khả năng thực hiện mục tiêu giáo
dục, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu người học và sự phát triển toàn diện của
xã hội.
- Chất lượng dạy học là chất lượng của người học hay tri thức phổ
thông mà người học lĩnh hội được vốn học phổ thông toàn diện, vững chắc ở

mỗi người học, đó là chất lượng đích thực của quá trình dạy học.
- Yêu cầu chất lượng dạy học ở bậc THCS trong giai đoạn mới:
Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những nội
dung đã học ở Tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông
cơ bản về Tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết
tối thiểu về kĩ thuật và hướng nghiệp. Là bậc học có nhiệm vụ phổ cập giáo
dục bậc THCS làm tiền đề cho phổ cập giáo dục bậc trung học, do vậy bậc
học THCS có nhiệm vụ đào tạo nguồn cho bậc học THPT và dạy nghề để tạo
ra nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, trí tuệ, năng lực chuyên môn đáp ứng cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy cần có sự
tăng cường nội dung giáo dục, nội dung đào tạo và giáo dục hướng nghiệp để
ngày càng nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực.
- Đội ngũ giáo viên là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất trong mỗi
nhà trường và là lực lượng quyết định cho sự thành công của quá trình dạy
học. Năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm, uy tín cá nhân của mỗi
giáo viên có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng đào tạo của nhà trường cũng
như thương hiệu của nhà trường. Uy tín của nhà trường luôn gắn liền với uy
tín của giáo viên tài năng và tâm huyết với nghề.
- Các nhà quản lý giáo dục ở các trường THCS thông qua công tác
quản lý chuyên môn nhằm phát huy hết nội lực của người giáo viên để phục
vụ cho hoạt động giáo dục. Nhà quản lý giáo dục biết gắn kết tập thể giáo
3


viên lại với nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị và mục tiêu giáo dục của nhà trường.
- Quản lý hoạt động chuyên môn chính là điều khiển, chỉ đạo các hoạt
động dạy học trong nhà trường làm cho nó đi theo một quỹ đạo. Nhà quản lý
phải làm thế nào để vận hành bộ máy giáo dục đó một cách khoa học, có tổ

chức, luôn tiến hành kiểm tra giám sát, uốn nắn, sửa chữa kịp thời những sai
sót tồn tại, phát huy thế mạnh, ưu điểm nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt
ra ban đầu.
1.2. Một số cơ sở pháp lý
1.2.1. Mục tiêu giáo dục THCS
- Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố, phát triển những kết
quả của giáo dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ
thông, trung cấp học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
- Trong văn kiện hội nghị lần 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá XIII đã
nêu rõ: “ Nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH,
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, CNH
– HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng
lực tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và
con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính kỷ
luật cao, là những con người kế thừa và xây dựng CNXH vừa hồng vừa
chuyên”.
- Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy và học là một nhu cầu tất
yếu trong giai đoạn hiện nay để tạo ra một bước ngoặt quyết định đến chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
1.2.2. Vai trò trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục:
- Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ, quản lý,
điều hành các hoạt động giáo dục.
- Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng
cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm
cá nhân.
1.2.3. Vai trò trách nhiệm của nhà giáo:
Điều 15, 16 trong Luật Giáo dục 2005 nêu rõ: Nhà giáo giữ vai trò

quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục. Nhà nước tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng đãi ngộ, bảo đảm các điều
kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách
nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn
vinh nghề dạy học.
1.2.4. Các văn bản của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Hải Dương:
- Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều
cấp học.
- Sách giáo khoa, tài liệu chuẩn kiến thức, kỹ năng các mộn học THCS.
- Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ các năm học của các cấp ngành Giáo
dục.
4


- Hướng dẫn đánh giá xếp loại học sinh theo thông tư 58 của Bộ.
- Hướng dẫn nội dung giảm tải các môn học cấp THCS của Bộ.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA NHÀ TRƯỜNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:
2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
- Trường được chia tách với trường THPT từ năm 1996.
- Quy mô trường lớp hằng năm có 8 lớp với số lượng học sinh dao
động trong khoảng từ 220 đến 270 em.
- Về cơ sở vật chất: Tổng diện tích: 1820 m2, khuôn viên diện tích thì
thiếu và chật hẹp, thiếu phòng học bồi dưỡng và các phòng chức năng. Có thể
nói về cơ sở vật chất của nhà trường là yếu nhất trong toàn huyện.
- Về đội ngũ: có 22 cán bộ, giáo viên và nhân viên, giáo viên trình độ
đại học đạt 50%.
- Về chất lượng đầu vào lớp 6 hàng năm rất thấp, đều xếp cuối huyện
và cuối tỉnh.
+ Đầu vào lớp 6 năm học 2010-2011: xếp thứ 257/273 trường THCS
trong tỉnh, môn Tiếng Việt tỷ lệ yếu kém là 48,2% (Yếu: 26,8%, Kém:

21,4%); môn Toán tỷ lệ yếu kém là 46,5% (Yếu:16,1%, Kém: 30,4%)
+ Đầu vào lớp 6 năm học 2011-2012: xếp thứ 18/19 trường THCS
trong huyện; môn Tiếng Việt tỷ lệ yếu kém là 41,2% (Yếu: 25,5%,
Kém:15,7%); môn Toán tỷ lệ yếu kém là 43,2% (Yếu: 27,5%, Kém: 15,7%);
+ Đầu vào lớp 6 năm học 2012-2013: xếp thứ 19/19 trường THCS
trong huyện, 271/279 trường Tiểu học trong tỉnh, môn Tiếng Việt tỷ lệ yếu
kém là 51,1%; môn Toán tỷ lệ yếu kém là 53,3%.
+ Đầu vào lớp 6 năm học 2013-2014: xếp thứ 18/19 trường THCS
trong huyện, (trường Tiểu học xếp thứ 225/279 trong tỉnh và xếp thứ 15/18
trường trong huyện - tính cả số học sinh giỏi đi Vũ Hữu), môn Tiếng Việt tỷ lệ
yếu kém là 13,3%, môn Toán tỷ lệ yếu kém là 30%.
- Chất lượng đầu vào lớp 6 hàng năm thấp vì chất lượng học sinh hoàn
thành chương trình tiểu học lớp 5 đã thấp, trong đó có khoảng 30 đến 35 %
học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học chuyển trường lên học tại trường
THCS Vũ Hữu và các trường khác, mà hầu hết những em chuyển trường là
những học sinh giỏi và một số là khá.
- Cùng với đó là sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, còn thiếu phòng học,
nên rất khó khăn trong công tác dạy và học của nhà trường.
- Năm học 2013 – 2014 trường có 8 lớp với 230 học sinh. Trong đó:
+ Khối 6 = 2 lớp = 72 học sinh
+ Khối 7 = 2 lớp = 48 học sinh
+ Khối 8 = 2 lớp = 58 học sinh
+ Khối 8 = 2 lớp = 52 học sinh
+ Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường: 22 trong đó:
Ban giám hiệu: 2 (Hiệu trưởng: 1, Hiệu phó: 1)
Giáo viên : 16 đồng chí được chia thành 2 tổ chuyên môn :
1. Tổ Khoa học Tự nhiên
: 8 giáo viên
2. Tổ Khoa học Xã hội
: 8 giáo viên

+ Hành chính phục vụ: 4
5


+ Về tổ chức đảng và đoàn thể:
Chi bộ: 14 Đảng viên chính thức
Cấp uỷ: 03 đồng chí (Hiệu trưởng, Hiệu phó, CT Công đoàn)
Công đoàn: 22 đoàn viên; BCH: 3 đồng chí (3 nữ)
Chi đoàn giáo viên: 10 đoàn viên, BCH gồm: 2 đồng chí
2.2. Thực trạng chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT
của nhà trường trước khi nghiên cứu áp dụng:
2.2.1. Về chất lượng dạy học:
- Chất lượng 2 mặt giáo dục:
Năm
học

2 mặt
GD
Học
kiểm

2010
2011

Học
lực
Học
kiểm

2011

2012

Học
lực

Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu

Chỉ tiêu
SL
%
155
61,8
91
36,2
5
2,0
0
0
8
3,2
98
39,0
129

51,4
16
6,4

Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém

84
112
34
0
8
72
116
34
0

Loại

Kết quả
SL
%
97

39,9
121
49,8
25
10,3
0
0,0
7
2,9
93
38,3
126
51,9
17
7,0

36,5
48,7
14,8
0
3,5
31,3
50,4
14,8
0

86
87
49
7

8
81
92
45
3

37,6
38,0
21,4
3,1
3,5
35,4
40,2
19,7
1,3

Đánh giá
Chưa đạt KH
Vượt KH
Vượt KH
Đạt KH
Gần đạt KH
Gần đạt KH
Vượt KH
Gần đạt KH
Vượt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Đạt KH

Vượt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH

- Tỉ lệ lên lớp:
N. học
2010 2011

2011 2012

Nội dung
Lên lớp thẳng
Lên lớp sau kiểm tra
lại trong hè

Chỉ tiêu
Kết quả
91,2% 163/176 = 92,6%
95,6%

166/176 = 94,3%

Lên lớp thẳng

84,9%

141/184 = 76.6%
(toàn huyện 90,97)


Lên lớp sau kiểm tra
lại trong hè

91,1%

163/184 = 88.6%
(toàn huyện 97,38%)

Đánh giá
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
thấp hơn TB
huyện
Chưa đạt KH
thấp hơn TB
huyện

2.2.2. Về chất lượng tốt nghiệp:
- Năm học 2010 - 2011: có 65/69 em tốt nghiệp = 94,3%
- Năm học 2011 - 2012: có 36/43 em tốt nghiệp = 83,7% (toàn huyện 97,22%)
2.2.3. Về chất lượng thi đỗ vào lớp 10 THPT:
- Năm học 2010 - 2011:
6


+ Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào 2 hệ công lập và bán công là 52/65 em tốt
nghiệp THCS, đạt 80%;
+ Điểm trung bình xếp thứ 19 trong 19 trường THCS của huyện, xếp
thứ 261/273 trường trong tỉnh.

- Năm học 2011 - 2012:
+ Tỷ lệ HS tiếp tục học lên lớp 10 THPT công lập và bán công là 34/36
em TN THCS = 94.4%, tỷ lệ này xếp thứ 2/19 trường trong huyện - vượt chie
tiêu kế hoạch (còn 1 HS đi học trường nghề, 1 HS ở nhà không đi học).
+ Xếp hạng điểm trung bình trong tỉnh là 200/273 trường và trong
huyện là 12/19 trường.
+ Xếp hạng tỷ lệ học sinh đạt 25 điểm trở lên trong tỉnh là 157/273 và
trong huyện là 8/19 trường.
2.3. Một số tồn tại trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ
đỗ vào lớp 10 THPT của nhà trường và nguyên nhân:
2.3.1. Một số tồn tại hạn chế:
- Chất lượng hai mặt giáo dục thấp, tỉ lệ học sinh lên lớp thấp hơn mặt
bằng huyện.
- Tỉ lệ tốt nghiệp còn thấp.
- Xếp hạng học sinh đỗ vào lớp 10 thấp trong huyện và trong tỉnh.
- Việc phân luồng học sinh sau tốt nghiệp chưa tốt, tỉ lệ học sinh dự thi
vào lớp 10 THPT năm 2013 chiếm tỉ lệ cao (có 49/51 em dự thi = 96,1% - xếp
thứ 2 sau trường Vũ Hữu).
- Phong trào thi đua giữa các lớp chọn khá giỏi và lớp còn lại không
đồng đều.
2.3.2. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế:
- Thực chất đầu vào lớp 6 quá thấp, nhận thức của học sinh còn chậm,
yếu, nhiều học sinh còn ỷ lại, sức ỳ lớn, thiếu sự cố gắng, còn mải chơi điện
tử.
- Một số giáo viên lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng chưa thực sự năng
động, chưa thật sự nhiệt tình. Đội ngũ giáo viên trẻ mới ra trường kinh
nghiệm giảng dạy còn ít, chưa mạnh dạn trong các hoạt động chuyên môn.
- Nề nếp dạy học được duy trì tốt nhưng chưa đều khắp ở tất cả các
giáo viên. Vẫn còn một số giáo viên ngại khó, làm việc chưa thực chất, còn
mang tính đối phó hình thức.

- Một số môn học tỉ lệ học sinh đạt trung bình còn thấp như môn Toán,
Ngữ văn, Hóa, Ngoại ngữ, Vật lý nên ảnh hưởng tới kết quả xếp loại chung
của học sinh.
- Cán bộ quản lý còn e ngại, nể nang, có nhắc nhở nhưng chưa đôn đốc,
uốn nắn một cách kiên quyết, chưa có cơ chế đánh giá thi đua hợp lí khuyến
khích được đội ngũ giáo viên và học sinh thi đua hết mình để khẳng định
mình trước tập thể. Năm học 2010 - 2011 tôi mới chuyển công tác về đơn vị
mới từ giữa năm học nên chưa thể thay đổi ngay các nền nếp cũ của đơn vị
chẳng hạn như xóa bỏ lớp chọn.
- Cơ sở vật chất của nhà trường có thể nói là yếu nhất huyện, còn thiếu
thốn chật hẹp, phòng học còn thiếu, nhà trường phải học 2 ca, không có
7


phòng học để phụ đạo cho học sinh, thiếu các phòng chức năng, không có sân
chơi bãi tập, chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay.
- Thiết bị dạy học còn thiếu và cũ nát nên có ảnh hưởng tới hiệu quả
của môn học.
- Nhiều bậc phụ huynh còn chưa quan tâm tới tình hình học tập của con
em mình, còn phó thác cho nhà trường.
2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại trà
và tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT của nhà trường:
Trên cơ sở phân tích thực trạng của nhà trường, tôi thấy muốn nâng cao
chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT của nhà trường thì cần
tập trung vào một số vấn đề then chốt như sau:
- Đổi mới công tác quản lý chỉ đạo
- Xây dựng kế hoạch chuyên môn cụ thể, chi tiết, linh hoạt, phù hợp với
điều kiện thực tế của nhà trường và các hướng dẫn của các cấp các ngành.
- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đề ra các giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục trong các buổi sinh hoạt chuyên môn theo định

kỳ.
- Tạo môi trường thi đua lành mạnh, công bằng trong học sinh và giáo
viên.
- Tạo mọi điều kiện cả về vật chất và tinh thần để tất cả cán bộ giáo
viên trong trường có cơ hội học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên
môn và khả năng cống hiến hết mình và được khẳng định mình. Khích lệ,
động viên giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với hoạt động giáo dục của nhà
trường.
- Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc quản
lí giáo dục học sinh.
3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI TRÀ VÀ
TỈ LỆ ĐỖ VÀO LỚP 10 THPT ĐÃ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

3.1. Nhóm các giải pháp về công tác quản lí chỉ đạo:
3.1.1. Đổi mới nhận thức, tư duy và hành động của lãnh đạo quản lí
Chúng ta biết rằng, hiệu trưởng là thuyền trưởng của một chiếc tàu.
Ngôi trường phát triển hay thất bại là do sự lãnh đạo sáng suốt của hiệu
trưởng. Muốn vậy hiệu trưởng cần phải đổi mới tư duy nhận thức và rèn luyện
để có được các phẩm chất sau:
- Quyết đoán mọi công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước tập thể và cấp trên. Đánh giá đúng thực trạng chất lượng và các điều
kiện đảm bảo chất lượng của nhà trường, phân tích tìm ra nguyên nhân của
các điểm mạnh và những hạn chế để đề ra cách giải quyết hợp lí nhất nhằm
đạt mục tiêu trong từng giai đoạn cụ thể, biết chấp nhận "hi sinh" để đạt được
cái lớn hơn. Biết lựa chọn và ưu tiên thực hiện các giải pháp có trọng tâm để
đạt được mục tiêu chính. Xây dựng chiến lược, sách lược và mục tiêu phấn
đấu của nhà trường phù hợp và khả thi trong trong điều kiện hiện tại, có tầm
nhìn cho tương lai.
- Xây dựng khối đội ngũ đoàn kết thống nhất nội bộ từ trong chi bộ
đảng, từ Ban giám hiệu đến tập thể cán bộ giáo viên nhân viên trong nhà

8


trường. Có kế hoạch cử giáo viên tham gia các lớp đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ.
- Xây dựng một ngôi trường thân thiện mà ở đó mọi người biết thương
yêu và giúp đỡ lẫn nhau.
- Phân công giáo viên đúng chuyên môn nghiệp vụ.
- Minh bạch thu chi tài chính của nhà trường.
- Quy định chức năng và quyền hạn của mỗi thành viên trong nhà
trường.
- Không độc đoán, chuyên quyền, không trù dập, biết lắng nghe và tôn
trọng những ý kiến đóng góp của mọi người. Làm sao giáo viên xem trường
như là " ngôi nhà của chung" của mình thì họ mới an tâm công tác lâu dài. Cố
gắng tìm cách cải thiện đời sống tinh thần và vật chất cho giáo viên, nhân
viên.
- Phổ biến, quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính sách, giải pháp giáo
dục, các văn bản pháp quy, hướng dẫn của các cấp các ngành để toàn thể cán
bộ giáo viên thấy rõ thực trạng để từ đó đề ra các giải pháp cụ thể cho hoạt
động giáo dục của mình.
- Xây dựng kế hoạch năm học cụ thể, linh hoạt, thông báo cho giáo
viên biết được nhiệm vụ và yêu cầu của năm học này là gì.
- Phân tích cho giáo viên nhận thức rõ thực trạng của nhà trường các
mặt mạnh, mặt yếu những tồn tại cần khắc phục, để tạo sự đồng thuận từ tập
thể, từ đó thống nhất đưa ra các giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm của
nhà trường, phù hợp với đối tượng học sinh, BGH và giáo viên cùng bàn giải
pháp để tháo gỡ những khó khăn.
3.1.2. Xóa bỏ lớp chọn, phân chia lại đối tượng đồng đều giữa các lớp
trong khối:
- Nhà trường mỗi khối có 2 lớp với tổng số học sinh cả khối dao động

từ 46 đến 60 em. Thực chất học sinh của nhà trường chỉ là học sinh trung
bình, trung bình khá và học sinh yếu kém, học sinh diện khá cứng ít và hầu
như không có học sinh giỏi. Bởi vì hàng năm số học sinh lớp 5 tuyển sinh vào
THCS Vũ Hữu và các trường khác chiếm hết học sinh giỏi và thậm chí cả học
sinh khá cũng tìm cách chuyển đi (có tới 30 đến 35% số học sinh hoàn thành
chương trình tiểu học lên lớp 6 chuyển đi). Mà tổng số học sinh cả khối
không nhiều nên việc chia lớp chọn để dạy theo đối tượng là không hợp lí.
Thực tế kết quả khảo sát chất lượng của PGD&ĐT Bình Giang các môn Toán,
Ngữ văn, Tiếng Anh, Vật lí trong học kì 1 năm học 2013-2014 đã thấy rõ các
trường có lớp chọn hầu hết đều có điểm trung bình môn không cao.
- Cái được của việc chia lớp chọn thì ít, mà cái mất thì nhiều hơn.
Mang tên là lớp chọn nhưng thực ra chỉ chọn được một số em thuộc diện học
khá, còn lại phần lớn vẫn là đối tượng trung bình, thậm chí vẫn có trung bình
yếu. Lớp còn lại thì toàn học sinh học yếu, nhận thức chậm, kèm theo đó là ý
thức chưa tốt, thậm chí có nhiều em học sinh cá biệt ở lớp này. Do đó phong
trào thi đua của 2 lớp rất chênh lệch, phân công giáo viên dạy và chủ nhiệm
lớp này cũng khó vì thi đua luôn xếp cuối, giáo viên có dùng nhiều biện pháp
thúc đẩy thi đua của lớp cũng khó vì ngay cả đội ngũ cán bộ lớp, các tổ
trưởng cũng không gương mẫu thì làm sao là tấm gương trước các thành viên
9


trong lớp được. Từ đó tạo ra sức ỳ trong thi đua giữa các lớp. Trong lớp
không chọn giáo viên lên lớp thường không hoàn thành đúng kế hoạch, hay bị
cháy giáo án. Mặt khác trong quá trình dạy học không phải tất cả mọi khúc
mắc từ phía học sinh đều được giáo viên tháo gỡ giúp đỡ học sinh đầy đủ kịp
thời, chính vì thế mới có câu "học thầy không tầy học bạn", nhưng hầu hết cả
lớp bạn nào cũng không hơn mình mấy thì học bạn làm sao được. Do đó ở lớp
không chọn thì không phát huy được việc học tập lẫn nhau giữa các học sinh.
- Nhưng nếu chia đều đối tượng học sinh cho 2 lớp thì các hạn chế nêu

trên đều được giải quyết hài hòa, tạo ra được môi trường thi đua bình đẳng
giữa hai lớp, giữa các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm phụ trách 2
lớp, các lớp đều có nhân tố tích cực để chọn làm cán bộ lớp, làm cán sự các
bộ môn và các em có điều kiện để học hỏi lẫn nhau được.
- Chính vì vậy chúng tôi quyết định xóa bỏ lớp chọn từ năm học 2011
-2012. Việc chia lại lớp được thực hiện sau khi tổ chức kiểm tra lại và xét lên
lớp sau hè. Việc chia lại lớp được thực hiện khá kĩ lưỡng tỉ mỉ, đảm bảo đồng
đều trên mọi phương diện; số nam - nữ, số học sinh hạnh kiểm tốt, khá, trung
bình, yếu, số học sinh có học lực giỏi, khá, trung bình, yếu và kém, số học
sinh cá biệt, số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt éo le cũng được cân nhắc để
chia cho đều, số học sinh ở các khu cụm dân cư cũng được cân nhắc chia cho
đều. Sau khi chia xong chúng tôi tính lại điểm trung bình học lực và trung
bình các môn học, nhất là Toán và Ngữ văn để cân nhắc điều chỉnh lại cho
đồng đều giữa 2 lớp A1 và A2, sau đó đưa ra hội đồng tham khảo lấy ý kiến
của các giáo viên để Ban giám hiệu quyết định điều chỉnh lại cho hợp lý.
- Việc phân công chuyên môn và chủ nhiệm lớp chúng tôi thực hiện
bình thường trước khi chia lại lớp nhưng chưa phân công vào lớp cụ thể nào
cả, mà chỉ tạm phân dạy và chủ nhiệm lớp ví dụ là 9A 1 hay 9A2, sau khi điều
chỉnh phân chia lớp xong chúng tôi mới quy định lớp nào là 9A, lớp nào là 9B
thông qua việc bắt thăm của 2 giáo viên chủ nhiệm. Điều này để tạo ra sự
công bằng khách quan trong việc phân chia lại lớp, từ đó tạo ra môi trường thi
đua lành mạnh công bằng giữa các lớp và giữa các giáo viên.
3.1.3. Tăng cường phụ đạo học sinh yếu:
Với cách đo chất lượng là tính điểm trung bình toàn trường như hiện
nay của Phòng và Sở thì mọi sự cố gắng nỗ lực làm bài thi và khảo sát chất
lượng của các đối tượng học sinh đều có vai trò nâng thành tích chung là như
nhau, mà việc dạy để học sinh yếu tăng thêm 1 hoặc 2 điểm dễ hơn đối với
các học sinh khá và giỏi. Xác định như vậy nên nhà trường đã tập trung đầu tư
làm chất lượng chung thông qua việc nâng cao chất lượng ở đối tượng này
như sau:

- Lựa chọn HS, thành lập lớp phụ đạo:
Căn cứ vào kết quả của năm học trước và kết quả khảo sát đầu năm,
giáo viên lập danh sách các học sinh yếu để thành lập mỗi khối 1 lớp học phụ
đạo 2 môn Ngữ văn và Toán gồm các em có điểm môn Ngữ văn và Toán dưới
5,0 nộp về Ban giám hiệu nhà trường, mỗi lớp khoảng 15 em. Danh sách này
được phổ biến đến giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cùng nắm được.
Danh sách này được điều chỉnh thêm bớt vào thời điểm đầu học kì 2 sau khi
có kết quả của học kì 1.
10


- Phân công chuyên môn, giao nhiệm vụ cho GV, tổ chức dạy phụ đạo:
+ Vì hầu hết giáo viên chưa đủ định mức giờ dạy quy định (tổng số giờ
của nhà trường còn thiếu khoảng 40 tiết), để khai thác triệt để hơn nhà trường
bố trí phân công giáo viên dạy phụ đạo môn Ngữ văn và Toán theo định mức
cố định là 2 tiết/tuần; mỗi lớp phụ đạo học 1 buổi/ tuần, mỗi buổi học 2 tiết
Ngữ văn, 2 tiết Toán và ra chơi 1 lần giữa giờ.
+ Lịch học này được bố trí cố định trên thời khóa biểu ngày từ đầu năm
và duy trì trong suốt năm học. Nếu cuối năm giáo viên nào vượt giờ mới được
thanh toán. Thực tế chưa phải thanh toán cho trường hợp nào trong 2 năm
qua.
- Triệu tập hội nghị họp cha mẹ HS lớp phụ đạo học sinh yếu lần 1:
+ Thời gian triệu tập: ngay từ đầu năm sau khi thành lập lớp phụ đạo
+ Nội dung hội nghị chia làm 2 phần:
Họp chung toàn thể cha mẹ HS cùng giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ
môn và Ban giám hiệu với các nội dung chính sau:
Kiểm diện và hoan nghênh các phụ huynh có mặt dự họp là thể hiện
trách nhiệm cao của bố mẹ trước nguy cơ con mình trượt đà, bỏ học, mắc tệ
nạn từ việc học yếu. Tuyệt đối không nên chê trách gia đình vì con học yếu,
bởi như vậy sẽ dẫn tới sự bất hợp tác từ phía gia đình.

Chia sẻ và thông cảm với gia đình vì con học chưa tiến bộ bởi nguyên
nhân này nguyên nhân khác. Nêu ra một số trường hợp học sinh điển hình
trượt đà dẫn tới bỏ học và mắc các tệ nạn xã hội để tăng cường sự quan tâm
của gia đình với việc học tập của con họ. Ví dụ như trường hợp em Quyến ở
xã Long Xuyên đã phạm tội giết người khi đang học lớp 9 tại trường THCS
thuộc huyện Gia Lộc cũng có nguyên nhân từ việc bỏ học chơi điện tử bị lưu
ban.
Phổ biến cụ thể kế hoạch dạy phụ đạo của nhà trường. Nêu rõ ý nghĩa
của việc tổ chức dạy phụ đạo này là thể hiện trách nhiệm của nhà trường và
của giáo viên đối với con em họ. Nêu ra một số biện pháp phối hợp giữa gia
đình với nhà trường trong việc quản lí động viên để giáo dục các em tiến bộ.
Họp riêng theo đơn vị lớp cùng giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn
với các nội dung chính là báo cáo cụ thể tình hình học tập của từng em, thảo
luận, trao đổi, chia sẻ thống nhất biện pháp quản lí động viên các em học tập
tốt ở trường và ở nhà.
- Theo dõi học sinh:
+ Việc theo dõi sĩ số lớp phụ đạo này cũng được thực hiện kiểm diện
thường xuyên hàng tuần, Ban giám hiệu kiểm tra và điện thoại trực tiếp về gia
đình kịp thời vào đầu buổi học để thông báo và kiểm tra xác minh lí do vắng
mặt của học sinh.
+ Việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh do giáo viên bộ môn và giáo
viên chủ nhiệm cùng đảm nhiệm ở 2 tiêu chí là nhận thức của các em có tiến
bộ không và điểm số của các em thay đổi tăng - giảm sau mỗi lần khảo sát
chất lượng đề chung toàn trường hay toàn huyện. Qua đó giáo viên sẽ biết
phải dạy các em cái gì và dạy như thế nào để điểm khảo sát lần sau cao hơn
lần trước.
11


- Triệu tập hội nghị họp cha mẹ học sinh lớp phụ đạo học sinh yếu lần 2

vào đầu học kì 2 với nội dung cũng giống như hội nghị lần đầu năm, nhưng
điểm khác là báo cáo đánh giá tổng hợp kết quả chung sau một học kì có bao
nhiêu em tiến bộ, bao nhiêu em thoát yếu kém; giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
bộ môn báo cáo kết quả tiến bộ cụ thể từng em cho cha mẹ học sinh biết, em
nào học bị tụt từ trung bình xuống yếu.
3.1.4. Quản lí tốt nếp nếp học tập của học sinh:
- Ngoài việc theo dõi kiểm tra thi đua nền nếp của Đoàn đội hàng ngày
thì Ban giám hiệu vẫn phải đi kiểm tra đột xuất nền nếp hàng ngày để ổn định
duy trì nền nếp hàng ngày. Vấn đề bây giờ là quản lí tốt các buổi học bồi
dưỡng học thêm các buổi chiều. Hàng ngày vào các buổi bồi dưỡng học thêm
tôi yêu cầu giáo viên dạy thêm phải báo cáo trực tiếp về Ban giám hiệu danh
sách và lí do học sinh nghỉ học sau 5 phút đánh trống vào lớp, sau đó Ban
giám hiệu trực tiếp liên lạc thông báo việc vắng mặt của học sinh với gia đình
để kiểm tra xác minh lí do nghỉ học. Việc làm này được thực hiện khá thường
xuyên, được sự ủng hộ và cảm kích nhiều từ các cha mẹ học sinh vì đã giúp
gia đình phát hiện tật nói dối của học sinh và lôi được con em họ trở lại lớp
học từ các quán chơi điện tử. Do vậy tỷ lệ học sinh tham gia các buổi bồi
dưỡng học thêm được duy trì đạt khá cao, nhiều lớp đạt 100%.
3.1.5. Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá
- Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên: quan điểm đánh giá là
hiệu quả công việc - đó là xếp hạng chất lượng học sinh lớp mình phụ trách
trên sân chung là các đợt kiểm tra học kì và khảo sát chất lượng của toàn
huyện, đánh giá sự tiến bộ của cả lớp và của mỗi học sinh đợt sau so với đợt
trước; chứ không coi trọng kết quả thi giáo viên giỏi hay kết quả dự giờ. Do
vậy giáo viên phải tập trung bằng mọi cách để có được chất lượng thật tốt
nhất.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá, khảo sát chất lượng định kì học sinh: thực
hiện theo đúng hướng dẫn của Phòng GD&ĐT là coi chấm chéo và nghiêm
túc; đảm bảo đánh giá đúng thực chất chất lượng học sinh trường mình đang ở
mức nào, không vì thành tích xếp hạng trước mắt để rồi lớp cuối cấp ngã ngửa

vì chất lượng các lớp dưới là ảo. Kết quả khảo sát được thông báo kịp thời về
gia đình và đăng trên trang web nhà trường và gửi tin nhắn đến cha mẹ học
sinh nắm được. Nhờ làm tốt việc tổ chức coi chấm nghiêm túc, thông báo kịp
thời đã có tác dụng thiết thực. Từ đó giáo viên phải biết dạy như thế nào, học
sinh phải cố gắng học ra sao, bố mẹ cần quan tâm động viên con như thế nào.
Năm học trước phòng giáo dục chỉ tổ chức khảo sát chất lượng cuối kì thì nhà
trường tổ chức khảo sát thi tháng mỗi kì 2 đợt với tinh thần cũng nghiêm túc.
Đề khảo sát được nhà trường thuê giáo viên trường khác, thậm chí là huyện
khác ra đề để đánh giá chất lượng khách quan hơn.
3.1.6. Xây dựng cơ chế, chính sách thi đua khen thưởng phù hợp động viên
được các cá nhân, tập thể làm chất lượng tốt.
- Ngoài việc thực hiện các quy định của ngành về thi đua khen thưởng,
nhà trường xây dựng và đưa vào quy chế khen thưởng cho giáo viên bồi
dưỡng có học sinh giỏi cấp huyện với giải thưởng khá cao tới 1000.000đ cho
mỗi giải học sinh giỏi cấp huyện. Mức này có lẽ là khá cao trong huyện, bởi
12


có thế mới động viên thúc đẩy giáo viên phấn đấu vì hầu hết nguồn học sinh
giỏi không có mà giáo viên phải chọn bồi dưỡng các em từ khá lên giỏi. Còn
với học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện trở lên cũng có mức thưởng cao hơn
các trường trong cụm và trong huyện.
- Để khuyến khích giáo viên dạy tốt các môn ôn thi vào lớp 10 THPT
nhà trường quy định nếu giáo viên dạy lớp nào có thành tích cao thì được
thưởng. Mặc dù phần thưởng chỉ là 500.000đ/giáo viên nhưng cũng khích lệ
được họ cố gắng hết sức để được khẳng định mình. Năm học vừa qua nhà
trường đã chi thưởng cho 5 giáo viên với số tiền là 2.500.000đ, nguồn thưởng
được trích từ 20% tỉ lệ quản lí dạy thêm học thêm.
3.2. Nhóm các giải pháp về cơ sở vật chất:
- Với điều kiện cơ sở vất chất của nhà trường chỉ có 4 phòng học 2 ca,

3 phòng học bộ môn, địa phương không có kinh phí nên giải pháp tham mưu
với địa phương để xây bổ sung thêm phòng học là không khả thi. Vậy giải
pháp bây giờ là khai thác sử dụng cơ sở vật chất hiện có như thế nào cho hiệu
quả nhất. Để đáp ứng yêu cầu của ngành là dạy học một ca để giảm áp lực học
tiết 5 cho học sinh, buổi chiều dành cho học bồi dưỡng, học thêm và các hoạt
động khác, tôi đã bàn bạc thống nhất trong Ban chi ủy chi bộ và Ban giám
hiệu, trên cơ sở thăm dò ý kiến của giáo viên trong hội đồng nhà trường, được
sự nhất trí ủng hộ ý kiến của lãnh đạo địa phương và lãnh đạo Phòng giáo dục
chúng tôi quyết định cải tạo cơ sở vật chất hai nhà vệ sinh ở tầng 2 và tầng 3
để làm kho chứa đồ dùng cho các phòng học bộ môn Vật lí và Hóa - Sinh,
đồng thời thu gọn máy móc phòng Tin học lại và sửa sang thành phòng học
chính, tận dụng 2 phòng học bộ môn làm phòng học chính là đủ 8 phòng học
1 ca cho 8 lớp. Cái lợi của việc học 1 ca thì chúng ta đã biết, không còn tình
trạng học sinh và giáo viên uể oải khi phải học tiết 5 nữa, buổi trưa các em
được nghỉ thời gian lâu hơn, do vậy việc tiếp thu bài trong các buổi học chiều
sẽ tốt hơn. Nhờ đó mà chất lượng đại trà đã được cải thiện.
3.3. Nhóm các giải pháp về sử dụng và xây dựng đội ngũ:
3.3.1. Sử dụng đội ngũ, phân công chuyên môn:
- Nhà trường thực hiện việc phân công chuyên môn, xếp thời khóa biểu
theo phương án tối ưu nhất, vì mục tiêu chất lượng, có lợi nhất cho học sinh,
đảm bảo theo nguyên tắc công bằng, khách quan, có quan tâm đến năng lực
sở trường và điều kiện cụ thể của từng người để tạo điều kiện cho mỗi người
đều có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, tạo lên sức mạnh tổng hợp
của tập thể nhà trường. Với quan điểm quan tâm đầu tư giáo viên tốt cho lớp
cuối cấp và đầu cấp.
- Ở đây tôi chỉ đề cập đến việc sử dụng đội ngũ giáo viên Ngữ văn,
Toán; không bố trí giáo viên Ngữ văn, Toán dạy cả khối mà dạy song song để
tạo sự thi đua tích cực giữa 2 giáo viên trong khối, ai cũng muốn lớp mình có
chất lượng cao, không kém lớp bạn. Giáo viên dạy Ngữ văn và Toán lớp 8
được nhận và theo lên hết lớp 9, do vậy để có kết quả thi vào lớp 10 THPT

được tốt thì giáo viên phải dạy tốt từ lớp dưới chứ không đổ lỗi kết quả cuối
cấp kém là do lớp dưới người khác dạy chưa tốt. Và kết quả thực tế đã khẳng
định hiệu quả của giải pháp này là cả hai lớp 9 năm qua đều có thành tích cao
trong việc thi vào lớp 10 THPT.
13


- Việc xây dựng kế hoạch dạy tự chọn cũng đã được thực hiện đồng
thời với giải pháp tạm bỏ phòng Tin học, nhà trường chuyển học tự chọn Tin
học sang học theo chủ đề bám sát môn Toán, Ngữ văn và Tiếng Anh. Nhờ vậy
mà kết quả khảo sát Toán, Ngữ văn, Anh qua 3 đợt trong học kì 1 năm học
này đã tăng lên rõ rệt (xem phần hiệu quả của đề tài).
3.3.2. Tổ chức bồi dưỡng xây dựng đội ngũ
Trong phạm vi đề tài này tôi không đề cập đến việc xây dựng khối đoàn
kết nội bộ nữa, vì bản thân nội bộ nhà trường có truyền thống đoàn kết thống
nhất từ trước đến nay. Tôi chỉ đề cập đến việc bồi dưỡng nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ cho giáo viên. Có nhiều biện pháp để phát triển đội ngũ giáo
viên. Với đặc điểm tình hình riêng của nhà trường và vận dụng các nguyên tắc
bồi dưỡng phát triển, tôi đề xuất một số biện pháp sau:
3.3.2.1. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và lòng nhân ái sư phạm
- Trong quá trình bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, phẩm chất
đạo đức của người thầy phải được coi trọng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào
người thầy cũng phải xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Người hiệu trưởng khi xây dựng phong cách người thầy phải chú ý tới hai
mặt. Đó là thái độ đối với công việc và cách ứng xử trước những vấn đề, tình
huống trong quan hệ với cấp trên, với đồng nghiệp, với học sinh hoặc tình
huống của thế thái nhân tình. Người thầy muốn làm tốt công tác giáo dục phải
có tác phong mẫu mực, tôn trọng và công bằng trong đối xử với học sinh, phải
xây dựng uy tín trước học sinh, nhân dân và xã hội. Dù trong hoàn cảnh nào
cũng không làm hoen ố danh dự người thầy. Phải xây dựng thói quen làm việc

có kỷ cương, nền nếp, lương tâm, trách nhiệm. Thông qua bồi dưỡng tư tưởng
chính trị cho thầy cô giáo thêm tự hào, gắn bó với nghề, với trường để tạo
động lực phát triển nhà trường.
- Lòng nhân ái sư phạm đội ngũ giáo viên là nội dung quan trọng trong
công tác bồi dưỡng chất lượng giáo viên. Lòng nhân ái - tình yêu thương con
người là cái gốc của đạo lý làm người. Với giáo viên thì tình yêu thương ấy là
cốt lõi, là cội nguồn sâu xa của lý tưởng nhân văn, là đặc trưng của giáo dục.
Tình thương yêu học sinh là điểm xuất phát của mọi sự sáng tạo sư phạm và
làm cho giáo viên có trách nhiệm cao với công việc. Tình yêu thương học
sinh thể hiện trong các hoạt động dạy học và giáo dục, đó cũng là điểm xuất
phát của tình yêu nghề nghiệp. Ý thức, thái độ và tình yêu nghề nghiệp thể
hiện ở việc không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức để trở thành tấm gương
sáng, gây niềm tin đạo đức trước học sinh và nhân dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt yêu cầu về đạo đức của người thầy lên hàng đầu là "Dĩ nhân
như giáo, dĩ ngôn như giáo". Phải làm cho mọi giáo viên thấm nhuần khẩu
hiệu "Tất cả vì học sinh thân yêu".
3.3.2.2. Bồi dưỡng năng lực sư phạm
- Bồi dưỡng năng lực sư phạm là một yêu cầu cơ bản, quan trọng trong
công tác bồi dưỡng giáo viên. Năng lực sư phạm bao gồm năng lực tổ chức
quá trình dạy học và tổ chức quá trình giáo dục. Tri thức khoa học sâu rộng là
nền tảng của năng lực sư phạm. Người giáo viên phải có tri thức khoa học sâu
rộng, vững chắc để từ đó phát triển năng lực sư phạm. Do vậy cần tập trung
bồi dưỡng những nội dung cơ bản sau:
14


+ Thường xuyên cung cấp cho giáo viên những điều chỉnh, hoặc đổi
mới trong nội dung hoặc phương pháp giáo dục và dạy học của từng mặt giáo
dục, của từng môn học trong chương trình. (Ví dụ: Thực hiện tích hợp, lồng
ghép giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục môi trường, giáo dục

pháp luật…). Hoặc đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên năng lực thiết kế giáo án môn học, năng lực
ra đề thi, chấm thi, trả bài.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên năng lực ứng xử các tình huống trong giảng
dạy và giáo dục.
+ Đối với giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt
động tập thể, năng lực thuyết phục, cảm hoá học sinh.
+ Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện
các hoạt động giáo dục trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm là người cố vấn trong
tập thể học sinh, là người trực tiếp giáo dục học sinh, trực tiếp chỉ đạo, kiểm
tra, đánh giá công bằng, khách quan quá trình rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng
của học sinh trong lớp, là người trực tiếp làm việc với cha mẹ học sinh. Do đó
giáo viên chủ nhiệm cần rèn luyện kỹ năng vận dụng các tri thức khoa học
giáo dục vào thực tiễn sinh động và đa dạng trong quá trình giao tiếp, giáo
dục học sinh của mình.
3.3.2.3. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn
- Năng lực chuyên môn là nền tảng, là đòn bẩy của năng lực sư phạm.
Muốn có năng lực sư phạm tốt phải có năng lực chuyên môn vững vàng.
- Năng lực chuyên môn hay trình độ chuyên môn bao gồm các yếu tố
như:
+Kiến thức khoa học về bộ môn và các kiến thức liên quan.
+Phương pháp giảng dạy bộ môn với từng bài, kiểu bài.
+Sự sáng tạo, khả năng đúc rút và phổ biến kinh nghiệm.
+Khả năng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về chuyên môn
cho mình và đồng nghiệp.
+Chất lượng bài dạy, giờ dạy.
+Chất lượng học tập của học sinh.
- Do đó, bồi dưỡng năng lực chuyên môn là bồi dưỡng những nội dung
sau:

+ Thường xuyên cung cấp những tư liệu, tài liệu, thiết bị cần thiết liên
quan đến nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy bộ môn.
+ Phát huy, ủng hộ sự sáng tạo của giáo viên trong giảng dạy. Đặc biệt
là hiện đại hoá phương pháp giảng dạy.
+ Tạo điều kiện để giáo viên đúc rút kinh nghiệm giảng dạy.
+ Bồi dưỡng khả năng nắm bắt mục tiêu từng bài, kiểu bài; có đủ và
vững vàng kiến thức để dạy tất cả các khối lớp.
+ Đánh giá đúng chất lượng giảng dạy của giáo viên, kết quả học tập
của học sinh.
3.3.2.4. Bồi dưỡng năng lực công tác xã hội hoá giáo dục
- Đây là một trong các nhóm giải pháp để phát triển giáo dục của Đảng
và Nhà nước trong thời kỳ CNH, HĐH, thực hiện phương châm "Nhà nước và
15


nhân dân cùng làm". Chính nhờ chủ trương này mà nguồn lực đầu tư cho giáo
dục tăng lên và làm cho bộ mặt giáo dục nước nhà khởi sắc, tạo ra một phong
trào học tập rầm rộ và cả xã hội làm giáo dục.
- Trong những năm qua nhờ công tác này làm tốt góp phần cho nhà
trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tạo nên bước nhảy vọt về chất lượng.
Do đó cần phải tiếp tục bồi dưỡng cho giáo viên năng lực làm công tác xã hội
hoá giáo dục.
- Phải làm cho giáo viên nắm được nội dung, yêu cầu của xã hội hoá
giáo dục là "khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia
phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ
được học thường xuyên học suốt đời; tiến tới một xã hội học tập".
- Phải lập chương trình kế hoạch và tổ chức, chỉ đạo công tác này một
cách nghiêm túc, khoa học để giáo viên có cơ sở thực hiện. Giáo viên cũng
phải tự mình học tập, tự mình tạo mối liên hệ nhà trường - gia đình - xã hội
trong giáo dục học sinh. Phải phát huy vai trò người thầy trong việc phát triển

giáo dục.
3.3.2.5. Bồi dưỡng kiến thức khoa học bổ trợ
- Trước xu thế toàn cầu hoá, các nước đang mở rộng hợp tác và hội
nhập, đặc biệt bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và
hội nhập đang phát triển như vũ bão, Ngoại ngữ và tin học đang trở thành thứ
vũ khí không thể thiếu được đối với sự hợp tác và phát triển. Nước ta phong
trào học ngoại ngữ và tin học đang dấy lên rầm rộ.
- Cũng giống như nhiều nhà trường khác trong huyện, đội ngũ giáo
viên nhà trường đang gặp khó khăn về trình độ ngoại ngữ và tin học. Vốn
ngoại ngữ và tin học mà nghèo nàn sẽ là cản trở rất lớn trong việc nâng cao
chất lượng giảng dạy, giáo dục và nhiều hoạt động khác. Do đó phải tổ chức
bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ và tin học cho giáo viên. Phải tổ chức cho giáo
viên học ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh để giáo viên biết sử dụng ở mức độ
cần thiết. Phải bồi dưỡng cho giáo viên hiểu được tin học, biết sử dụng máy vi
tính và các thiết bị công nghệ hiện đại để hỗ trợ cho giảng dạy và các hoạt
động giáo dục khác.
3.4. Nhóm các giải pháp về công tác phối hợp:
3.4.1. Phối hợp với tổ chức Đoàn đội
- Ở nhà trường việc quản lí và thực hiện nền nếp giờ học chính khóa
của học sinh được giáo viên chủ nhiệm và Đoàn đội duy trì thực hiện khá tốt,
nên chúng tôi khá yên tâm. Điểm thi đua các lớp được cập nhật thường xuyên
kịp thời trên trang web nhà trường, được thông báo tại bảng tin và dưới cờ
hàng tuần. Để việc học bài trên lớp và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh được
tốt Ban giám hiệu yêu cầu Đoàn đội đưa nội dung kiểm tra sách giáo khoa, vở
ghi, vở chuẩn bị bài về nhà, đồ dùng học tập vào tiêu chí chấm thi đua hàng
ngày. Do vậy nền nếp học tập của học sinh đã tốt hơn, tiến bộ hơn rất nhiều.
Chính vì vậy mà phong trào hoạt động Đội và thanh thiếu niên của nhà trường
năm học 2012 - 2013 đã được huyện đoàn về kiểm tra và đánh giá rất cao.
Liên đội và đồng chí giáo viên Tổng phụ trách đều được Tỉnh đoàn tặng giấy
khen năm học 2012 - 2013.

3.4.2. Phối hợp với cha mẹ học sinh:
16


- Để phục vụ tốt việc liên lạc với gia đình, nhà trường đã lập sổ danh bạ
số điên thoại học sinh các lớp và cung cấp cho Ban giám hiệu và các giáo
viên, treo 1 bộ ở văn phòng để ai cũng có thể liên lạc được với gia đình.
3.4.2.1. Thông báo kết quả kịp thời về gia đình:
+ Như đã trình bày ở phần trên, hàng ngày vào các buổi bồi dưỡng học
thêm giáo viên dạy thêm báo cáo trực tiếp về Ban giám hiệu danh sách và lí
do học sinh nghỉ học ngay sau khi vào lớp, sau đó Ban giám hiệu điện trực
tiếp với gia đình để kiểm tra xác minh lí do nghỉ học của học sinh. Việc làm
này được thực hiện khá thường xuyên, được sự ủng hộ và cảm kích nhiều từ
phía cha mẹ học sinh vì đã giúp gia đình phát hiện tật nói dối của học sinh và
lôi được con em họ trở lại lớp học từ các quán chơi điện tử. Do vậy ý thức
học tập của các em được cải thiện, chất lượng các buổi bồi dưỡng học thêm
được nâng nên rõ rệt.
+ Kết quả khảo sát được thông báo kịp thời về gia đình và đăng trên
trang web nhà trường và thông qua hệ thống nhắn tin điện thoại tới cha mẹ
học sinh. Việc làm này thực hiện ngay sau khi thi xong khoảng vài ngày giúp
cha mẹ học sinh nắm được kết quả kịp thời, để bố mẹ cần quan tâm quản lí
động viên con như thế nào cho hiệu quả nhất.
+ Ngoài ra nhà trường còn phát huy tác dụng của trang web nhà trường
và hệ thống tin nhắn để thông báo hàng tuần tình hình học tập và tu dưỡng
cũng như kết quả điểm số các môn của học sinh tới gia đình một cách kịp thời
đều đặn.
3.4.2.2. Tổ chức họp Hội cha mẹ học sinh:
- Phối hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường là phương châm hàng
đầu của nhà trường. Ý nghĩa của mọi cuộc họp cha mẹ học sinh là tìm tiếng
nói chung giữa gia đình và nhà trường trong hoạt động giáo dục học sinh .

Điều kiện tiên quyết cho một thành quả giáo dục thực thụ chỉ có được khi có
sự đồng lòng phối hợp chặt chẽ, thiện chí và bền vững giữa bậc làm cha làm
mẹ với nhà trường. Coi trọng điều đó, Ban Giám hiệu và đội ngũ giáo viên
chủ nhiệm trường đã không ngừng thiết lập và củng cố mối quan hệ này, bắt
đầu bằng cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm học. Kết quả các năm qua mối
quan hệ giữa nhà trường với các bậc cha mẹ học sinh ngày càng khăng khít,
cha mẹ học sinh đã ủng hộ rất nhiều cả về vật chất và tinh thần, điều đặc biệt
là cha mẹ học sinh đã rất tin tưởng và yên tâm khi gửi gắm con mình vào học
tại trường. Sau đây là cách làm cụ thể việc họp hội nghị cha mẹ học sinh hàng
năm:
- Họp hội nghị với cha mẹ học sinh toàn trường được tổ chức định kì
trong một năm 3 lần. Đợt 1 họp vào đầu năm học, đợt 2 họ vào đầu học kì 2,
đợt 3 sau khi kết thúc năm học. Riêng lớp 9 có thêm một đợt nữa vào thời
điểm tháng 4 hàng năm để chuẩn bị cho việc ôn thi tập trung.
- Nội dung các đợt họp hội nghị với cha mẹ học sinh gồm 2 phần:
Phần 1: Họp chung toàn trường, gồm các nội dung chính sau:
+ Tổ chức tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu và chương trình làm việc.
+ Hiệu trưởng nhà trường báo cáo đánh giá kết quả năm học trước hoặc
kì học trước và chủ trương, phương hướng kế hoạch, các mục tiêu phấn đấu
của nhà trường trong năm học này, đồng thời thông báo các khoản tiền thu
17


theo Văn bản Pháp luật ngành giáo dục quy định cho năm học 2013-2014.
Phổ biến các quy định chung của nhà trường yêu cầu học sinh phải thực hiện
như: Điều lệ nhà trường, nội quy nhà trường, nội quy Liên đội, và các quy
định khác có liên quan.
+ Đại diện cha mẹ học sinh nhà trường báo cáo đánh giá kết quả hoạt
động phối hợp của Hội cha mẹ học sinh năm qua, báo cáo tình hình tài chính
công khai, phổ biến phướng hướng của năm học mới. Trích đọc nội dung cần

thiết ở một số điều trong Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh ban hành kèm
theo Thông tư Số: 55/2011/TT-BGDBGDĐT, ngày 22 tháng 11 năm 2011 của
Bộ trưởng, Bộ Giáo dục và Đào tạo để cha mẹ học sinh năm được vai trò,
trách nhiệm của mình và nhà trường.
+ Thảo luận chung: Với vai trò chủ tọa điều khiển hiệu trưởng mời một
số cha mẹ học sinh đại diện lên phát biểu thảo luận tập trung vào các vấn đề:
đánh giá kết quả học tập chung của nhà trường, của lớp, của riêng con em
mình, phản ánh tâm tư nguyện vọng của cha mẹ học sinh, nêu các đề xuất
kiến nghị cụ thể với nhà trường.
+ Hiệu trưởng căn cứ nội dung cụ thể để giải đáp và kết luận, bế mạc
hội nghị để chuyển sang phần họp riêng theo đơn vị lớp.
Phần 2: Họp riêng theo đơn vị lớp, thành phần gồm các cha mẹ học
sinh, giáo viên chủ nhiệm, một số giáo viên bộ môn (do hiệu trưởng phân
công dự họp cùng); gồm các nội dung chính sau:
+ Kiểm diện
+ Báo cáo khái chung về tình hình học tập và thi đua của lớp, báo cáo
cụ thể tình hình học tập của từng em trong năm học qua. Báo cáo phương
hướng kế hoạch và các chỉ tiêu phấn đấu của tập thể lớp năm học này. Phổ
biến nội quy riêng của lớp (nếu có), một số kinh nghiệm trong việc quản lí
phối hợp trong việc nuôi dạy con cái, nêu rõ những trường hợp học sinh cá
biệt, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt và giải pháp giáo dục phối hợp cần thiết
để giúp các em tiên bộ.
+ Đại diện cha mẹ học sinh của lớp báo cáo tình hình hoạt động của hội
trong năm qua, báo cáo công khai thu chi quỹ hội và phương hướng năm nay.
+ Thảo luận, trao đổi, chia sẻ thống nhất biện pháp quản lí động viên
các em học tập tốt ở trường và ở nhà.
+ Giáo viên chủ nhiệm giải đáp cụ thể các ý kiến thảo luận, thắc mắc
tại hội nghị và kết luận hội nghị. Trường hợp ý kiến vượt thẩm quyền giải
quyết thì giáo viên chủ nhiệm sẽ báo cáo lên ban giám hiệu xin ý kiến giải
đáp cụ thể sau.

+ Thông qua biên bản và nghị quyết hội nghị.
+ Báo cáo phản ảnh nhanh kết quả hội nghị họp cha mẹ học sinh của
lớp về Ban giám hiệu.
3.5. Nhóm các giải pháp tổ chức kế hoạch ôn tập bồi dưỡng ôn thi vào lớp
10 THPT
Chất lượng học sinh thi đỗ vào lớp 10 THPT chính là kết quả của chất
lượng giáo dục đại trà sau 4 năm học THCS để đánh giá hiệu quả công tác
giáo dục của một trường THCS. Để có tỉ lệ học sinh thi đỗ vào lớp 10 THPT
đạt và cao hơn so với mặt bằng chung của huyện và tỉnh trong những năm qua
18


nhà trường đã thực hiện nghiêm túc từ công tác nâng cao chất lượng giáo dục
đại trà trong cả 4 năm học và công tác lên kế hoạch bồi dưỡng ôn thi vào lớp
10 THPT cho học sinh lớp 9 cụ thể như sau:
3.5.1. Lập kế hoạch về thời gian bồi dưỡng ôn thi vào lớp 10 THPT
- Việc tổ chức dạy bồi dưỡng ôn tập cho học sinh lớp cuối cấp chuẩn bị
hành trang bước vào kì thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT hàng năm được chia
ra làm 2 giai đoạn, đó là:
+ Bồi dưỡng ôn luyện trong năm học: Thực hiện từ đầu năm học đến
cuối tháng 5 hàng năm. Mỗi tuần học 3 buổi, chia đều cho 2 môn Ngữ văn và
Toán, do giáo viên dạy chính khóa bồi dưỡng.
+ Bồi dưỡng ôn thi giai đoạn tập trung: từ cuối tháng 5 đến trước ngày
thi với thời lượng tiết dạy dự kiến các môn dao động xung quang số liệu sau:
Môn Toán
108 tiết

Môn Ngữ văn
108 tiết


Môn thứ 3
68 tiết

- Đối với giáo viên giảng dạy:
+ Việc lập kế hoạch ôn thi vào lớp 10 THPT của giáo viên được BGH
nhà trường chỉ đạo tiến hành từ học kỳ I và chi tiết cụ thể 3 môn đó thực hiện
kế hoạch ngay tránh tình trạng khi biết môn thi rồi mới lập kế hoạch thì sẽ
không kịp thời trong công tác ôn thi.
+ Việc lập kế hoạch ôn thi của từng môn được thực hiện theo tinh thần
chỉ đạo dạy ghép đối tượng ngay trong tập thể 3 đối tượng Khá, trung bình và
yếu.
- Đối với từng học sinh:
+ Việc lập kế hoạch ôn thi không chỉ thực hiện đối với giáo viên, mà với
học sinh cũng cần có kế hoạch ôn thi của mình.
+ Cụ thể, nhà trường yêu cầu từng học sinh căn cứ vào lực học của
mình để đăng ký dự kiến điểm thi của từng môn. Với bản đăng ký điểm này
học sinh sẽ có kế hoạch ôn tập cụ thể, phân phối thời gian hợp lý cho từng
môn học để đạt được kết quả tốt nhất.
- Xây dựng đề cương, tài liệu ôn tập bồi dưỡng cho học sinh:
+ Nhà trường chỉ đạo 2 giáo viên dạy song song mặc dù dạy riêng 2 lớp
nhưng cùng dự thảo và trao đổi đưa ra bộ đề cương và tài liệu chi tiết phục vụ
chung cho việc dạy ôn thi của giáo viên, đồng thời cũng in ấn phát hành cho
mỗi học sinh một bộ làm tài liệu tự học.
+ Nhờ có bộ tài liệu này mà giáo viên và học sinh tiết kiệm được rất
nhiều thời giờ cho việc cho học sinh chép đề bài về nhà, làm tăng khối lượng
chất lượng hiệu quả các tiết học bồi dưỡng.
+ Có tiếng nói chung trong việc xây dựng bộ đề và tài liệu ôn thi của 2
giáo viên dạy song song như ở trường tôi là điều hiếm thấy ở các trường hiện
nay, bởi các giáo viên thường muốn giữ vốn kinh nghiệm đó làm của riêng
mình, không muốn chia sẻ với ai, hoặc có chăng chỉ chia sẻ chỉ phần nào, còn

để lại làm bảo bối để phục vụ việc dạy thêm của riêng mình. Với tư tưởng ấy
thì sẽ làm chậm sự tiến bộ của cả mình và đồng nghiệp.
19


+ Sau mỗi năm dạy ôn hai giáo viên lại ngồi cùng nhau rút kinh
nghiệm, thêm bớt bổ sung cho bộ tài liệu ngày thêm hoàn chỉnh hơn. Riêng
bộ tài liệu ôn thi môn Toán của các giáo viên trường tôi cũng được nhiều đồng
nghiệp đánh giá rất cao về tính công phu và hiệu quả của nó. Nhờ vậy mà kết
quả điểm TB môn toán toàn trường trong mùa thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT
năm 2013 xếp thứ 2 trong toàn huyện, chỉ sau trường THCS Vũ Hữu.
3.5.2. Lựa chọn bồi dưỡng, giao nhiệm vụ cho giáo viên dạy dạy ôn thi
- Xác định tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT là mục tiêu trọng tâm của nhà
trường nên ngay từ đầu năm BGH nhà trường đã tổ chức lấy ý kiến của học
sinh khối 9 đối với các giáo viên đang dạy các môn thi.
- Thông qua việc thăm dò này BGH nhà trường có những giải pháp về
đội ngũ giáo viên ôn thi vào lớp 10 THPT. Để đi đến quyết định cử giáo viên
nào ôn thi vào lớp 10 THPT, ôn cho lớp nào BGH còn tham khảo từ các
nguồn thông tin khác như: từ bản thân giáo viên giảng dạy, phụ huynh học
sinh, tổ nhóm chuyên môn… để từ đó có những quyết định đúng đắn kịp thời.
Nếu nguồn giáo viên của trường không đáp ứng được nhu cầu và nguyện
vọng ôn thi của học sinh trong trường, BGH chủ động liên hệ với các đơn vị
trường bạn trên địa bàn để mời giáo viên đến ôn thi. Tuy nhiên cần cân nhắc
giữa việc mời giáo viên trường khác đến dạy có thuận lợi trước mắt là chất
lượng giáo viên sẽ hơn, nhưng khó khăn là giáo viên học sinh chưa quen
nhau, và cái khó nữa là giáo viên tại trường sẽ không nỗ lực cố gắng phấn đấu
nữa vì lãnh đạo chưa tin tưởng mình. Ngược lại nếu giao trách nhiệm cho giáo
viên tại trường dạy ôn sẽ được lợi nhiều hơn, vừa là bồi dưỡng giáo viên của
trường mình, vừa không làm mất uy tín giáo viên của trường, và dĩ nhiên
cũng vừa có chất lượng tốt (nếu chất lượng giáo viên ở trường đạt mức Trung

bình trở lên thì nên giao nhiệm vụ và động viên, bồi dưỡng thêm về kinh
nghiệm cũng như chia sẻ tháo gỡ khó khăn cho họ trong quá trình dạy ôn).
Thực tế chúng tôi đã phải cân nhắc điều này và cuối cùng chọn phương án sử
dụng giáo viên tại trường, kết quả điểm trung bình môn thi Vật lí tuyển sinh
vào 10 năm học 2013 - 2014 của nhà trường sít sao điểm trung bình của giáo
viên mà chúng tôi dự kiến mời dạy ôn thi (giáo viên này nằm trong hội đồng
bộ môn của huyện) và cao hơn nhiều trường khác - xếp thứ 13/19 trường
trong huyện. Còn điểm trung bình môn Toán xếp thứ 2/19 trường, môn Ngữ
văn xếp thứ 9/19 trường trong huyện, trung bình cả 3 môn xếp thứ 5.
- Trong 2 năm qua những giải pháp về đội ngũ giáo viên trực tiếp ôn thi
vào lớp 10 THPT cho học sinh luôn được BGH quan tâm và đó cũng là một
trong những yếu tố quan trọng tạo lên chất lượng thi vào lớp 10 THPT của
nhà trường trong những năm qua.
3.5.3. Thực hiện việc dạy học theo đối tượng linh hoạt:
Xác định đối tượng để lựa chọn kiến thức dạy cho học sinh:
- Đối với nhóm học sinh có lực học trung bình, khá:
Như đặc điểm nhà trường nêu ở trên, khối 9 cũng như các khối khác
không nhiều học sinh, lại không có nhiều học sinh khá giỏi; mà chủ yếu là
học sinh trung bình, khá và yếu. Nên không chia lớp chọn theo phân loại đối
tượng. Việc chia đều đối tượng cho cả 2 lớp có cái vất vả cho giáo viên dạy
nhưng lại được nhiều hơn là mất. Từ đó giáo viên xác định không dạy kiến
20


thức nâng cao nhiều cho các em, chỉ dạy kiến thức kĩ năng cơ bản trong phạm
vi bài tập sách giáo khoa và sách bài tập, chú trọng rèn kĩ năng làm bài thi và
kĩ năng trình bày bài giải cho học sinh, hạn chế tối thiểu việc học sinh mất
điểm các phần dễ, bài dễ.
- Đối với nhóm học sinh học lệch Toán và Ngữ văn:
Đây là nhóm học sinh mà có những môn đạt điểm số cao nhưng có môn

kia lại không khá, thậm chí có em còn yếu và khó đạt được tới điểm 5. Do vậy
đặt ra mục tiêu là phải dạy cho học sinh tiến bộ môn còn yếu nhiều hơn để hi
vọng em sẽ có tổng điểm đạt 25 điểm. Với nhóm học sinh này nhà trường sẽ
chỉ đạo giáo viên phải nắm sát lực học của từng em, đánh giá được em này thi
sẽ đạt tầm điểm mấy, giao nhiệm vụ cho giáo viên phải theo dõi phát hiện
những kiến thức, kĩ năng còn thiếu, còn yếu, còn hổng để bồi dưỡng phụ đạo
thêm cho các em trong quá trình ôn thi để các giảm khỏa lấp những lỗ hổng
kiến thức.
- Đối với nhóm học sinh yếu:
+ Với quan điểm cũng giống như lớp phụ đạo học sinh yếu, với cách đo
chất lượng là tính điểm trung bình toàn trường như hiện nay của Sở thì mọi sự
cố gắng nỗ lực làm bài thi của các đối tượng học sinh đều có vai trò nâng
thành tích chung là như nhau, mà việc dạy để học sinh yếu tăng thêm 1 hoặc 2
điểm dễ hơn đối với các học sinh khá và giỏi. Xác định mục tiêu như vậy nên
nhà trường yêu cầu giáo viên cần quan tâm đến nhóm đối tượng này, mỗi lớp
cũng không quá nhiều em diện yếu kém, chỉ có vài em nên giáo viên cố gắng
quan tâm hơn thì có thể sát sao kèm được các em trong quá trình ôn thi.
Ngược lại chia theo lớp chọn, để rồi dồn hết học sinh yếu kém cả khối vào
vào một lớp học thì 1 giáo viên không thể kèm cặp xuể, vì khả năng chỉ có
nhất định, và nếu như thế thì vô tình ta đã bỏ mặc cho một số em học yếu. Do
vậy sẽ làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả chung của toàn trường.
+ Với nhóm học sinh này, nhà trường chỉ đạo giáo viên lên kế hoạch ôn
tập sát với lực học thực tế của học sinh. Chỉ dạy những kiến thức kĩ năng rất
cơ bản để giúp các em không bị mất điểm các câu dễ, các câu chống điểm liệt
và điểm kém. Những đơn vị kiến thức đó sẽ được giáo viên dạy đi kiểm tra lại
nhiều lần để giúp học sinh nắm được kiến thức và kỹ năng cơ bản để khi vào
phòng thi học sinh làm bài đạt được điểm số tối đa có thể.
- Đối với nhóm các em học khá cứng và giỏi:
Ngoài việc dạy như các đối tượng học sinh đại trà ra cũng cần quan tâm
giao thêm bài cho các em; dạy cho các em thêm phần kiến thức nâng cao để

các em có thể đạt được điểm 8, điểm 9; không đặt ra mục tiêu dạy để các em
đạt điểm 10 vì sẽ mất nhiều thời gian mà hiệu quả không cao.
3.5.4. Tổ chức thi thử cho học sinh
- Quá trình ôn thi được BGH nhà trường chia làm 2 giai đoạn:
Trong năm học và giai đoạn tập trung. Trong mỗi giai đoạn BGH nhà
trường chỉ đạo tiến hành khảo sát chất lượng ôn thi. Việc kiểm tra khảo sát
được thực hiện nghiêm túc để đánh giá thực chất được lực học của học sinh,
kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy, học và đưa ra những giải pháp phù hợp
và hiệu quả trong quá trình ôn thi.
- Ra đề và tổ chức khảo sát thi thử, thông báo kết quả:
21


Tổ chức khảo sát chất lượng định kì học sinh trong năm học được thực
hiện ở 2 môn Ngữ văn và Toán qua kì thi tháng 2 lần/ học kì, thi thử 3 môn
được thực hiện từ 2 đến 3 lần trong đợt ôn tập trung trước kì thi tuyển sinh:
phương châm là coi chấm nghiêm túc; đảm bảo đánh giá đúng thực chất chất
lượng học sinh trường mình đang ở mức nào, đặc biệt phải ghi chép lại các
hạn chế của học sinh, các lỗi thường gặp trong quá trình chấm bài để rút kinh
nghiệm và sửa chữa bổ sung cho học sinh. Để từ đó giáo viên phải biết dạy
như thế nào, học sinh phải cố gắng học ra sao. Kết quả khảo sát được thông
báo kịp thời về gia đình và đăng trên trang web nhà trường cha mẹ học sinh
nắm được để bố mẹ cần quan tâm quản lí động viên con như thế nào. Đề khảo
sát được nhà trường thuê giáo viên trường khác, và trao đổi từ huyện khác ra
đề để đánh giá chỉ ra và khắc phục những thiếu sót của giáo viên trong quá
trình dạy học sinh ôn thi.
- Tạo tâm thế tốt cho học sinh trước khi bước vào kỳ thi tuyển:
+ Ngoài việc trau dồi cho học sinh lượng kiến thức cơ bản, kĩ năng làm
bài thi thì nhà trường cùng với và phụ huynh còn tạo cho các em một tâm thế
tốt trước khi bước vào phòng thi bằng việc động viên khích lệ các em. Phân

tích cho các em thấy đây là một kỳ thi quan trọng nhưng sẽ không quá nhiều
áp lực nếu các em được tập dượt thi thử và chuẩn bị tốt về tâm lí cũng như về
kiến thức.
+ Đồng thời nhà trường tổ chức cho các em học tập quy chế thi thật
nghiêm túc để tránh tình trạng các em bỡ ngỡ, mắc lỗi khi bước vào phòng
thi. Vì vậy trong quá trình tham gia thi học sinh đã có tâm lý thoải mái và
không có học sinh nào vi phạm quy chế thi đó cũng là một yếu tố tạo nên sự
thành công của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng hàng năm. Hầu hết
các em đi thi đều đạt điểm cao hơn điểm khảo sát ở trường.
3.5.5. Tư vấn phân luồng cho học sinh
- Qua kết quả thi thử tuyển sinh vào 10, giáo viên tư vấn cho học sinh
lựa chọn trường để thi sao cho phù hợp với sức học của học sinh và điều kiện
của gia đình.
- Với học sinh có tổng điểm ở tốp cao có thể thi vào trường THPT Bình
Giang, còn lại các em tập trung thi tại trường THPT Kẻ Sặt.
- Đối với diện học sinh thi thử có tổng điểm thuộc tốp cuối thì nhà
trường tư vấn cho các em đăng kí học các một số các trường nghề như trường
Cao đẳng nghề - Thương mại và Công nghiệp đóng tại Thị trấn Lai Cách Cẩm Giàng hoặc một số trường nghề liên kết với Trung tâm GDTX - Hướng
nghiệp - Dạy nghề Bình Giang.
- Kết quả nhà trường cũng có những em đạt kết quả điểm ở tốp 5 tại
trường THPT Bình Giang và có em đứng thứ 2 tại trường THPT Nguyễn
Thiện Thuật - Mỹ Hào - Hưng Yên trong kì thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT 2
năm vừa qua.
- Thực tế việc tư vấn phân luồng cho học sinh đăng kí vào học các
trường nghề trong 2 năm qua của nhà trường vẫn chưa được tốt. Đa số các em
vẫn đăng kí tiếp tục thi tuyển vào lớp 10 THPT theo nguyện vọng của bố mẹ
mặc dù biết trước hy vọng đỗ là rất mong manh. Nếu năm học 2012 - 2013
nhà trường làm tốt được việc phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS như
22



các trường bạn trong huyện thì tổng điểm trung bình và xếp hạng kì thi vào 10
THPT của nhà trường sẽ đạt tới 31 điểm và xếp trong tốp 100 của tỉnh (số liệu
thống kê với 70% học sinh tốt nghiệp tham dự kì thi tuyển sinh vào lớp 10
THPT).
4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Các giải pháp đổi mới quản lí chỉ đạo trong trường THCS nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đại trà và tỉ lệ đỗ vào lớp 10 THPT đã được nhà
trường thực hiện trong những năm qua đã có những kết quả đáng khích lệ. Do
vậy nhà trường luôn được công nhận là đơn vị trường tiên tiến, năm học
2013-2014 được UBND huyện khen tặng là 1 trong 3 đơn vị có thành tích
xuất sắc trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học, đặc biệt nhất là hiệu quả học
sinh thi vào lớp 10 THPT.
- Sau đây là một số kết quả đạt được (có so sánh đối chiếu với các năm
trước):

4.1. Về chất lượng dạy học:
- Kết quả việc phụ đạo học sinh yếu học kì 1 năm học 2013-2014:
Sau đây là bảng số liệu học sinh có điểm loại Yếu được theo dõi trước
và sau đợt phụ đạo trong học kì 1 năm học 2013 - 2014:
Khối
lớp
6
7
8

Tổng số đầu năm học
Môn
Môn
T số

Ngữ
Toán
văn
13
8
12
12
8
7
11
11
11

Điểm KSCL cuối kì 1
Môn
Toán

Môn Ngữ
văn

8
10
1

10
10
8

Điểm TBm
Môn

Môn
Ngữ
Toán
văn
3
5
3
2
5
6

X.loại
HL yếu

Số HS
thoát
yếu

2
2
0

11
10
11

- Chất lượng 2 mặt giáo dục:
Năm
học


2 mặt
GD
Học
kiểm

2010
-2011
Học
lực
2011
-2012

Học
kiểm
Học
lực

Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu

Chỉ tiêu
SL
%
155

61,8
91
36,2
5
2,0
0
0
8
3,2
98
39,0
129
51,4
16
6,4

Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu

84
112
34
0
8

72
116
34

Loại

Kết quả
SL
%
97
39,9
121
49,8
25
10,3
0
0,0
7
2,9
93
38,3
126
51,9
17
7,0

36,5
48,7
14,8
0

3,5
31,3
50,4
14,8

86
87
49
7
8
81
92
45
23

37,6
38,0
21,4
3,1
3,5
35,4
40,2
19,7

Đánh giá
Chưa đạt KH
Vượt KH
Vượt KH
Đạt KH
Gần đạt KH

Gần đạt KH
Vượt KH
Gần đạt KH
Vượt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH
Đạt KH
Vượt KH
Chưa đạt KH
Chưa đạt KH


Học
kiểm
2012
-2013

Học
lực

Học
kiểm

2013
-2014
(Học
kì 1)

Học

lực

Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém

0
88
102
34
1
16
70
119

20
0

0
39,1
45,3
15,1
0,4
7,1
31,1
52,9
8,9
0,00

3
102
84
34
0
14
87
98
21
0

116
100
15
0
20

96
100
15
0,0

50,2
43,3
6,5
0,0
8,7
41,5
43,3
6,5
0,0

111
95
23
0
29
82
103
15

0

1,3
46,36
38,18
15,45

0,0
6,36
39,55
44,55
9,5
0,0
48,5
41,5
10
0
12,7
35,8
45
6,5
0

Chưa đạt KH
Đảm bảo và vượt Kế
hoạch đề ra, Cao hơn
so với các năm trước
Đảm bảo và vượt Kế
hoạch đề ra, Cao hơn
so với các năm trước
Đảm bảo và vượt Kế
hoạch đề ra, Cao hơn
so với các năm trước
Đảm bảo và vượt Kế
hoạch đề ra, Cao hơn
so với các năm trước


- Tỉ lệ lên lớp:
Năm
học
2010
-2011

2011
-2012

2012
-2013

Chỉ
tiêu
91,2%

163/176 = 92,6%

Chưa đạt KH

95,6%

166/176 = 94,3%

Chưa đạt KH

Lên lớp thẳng

84,9%


141/184 = 76.6%
(toàn huyện 90,97)

Lên lớp sau kiểm tra
lại trong hè

91,1%

163/184 = 88.6%
(toàn huyện 97,38%)

Lên lớp thẳng

87,2%

151/172 = 87,8%

Lên lớp sau kiểm tra
lại trong hè

90,8%

159/172 = 92,4%

Nội dung
Lên lớp thẳng
Lên lớp sau kiểm tra
lại trong hè

Kết quả


Đánh giá

Chưa đạt KH
thấp hơn TB
huyện
Chưa đạt KH
thấp hơn TB
huyện
Đạt KH và cao
hơn năm trước
Đạt KH và cao
hơn năm trước

- Chất lượng khảo sát của PGD&ĐT Bình Giang học kì 1 năm học
2013 - 2014:
Tuy chất lượng đầu vào còn thấp song chất lượng giáo dục đại trà của
nhà trường đã vươn lên và luôn xếp ở tốp đầu trong toàn huyện, cụ thể như
sau:
+ Môn Toán xếp thứ 2/19 trường.
+ Môn Tiếng Anh xếp thứ 3/19 trường.
+ Môn Ngữ văn xếp thứ 9/19 trường.
+ Môn Vật lí xếp thứ 9/19 trường.
24


×