Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.7 KB, 152 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VI
HỌC VIỆN KHOA HỌC

NGUYỄN HUYỀN H

VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG CÁC CƠ QUAN

Ngành: Luật Hiến pháp vàLuật Hành

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LU

Người hướng dẫn khoa học: GS.T

HÀ NỘI –2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Kết luận của luận án chưa từng công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của tôi.
Hà Nội, tháng 01 năm 2019
NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Huyền Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1.


1.1.
1.2.
1.3
Chương 2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
2.5.
Chương 3
3.1.
3.2.
3.3.
Chương 4.

1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Nhận xét tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
nghiên cứu
Giả thiết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
Khái niệm văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính
Đặc điểm văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính
Các nội dung biểu hiện của văn hóa pháp luật trong cơ quan
hành chính
Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật trong cơ quan hành
chính

Kinh nghiệm quốc tế vềvăn hóa pháp luật trong cơ quan hành
chính
THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
Khái quát văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính từ năm
1945 đến trước Đổi mới 1986
Thực trạng văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính từ Đổi
mới (1986) đến nay
Những vấn đề đặt ra đối với xây dựng, nâng cao văn hóa pháp
luật trong cơ quan hành chính nhà nước
NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Yêu cầu đối với nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan
hành chính
4.2 Quan điểm nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính
4.3 Các giải pháp nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan
hành chính
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11
11
29
32
37
37
46

52
59
65
74
74
78
103

108
108
114
118
138
140
141


CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
VHPL: Văn hóa pháp luật
CQHC: Cơ quan hành chính
CB, CC: Cán bộ, công chức
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một trong những loại hình của văn hóa, văn hóa pháp luật là tổng
thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực
pháp luật. Văn hóa pháp luật là hệ thống các giá trị phản ánh truyền thống và

lối sống theo pháp luật của một dân tộc, quốc gia, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần
của xã hội. Đồng thời, đối với mỗi loại hình tổ chức, văn hóa pháp luật là nền
tảng thiết lập nên hệ thống các giá trị pháp luật, định hướng cho tổ chức hoạt
động và hình thành nên khuôn mẫu hành vi, lối sống theo pháp luật của các cá
nhân trong tổ chức. Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính cũng
không phải là ngoại lệ. Vấn đề nghiên cứu của Luận án: “Văn hóa pháp luật
trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện nay” được xuất phát từ những
lý do cụ thể sau:
Một là, Văn hóa pháp luật luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan hành chính.
Có thể hiểu văn hóa pháp luậttrong các cơ quan hành chính là hệ thống
các yếu tố, giá trị vật chất và tinh thần gắn liền với tổ chức và hoạt động của
cơ quan hành chính, với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, hoạt động
thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức; được thể hiện và phản ánh
trong các quan hệ pháp luật giữa các cơ quan hành chính, cán bộ, công chức
với các cá nhân và tổ chức khác trong xã hội. Văn hóa pháp luậtgắn liền với
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tác động đến toàn bộ các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tư pháp, giáo dục,
đào tạo, đất đai, môi trường… Để xây dựng được một nền hành chính dân
chủ, chuyên nghiệp, hiện đại không thể thiếu các tư tưởng, quan điểm lập

5


pháp, lập quy đúng đắn, không thể thiếu hệ thống pháp luật có chất lượng,
đồng bộ, khả thi cũng như đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức và kỹ năng
thực thi pháp luật. Ngược lại, những tư tưởng, quan điểm pháp luật, những
chuẩn mực pháp luật cũng chỉ có giá trị khi nó hướng tới xây dựng một nền
hành chính chuyên nghiệp, công khai, minh bạch - một nền hành chính của

dân, do dân, vì dân.
Hai là, trong thời gian qua Nhà nước ta luônnhận thức rõ tầm quan
trọng của xây dựng văn hóa pháp luậttrong các cơ quan hành chính, ban hành
nhiều chính sách, văn bản nhằm xây dựng, nâng cao văn hóa pháp luậtnói
chung, trong đó có văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính.
Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2011 - 2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày
8/11/2011), trong đó đề ra mục tiêu: “Xây dựng hệ thống các cơ quan hành
chínhtừ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại,
hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều
hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính”… Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh
cải cách chế độ công vụ, công chức”, xác định rõ mục tiêu phải xây dựng một
nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”,
đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức phải gắn với quá trình thực
hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 2020, phù hợp với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, góp phần xây dựng một nền hành chính thống nhất,
trong sạch, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và phục vụ nhân dân… Trên cơ sở đó
các Bộ, ngành và địa phương cũng đã ban hành kế hoạch, chương trình triển
khai thực hiện, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và cần thiết để phát huy tính pháp


quyền, dân chủ cũng như nâng cao văn hóa pháp luật trong hệ thống các cơ
quan hành chính.
Ba là, trong thời gian qua mặc dù việc xây dựng văn hóa pháp luậttrong
các cơ quan hành chính đã được quan tâm, chú trọng và bước đầu đạt được
những kết quả nhất định, nhưng trên thực tế vẫn còn những bất cập, hạn chế
cần khắc phục.
Kết quả thực hiện chính sách,pháp luật của Nhà nước về xây dựng,
nâng cao văn hóa pháp luậtnói chung và văn hóa pháp luật trong các cơ quan

hành chínhcho thấy đã đạt được những kết quả nhất định.Nhận thức, trình độ
hiểu biết pháp luật của đại bộ phận cán bộ, công chứcđã được nâng lên một
bước, có trình độ học vấn và hiểu biết pháp luật hơn; nhận thức rõ được chức
trách, bổn phận của mình và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật.
Việc quy định rõ những yêu cầu, tiêu chuẩn cụ thể về trình độ, năng lực phẩm
chất của cán bộ, công chức trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng góp
phần từng bước chuẩn hóa và nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ này,
trong đó có trình độ hiểu biết về pháp luật. Đồng thời, năng lực giải trình,
trách nhiệm công vụ, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức đã có những cải thiện đáng kể.Đối với các cơ quan hành chính, thể
chế tổ chức, hoạt động của hệ thống hành chính tiếp tục được đổi mới theo
hướng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ
quan trong hệ thống hành chính, loại bỏ phần lớn sự chồng chéo, trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ; phân định rõ hoạt động của cơ quan hành chính với
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa pháp luật
trong các cơ quan hành chính vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Trình
độ hiểu biết và vận dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức chưa thực
sự đáp ứng được yêu cầu của quản lý hành chính nhà nước trong cơ chế mới.


Một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái về phẩm chất, đạo đức, tham nhũng,
cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu
cầu của nhân dân, của xã hội. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý
cán bộ, công chức vi phạm pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên và
nghiêm túc, tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hiệu
quả còn thấp.
Bốn là, trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống cơ quan nhà nướcthì việc nhận diện và phát huy các giá trị văn

hóa pháp luật trong cơ quan hành chính trở nên vô cùng cần thiết.
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,vì Nhân dân”.
Chính vì vậy chúng ta phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý và điều
hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và
kỷ luật, kỷ cương hành chính. Đồng thời phải xây dựng được đội ngũ cán bộ,
công chức trong sạch, có năng lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức tốt.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân đã đặt ra yêu cầu khách quan phải không ngừng xây dựng, nâng cao hơn
nữa văn hóa pháp luật trong tổ chức, điều hành của bộ máy nhà nước nói
chung cũng như các cơ quan hành chính nói riêng. Các cơ quan hành chính
phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở quy định của pháp luật, hoạt động
quản lý hành chính nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính
và cải cách tư pháp chỉ có thể đạt được khi hoạt động quản lý của các cơ quan
hành chính, hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được
tiến hành trong môi trường văn hóa pháp luật mang tính dân chủ, trọng pháp.


Những lý do trên đây cho thấy cần phải có những nghiên cứu đầy đủ,
toàn diện nhằm cung cấp luận cứ khoa học góp phần xây dựng, nâng cao hơn
nữa văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện
nay.Chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã quyết định lựa chọn vấn đề “Văn hóa
pháp luật trong các cơ quan hành chínhở Việt Nam hiện nay” làm chủ đề cho
luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ nhữngvấn đề lý luận về văn hóa pháp
luật trong các cơ quan hành chính; đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật

trong cơ quan hành chính ở nước ta hiện nay, chỉ ra các kết quả, hạn chếvà
nguyên nhân; luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục xây
dựng, nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của bối cảnh, tình hình mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án có nhiệm vụ sau:
Một là, tìm hiểu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án; đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình và xác định những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật
trong các cơ quan hành chính, bao gồm:
- Khái niệm, nội dungvăn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính.
-Đặc điểmcủavăn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính.
- Kinh nghiệm quốc tế về văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính.


Ba là,đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính ở Việt Nam hiện nay. Nêu rõ những kết quả tích cực đã đạt được,
những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, trên cơ sở đó
rút ra những vấn đề đang đặt ra đối với việc tiếp tục xây dựng, nâng cao văn
hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện nay.
Bốn là, trên cơ sở phân tích rõ yêu cầu nâng cao văn hóa pháp luật
trong các cơ quan hành chính trong bối cảnh mới, luận án đề xuất quan điểm,
các giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng, nâng cao văn hóa pháp luật trong cơ
quan hành chính ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa pháp

luậttrong các cơ quan hành chính ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính
là vấn đề tương đối rộng và phức tạp, trong phạm vi nghiên cứu phù hợp với
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, luận án tập trung nghiên
cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật trong các cơ quan
hành chính, thực trạng văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính ở Việt
Nam hiện nay, bao gồm các vấn đề về trình độ nhận thức, sự hiểu biết pháp
luật; thái độ, tình cảm, tâm lý pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức; chất
lượng hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý hành chính và kết
quả hoạt động thực thi, áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức;
trách nhiệm công vụ và kỷ luật, kỷ cương hành chính…
Phạm vi về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về văn hóa pháp
luật trong các cơ quan hành chính của Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay.


Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu về văn hóa pháp luật của
các cơ quan hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan
hành chínhnhà nước ở trung ương và địa phương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1.Phương pháp luận
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
nghĩa duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minhvề
nhà nước và pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật, về cải cách hành chính và
cải cách chế độ công chức, công vụ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp tổng hợp, sử dụng để xây dựng tổng quancác công trình
nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến văn

hóa pháp luật trong cơ quan hành chính (chương 1); tổng hợp kinh nghiệm
quốc tế về văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính (chương 2); tìm hiểu
tình hìnhxây dựngvăn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay (chương 3).
- Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực
hiện luận án. Phương pháp này được sử dụng khi đánh giá, bình luận các vấn
đề về văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính như đánh giá tổng quan
tình hình nghiên cứu (chương 1), phân tích làm rõ các khái niệm, đặc điểm,
nội dung biểu hiện và các nhân tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật trong các
cơ quan hành chính(chương 2); đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật trong
các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện nay (chương 3); phân tích dự báo
yêu cầu của bối cảnh, tình hình mới đang đặt ra, các quan điểm và giải pháp


nhằm tiếp tục xây dựng, nâng cao văn hóa pháp luật trong cơ quan hành
chính(chương 4).
- Phương pháp so sánh, sử dụng khi tổng hợp kinh nghiệm một số quốc gia
trên thế giới về văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính (chương 2) và
đánh giá thực trạng văn hóa pháp luật của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
các cấp ở Việt Nam hiện nay (chương 3).
- Phương pháp lịch sử cụ thể, sử dụng khi nghiên cứu văn hóa pháp luật trong
các cơ quan hành chính luôn gắn với bối cảnh lịch sử cụ thể, đó chính là quá
trình phát triển của văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính nhà
nước từ năm 1945 đến nay(chương 3).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa pháp luật
trong cơ quan hành chínhvới những đóng góp mới cụ thể như sau:
Một là, luận án phân tíchlàm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa pháp
luật trong cơ quan hành chính gồm:Khái niệm, nội dung, đặc điểm của văn
hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính; Các yếu tố ảnh hưởng đến việc

hình thành, phát triển văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính; Kinh
nghiệm quốc tế về văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính.
Hai là,Luận án đã đánh giá được thực trạng văn hóa pháp luật trong cơ
quan hành chínhở Việt Nam,nêu rõ những kết quả đã đạt được; những hạn chế
và nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó xác định những vấn đề đặt
ra đối với việc tiếp tục nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, Trên cơ sở làm rõ yêu cầu đối với việc nâng cao văn hóa pháp
luật trong các cơ quan hành chính trong bối cảnh tình hình mới, luận án đã đề
xuất các quan điểm, các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật trong cơ
quan hành chính như: Xác định, thể chế hóa các giá trị chuẩn mực của văn


hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính nhà nước; Nâng cao nhận thức,
hiểu biết pháp luật, từ đó hình thành thói quen tôn trọng và tuân thủ pháp luật
của đội ngũ cán bộ, công chức; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật hành chính theo hướng đồng bộ, thống nhất, khả thi và ổn định; Xây
dựng môi trường công vụ trong sạch, minh bạch, thượng tôn pháp luật; Đề
cao và có cơ chế hữu hiệu đảm bảo trách nhiệm công vụ, trách nhiệm của
người đứng đầu trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi, áp dụng pháp luật trong các cơ
quan hành chính.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm phong phú thêm các luận cứ khoa học về văn
hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính. Luận án đã phân tích, làm rõ
những vấn đề lý luận cơ bản, đặc biệt là xác định được các khái niệm công
cụ,nội dung biểu hiện và những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng, nâng
cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính. Trên cơ sở đó soi vào
thực tiễn văn hóa pháp luậttrong các cơ quan hành chính ở Việt Nam hiện

nay, rút ra những nhận định cụ thể về những kết quả tích cực, những hạn chế
và xác định nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó, đề xuất các quan
điểm, giải pháp tiếp tục xây dựng, nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ
quan hành chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu của bối cảnh, tình hình mới.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách chế độ công chức công
vụ thì việc tăng cường, nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính trở nên vô cùng cấp thiết.Chính vì vậy việc thực hiện luận án là rất có ý
nghĩa về mặt thực tiễn. Những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của luận án có


ý nghĩa và giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng và không ngừng nâng
cao văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính ở Việt Nam.
Luận án còn được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu khoa học, giảng dạy về văn hóa pháp luậtnói chung, văn hóa pháp luật
trong cơ quan hành chính nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được kết cấu gồm 04 chương:
Chương 1.Tổng quan tình hình nghiên cứu, những vấn đề đặt ra
cần nghiên cứu của luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật trong các cơ
quan hành chính
Chương 3. Thực trạng văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính ở Việt Nam
Chương 4.Nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành
chính ở Việt Nam hiện nay



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Văn hóa pháp luật (VHPL) trong các cơ quan hành chính (CQHC) là
vấn đề được các nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm và cho đến nay đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu như các sách chuyên khảo, đề tài khoa học, luận
án tiến sĩ, các bài báo khoa học chuyên ngành, kỷ yếu hội thảo khoa học…
bàn về vấn đề này. Để phục vụ nghiên cứu luận án, nghiên cứu sinh đã tập
trung tìm hiểu một số công trình khoa học có liên quan trực tiếp đến đối
tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án, cụ thể như sau:
Thứ nhất,nhóm các công trình nghiên cứu bàn về những vấn đề lý
luận chung về văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật trong các cơ quan
hành chính ở Việt Nam.
- Nhóm các công trình nghiên cứu bàn về những vấn đềlý luận chung
về văn hóa pháp luật
Trước hết, khái niệm “văn hóa pháp luật” được đề cập đến trong nhiều
giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo về
Luật như Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Trường Đại
học tổng hợp Hà Nội, khoa Luật (1993), Hướng dẫn môn học Lý luận nhà
nước và pháp luật… của tác giả Nguyễn Minh Đoan (2014), Bên cạnh đó
cũng có nhiều sách chuyên khảo, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ đề cập đến
khái niệm “văn hóa pháp luật” như:
Sách chuyên khảo,Xã hội học pháp luật những vấn đề cơ bản (2012)
của tác giả Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, đã tiếp cận VHPL dưới


góc độ xã hội học pháp luật. Ở thuộc tính chính thức, VHPL là trật tự tư
tưởng được Nhà nước và xã hội định hướng cho sự hình thành và phát triển

của ý thức chính trị và ý thức pháp luật của người dân, cho sự hình thành và
phát triển của tổng thể các quy phạm - giá trị của pháp luật và cho sự hình
thành và phát triển hành vi và hoạt động trong lĩnh vực pháp luật.
Sách chuyên khảo, Văn hóa pháp luật - Những vấn đề lý luận cơ bản và
ứng dụng chuyên ngành (2011) của tác giả Hoàng Thị Kim Quế, Nxb. Đại
học quốc gia, đã xác định VHPL trong lĩnh vực hành pháp là “hệ thống các
yếu tố, giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực quản lý xã hội, trong hoạt
động công vụ, hoạt động lập quy; trong các quan hệ pháp luật hành chính giữa
các cơ quan, cá nhân con người nhà nước với cá nhân, tổ chức”. Các yếu tố
ảnh hưởng đến VHPL được chỉ ra là: yếu tố truyền thống; VHPL đích thực
đòi hỏi phải áp dụng đa dạng nguồn pháp luật; bản thân hệ thống pháp luật;
nhận thức pháp quyền của người thực hiện pháp luật; tính chất pháp quyền
trong tổ chức thực hiện pháp luật…
Sách chuyên khảo, Văn hóa pháp lý Việt Nam (2005) của Lê Đức Tiết,
Nxb. Tư pháp, đã xác định VHPLđược cấu thành bởi: ý thức pháp luật, nền
pháp luật, trình độ, nghệ thuật, kỹ năng sử dụng pháp luật với vai trò bảo vệ
các quyền của con người, quốc gia, dân tộc.
Sách chuyên khảo, Đổi mới văn hóa lãnh đạo, quản lý - Lý luận và
thực tiễn (2011), Phạm Ngọc Thanh (chủ biên); Nxb Lao động, có bài “Đổi
mới hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới văn hóa lãnh đạo,
quản lý” đã xác định các tiêu chí đánh giá VHPL gồm: Hệ thống pháp luật
phải được xây dựng trên cơ sở các quy phạm pháp luật đạt tiêu chí: dễ hiểu,
phải được mọi đối tượng trong xã hội hiểu được; phải được xã hội tôn trọng
pháp luật, hành động theo pháp luật quy định; pháp luật phải can thiệp khi có
vi phạm pháp luật xảy ra, bất kể hành vi vi phạm đó do đối tượng nào trong


xã hội thực hiện; ý thức của cộng đồng xã hội trong việc tuân thủ, xây dựng
pháp luật, quan tâm hay phê phán đối với các hiện tượng pháp luật không
minh bạch”.

Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Văn hóa pháp luật ở Việt Nam từ lý
luận đến thực tiễn, mã số KX.03.03/06/10 do tác giả Lê Minh Tâm là chủ
nhiệm, năm 2009, đã xác định VHPLbao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp
luật và các phương tiện pháp luật và khả năng, trình độ sử dụng pháp luật để
xử lý các quan hệ xã hội nhằm thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân phù hợp với
yêu cầu chung của xã hội.
Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2015, Văn hóa hiến pháp ở Việt Nam:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Mai Hồng Quang đã xác
địnhVHPL là sự phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt
của đời sống pháp luật đã diễn ra trong quá khứ cũng như diễn ra trong hiện
tại, nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống pháp
luật của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Văn hóa pháp luật - Cách tiếp cận nghiên cứu mới của Luật so
sánhcủatác giả Đặng Minh Tuấn, một bài viết trong Văn hóa pháp luật Những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng chuyên ngành (2011) đã nghiên
cứu VHPLnhư là cách tiếp cận rộng của luật so sánh, nghiên cứu làm rõ khái
niệm VHPL; các yếu tố cơ bản của một VHPL và VHPL với việc phân định
các họ VHPL.
Tác giả Phạm Duy Nghĩa trong bài viết “Góp phần tìm hiểu văn hóa
pháp luật”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24
(2008), tr 1-8, đã đã nhận diện VHPL theo 3 lát cắt: Luật trên giấy; Luật trong
quan niệm; Luật trong hành vi ứng xử.
Lê Thanh Thập trong bài viết “Mấy suy nghĩ về văn hóa và văn hóa
pháp luật ở nước ta”, Tạp chí Luật học, năm 1999, đã viết “VHPL là những


giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ thống pháp luật trong xã hội được thể
hiện trong các đạo luật và thiết chế xã hội. Đồng thời các giá trị đó còn được
thể hiện trong các hoạt động pháp luật, thẩm thấu vào nhận thức và hành động
của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong ứng xử của họ”.
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu bàn về nhiều nội dung liên

quan đến VHPL như: Đặng Cảnh Khanh: Văn hóa luật pháp - truyền thống và
bài học hôm nay, Tạp chí Cộng sản số 5, năm 1993; Nguyễn Thị Lê Thu: Văn
hóa pháp luật ở công sở trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay, Luận án Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội (2002); Lê Minh Tâm: Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, Tạp chí Luật học, số 5, 1998; Bùi Ngọc Sơn, Xây dựng Nhà
nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam; Đào Bảo Ngọc (1999):
“Hội nhập khu vực ở châu Á: Nhìn từ góc độ sự tương tác của nền văn hóa
pháp luật và các hệ thống pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; Đào
Trí Úc (1999) “Sự tiếp nhận các giá trị pháp lý phương Đông và phương Tây
đối với sự phát triển các tư tưởng pháp lý Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật…
- Nhóm các công trình nghiên cứu bàn về những vấn đề lý luận của văn
hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính
Nhìn chung các công trình nghiên cứu mới chú trọng nghiên cứu về
VHPL nói chung chứ chưa có nhiều công trình bàn về VHPL trong CQHC,
tuy nhiên có một số công trình bàn về những nội dung cụ thể của VHPL trong
CQHC như hệ thống thể chế hành chính, trình độ hiểu biết pháp luật của đội
ngũ CB, CC, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của CQHC… Cụ thể như
sau:
Sách chuyên khảo: Mô hình xây dựng pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền - Từ lý luận đến thực tiễn (2017) của tác giả Lê Hồng Hạnh (chủ biên),


Nxb Tư pháp, đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước pháp
quyền và pháp luật trong nhà nước pháp quyền, những vấn đề lý luận và thực
tiễn về mô hình xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay, trong đó có mô
hình xây dựng pháp luật của các Bộ, chính quyền địa phương, vai trò của
Chính phủ trong mô hình xây dựng pháp luật hiện nay.
Sách chuyên khảo, Cơ chế đảm bảo dân chủ trong hệ thống pháp luật

Việt Nam (2018) của tác giả Nguyễn Bá Chiến (chủ biên), Nxb Tư pháp, là
tập hợp các bài viết đề cập đến vấn đề dân chủ trong hệ thống pháp luật, trong
đó có nhiều bài đề cập đến vấn đề đảm bảo dân chủ trong hoạt động hành
pháp; đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước; minh bạch hóa chính quyền; giám sát hành chính công…
Sách chuyên khảo, Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
(2011), của tác giả Nguyễn Quốc Sửuđã đề cập, phân tích quan niệm, vai trò,
đặc trưng, các thành tố của giáo dục pháp luật cho đội ngũ CB, CC. Tác giả
cũng đề cập đến giáo dục pháp luật cho CB, CC một số nước trên thế giới và
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Sách chuyên khảo, Công vụ công chức nhà nước (2004) của tác
giảPhạm Hồng Thái, Nxb Tư pháp, đã làm rõ chế định pháp luật về công vụ,
công chức, nội dung của chế định pháp luật đó bao gồm: tuyển dụng, sử dụng,
quản ký, điều động, kiêm nhiệm, kỷ luật… đối với cán bộ, công chức.
Sách chuyên khảo, Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2010) do
tác giảĐào Trí Úc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, đã phân tích cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường sự giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy đảng, nhà nước và mô hình của
các cơ chế giám sát đó.


Sách chuyên khảo, Pháp luật với lối sống theo pháp luật và văn hóa
giao tiếp (2013) củatác giả Nguyễn Minh Đoan đã tiếp cận văn hóa trong
CQHC dưới góc độ của văn hóa công sở, văn hóa công sởvừa phải mang đậm
bản sắc văn hóa dân tộc (phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc
và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; phù hợp với định hướng xây dựng
đội ngũ CB, CC…) vừa phải tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Sách chuyên khảo, Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở (2011)

củatác giả Nguyễn Minh Đoan đã phân tích lối sống theo pháp luật của CB,
CC. Đồng thời đề cập tới yếu tố văn hóa trong hoạt động nhà nước; văn hóa
trong hoạt động giao tiếp pháp lý; VHPL trong hoạt động tiếp dân; văn hóa
tiết kiệm và chống lãng phí trong các hoạt động nhà nước.
Sách chuyên khảo,Những vấn đề cơ bản về quyền lực nhà nước, cải
cách chế độ công vụ, công chức và đánh giá chính sách công (2016) của Bộ
Nội vụ. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước, chế độ công vụ và quản lý công chức, quản lý nhà nước về
kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Sách chuyên khảo, Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ,
công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh (1998) của Viện Khoa học tổ chức nhà
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là tập hợp các bài viết của
nhiều tác giả bàn về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính, trong đó nhấn mạnh đến nâng cao trình độ hiểu biết pháp
luật, tôn trọng pháp luật, đảm bảo tính tối cao của pháp luật của công chức.
Sách chuyên khảo: Thu hút và trọng dụng người có tài năng trong các
cơ quan hành chính (2017) của tác giảTrần Văn Ngợi, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, đã chỉ ra những tiêu chí xác định người có tài năng trong các
CQHC, trong đó có tiêu chí về trình độ năng lực, sự hiểu biết về chuyên môn


nghề nghiệp, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, không vụ lợi, không tham
nhũng…
Sách chuyên khảo: Khung năng lực lãnh đạo, quản lý khu vực công
(2016) của Lê Quân, Nxb Đại học quốc gia, đã đề xuất khung năng lực lãnh
đạo, quản lý khu vực công, trong đó yêu cầu phải nắm bắt các quy định pháp
luật về bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, các nguyên tắc của
chế độ công vụ, các quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan…
Đề tài độc lập cấp Nhà nước Văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay, mã
số KX03.13/11-15 do Huỳnh Văn Thới, Học viện Hành chính quốc gia làm

chủ nhiệm đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của văn hóa công vụ ở Việt
Nam; làm rõ khái niệm và các tiêu chí đánh giá văn hóa công vụ, thực trạng
văn hóa công vụ ở các CQHC trung ương và địa phương.
- Nhóm các công trình nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về văn hóa
pháp luật trong các cơ quan hành chính
Sách chuyên khảo: Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số
nước trên thế giới (2004) do Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương,
Nguyễn Thu Huyền là đồng tác giả,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác
giả đã nghiên cứu, tổng hợp về hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của 8
quốc gia trên thế giới gồm: Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Liên Bang Nga,
Cộng hòa Pháp, Liên bang Đức, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
Sách chuyên khảo: Tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách hành chính ở
Cộng hòa Liên bang Đức (1999) của Thang Văn Phúc, Nxb Chính trị quốc
gia, đã trình bày các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và nền hành chính
liên bang, chế độ công chức công vụ của Cộng hòa Liên bang Đức.
Sách chuyên khảo: Hệ thống công vụ một số nước Asean và Việt Nam
(1997) của Viện khoa học tổ chức nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia đã tổng


hợp về hệ thống công vụ của Brunai, Indonexia, Malayxia, Philippin, Thái
Lan, Singapore, Việt Nam.
Sách chuyên khảo: Hệ thống chính trị Mỹ (2001) của Vũ Đăng Hinh
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách viết về ngành hành pháp
trong hệ thống chính trị Mỹ: vai trò, tổ chức, thẩm quyền và những vấn đề đặt
ra đối với ngành hành pháp Mỹ hiện nay.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Government innovation for sustainable
development: toward enabling, serving, and acting government with integrity
(Đổi mới Chính phủ vì sự phát triển bền vững: hướng tới xây dựng Chính phủ
liêm chính, kiến tạo, hành động, phục vụ), 6-7/9/2018, tổ chức bởi OECD,
OECD KOREA Policy Centre và NaPa. Kỷ yếu hội thảo là tập hợp các bài

viết của các chuyên gia, các nhà quản lý đến từ nhiều quốc gia, cùng chia sẻ
về đổi mới Chính phủ vì sự phát triển bền vững.
Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Chia sẻ kinh nghiệm hành chính địa phương
Việt Nam - Nhật Bản 2017, ngày 14,15 tháng 9 năm 2017, trong đó các
chuyên gia Nhật Bản đã chia sẻ kinh nghiệm về các biện pháp tăng cường
khung pháp lý cho chính quyền địa phương tại Nhật Bản…
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến thực
trạng văn hóa pháp luật trong cơ quan hành chính ở Việt Nam
Hiện có nhiều công trình nghiên cứu, bao gồm sách tham khảo, đề tài
khoa học cấp Nhà nước, đề tài khoa học cấp Bộ, các bài báo khoa học… đã
đánh giá thực trạng VHPL trong CQHCở Việt Nam hiện nay thể hiện trên
một số khía cạnh như đánh giá hệ thống thể chế hành chính, trình độ pháp luật
và hoạt động thực thi pháp luật của đội ngũ CB, CC, đánh giá trách nhiệm
công vụ…Cụ thể như:
Sách chuyên khảo, Pháp luật với lối sống theo pháp luật và văn hóa
giao tiếp”(2013) củatác giả Nguyễn Minh Đoan đã đánh giá thực trạng lối


sống theo pháp luật của CB, CC ở Việt Nam hiện nay. Những điểm hạn chế
được nêu ra là: CB, CC còn mang nặng tác phong nông dân, khá tùy tiện,
thiếu tính kỷ luật, vô nguyên tắc; chưa đề cao trách nhiệm trong thực hiện
nhiệm vụ, công vụ, ý thức kỷ luật lao động kém; Tình trạng tham nhũng có xu
hướng gia tăng cả về số vụ việc và tính chất, mức độ nghiêm trọng…
Sách chuyên khảo,Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
(2011) của tác giảNguyễn Quốc Sửu đã đánh giá thực trạng trình độ kiến
thức, hiểu biết pháp luật của đội ngũ CB, CC; phân tích những thành tựu và
những hạn chế của công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ CB, CC ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Sách chuyên khảoVề minh bạch hóa hoạt động chính quyền địa phương

(2015), tác giả Nguyễn Thị Diệu Oanh đã đánh giá về minh bạch hóa các hoạt
động của chính quyền địa phương trên các nội dung như quy trình xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nội dung giám sát tại các kỳ họp, thủ
tục hành chính, quản lý cán bộ, công chức…
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ trong thời gian qua cũng
đã tiến hành một số dự án điều tra cơ bản, kết quả điều tra đã cung cấp số liệu,
cơ sở thực tiễn quan trọng để đánh giá một số nội dung của VHPL trong các
CQHC, cụ thể như: dự án “Điều tra nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải
pháp hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay” (2010); “Điều tra
thực trạng, đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND đáp
ứng yêu cầu tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta”(2010);“Điều
tra thực trạng đội ngũ công chức và đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ công
chức đến năm 2020”(2010); “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đáp ứng


yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương”
(2014)…
Bên cạnh đó cũng có nhiều đề tài khoa học đã bàn về các nội dung liên
quan đến thực trạng VHPL trong các CQHC nhà nước, cụ thể như: Đề tài
khoa học cấp BộNghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước (2012). Chủ nhiệm:Bùi Văn Minh, Bộ Nội
vụ là đơn vị chủ trì; Đề tài khoa học cấp Bộ: Trách nhiệm của cán bộ, công
chức trong thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước
(2013), Chủ nhiệm Trần Nghị,Viện Khoa học tổ chức nhà nước là đơn vị chủ
trì; Đề tài khoa học cấp BộCác giải pháp bảo đảm công khai, minh bạch,
khách quan trong tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện
nay (2015), chủ nhiệmTrần Thị Thơi, Viện Khoa học tổ chức nhà nước là đơn
vị chủ trì; Đề tài khoa học cấp Bộ: Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của

người đứng đầu CQHC nhà nước(2015), chủ nhiệmLương Thanh Cường,
Học viện Hành chính Quốc gia là đơn vị chủ trì…
Để đánh giá thực trạng các nội dung VHPL trong CQHC cũng có nhiều
hội thảo khoa học được tổ chức bởi các cơ quan Bộ, ngành TW, cụ thể như:
Kỷ yếu hội thảo “Đánh giá quá trình phát triển của hệ thống pháp luật
Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2015” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp tổ chức ngày 20/8/2015, trong đó có bàn tới thực trạng pháp luật trong
một số lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước như pháp luật về bảo vệ môi
trường; pháp luật trong lĩnh vực an sinh xã hội; pháp luật về quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân.
Kỷ yếu hội thảo “Trách nhiệm công vụ” do Viện Khoa học tổ chức nhà
nước, Bộ Nội vụ tổ chức vào ngày 12/6/2015 trong đó có nhiều bài viết đánh
giá về thực trạng thực hiện trách nhiệm công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính
trong các CQHC ở trung ương và địa phương.


Kỷ yếu hội thảo “Văn hóa công vụ và cải cách hành chính” do Học
viện Hành chính quốc gia tổ chức vào ngày 13/7/2015, trong đó có nhiều bài
viết bàn về thực trạng xây dựng, phát triển văn hóa công vụ đáp ứng yêu cầu
cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay.
Kỷ yếu hội thảo “Nhà nước kiến tạo phát triển lý luận và thực tiễn trên
thế giới và ở Việt Nam” do Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào
ngày 28/3/2017, có một số bài viết bàn về “Chính phủ kiến tạo và những điều
phải cân nhắc” (Nguyễn Đăng Dung và Nguyễn Đăng Duy), “Nhà nước kiến
tạo phát triển trong bối cảnh văn hóa, chính trị ở Việt Nam hiện nay” (Mai
Văn Thắng)…
Các công trình nghiên cứu đã góp phần mô tả, dựng nên một bức tranh
thực trạng rõ nét về VHPL trong CQHC mà trong quá trình thực hiện luận án,
nghiên cứu sinh có thể tham khảo phục vụ cho việc đánh giá, rút ra những vấn
đề thực tiễn đang đặt ra nhằm nâng cao VHPL trong các CQHC ở Việt Nam.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp
nâng cao văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới những giải pháp nhằm nâng
cao VHPL nói chung và VHPLtrong các CQHC nói riêng, cụ thể là:
Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Văn hóa pháp luật ở Việt Nam từ lý
luận đến thực tiễn, mã số KX.03.03/06/10 do tác giả Lê Minh Tâm là chủ
nhiệm, năm 2009, đề cập các giải pháp như tăng cường tuyên truyền, giáo dục
pháp luật để tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và những giá trị xã hội của
pháp luật; nâng cao chất lượng hệ thống văn bản pháp luật; đẩy mạnh công
tác đào tạo và nghiên cứu luật học; đảm bảo nghiêm minh của pháp luật…
Sách chuyên khảo Cơ chế đảm bảo dân chủ trong hệ thống pháp luật
Việt Nam (2018) của tác giả Nguyễn Bá Chiến (chủ biên), tập hợp nhiều bài
viết có bàn về các giải pháp đảm bảo dân chủ trong hệ thống pháp luật Việt


×