Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.37 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN HUY

BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN
TRONG LĨNH VỰC XUẤT BẢN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN HUY

BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN
TRONG LĨNH VỰC XUẤT BẢN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, những kết luận khoa học của Luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin và tài
liệu được trích dẫn trong Luận văn là trung thực, khách quan dựa trên
các nghiên cứu khoa học thực tế đã được công bố.
Xác nhận của người hướng dẫn

Chữ ký của học viên

PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu

Nguyễn Văn Huy


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều về mặt vật chất cũng như tinh
thần trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn này.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu - người thầy đã hết lòng hướng dẫn,
chỉ bảo và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, toàn thể quý thầy cô,

cán bộ Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật Dân sự và cán bộ Thư
viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu tại Trường.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng chấm
Luận văn đã có những góp ý quý báu để hoàn chỉnh Luận văn này.
Học viên

Nguyễn Văn Huy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1
Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ

8

BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN TRONG LĨNH VỰC XUẤT BẢN
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của quyền nhân thân
1.1.2. Quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
1.2. Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản

8
8
16

22

1.2.1. Khái niệm về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản

22

1.2.2. Vai trò của việc bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản

24

1.2.3. Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản

26

1.2.4. Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản

29

1.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của vấn đề bảo vệ quyền
nhân thân trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam
1.3.1. Đường lối, chính sách của Đảng về bảo vệ quyền nhân thân
trong lĩnh vực xuất bản
1.3.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật xuất bản về bảo vệ
quyền nhân thân

33

33

36


Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN

41

TRONG LĨNH VỰC XUẤT BẢN
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản

42


2.1.1. Quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền nhân thân liên
quan đến hình ảnh của cá nhân trong lĩnh vực xuất bản
2.1.2. Quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền nhân thân liên quan
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân trong lĩnh vực xuất bản
2.1.3. Quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền nhân thân liên
quan đến về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
2.1.4. Quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền nhân thân liên
quan đến quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản
2.2. Nhận diện một số hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá
nhân trong lĩnh vực xuất bản
2.2.1. Hành vi sử dụng thông tin liên quan đến quyền nhân thân của
cá nhân
2.2.2. Hành vi xâm phạm nhóm quyền nhân thân thuộc quyền tác giả

42


46

48

53

55

56
67

Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN TRONG

76

LĨNH VỰC XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những khó khăn của công tác bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh
vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Những khó khăn gắn liền với sự chưa hoàn thiện của hệ thống
pháp luật liên quan
3.1.2. Những khó khăn liên quan đến đội ngũ thực thi và bảo vệ
3.1.3. Những khó khăn xuất phát từ chính thực trạng của Ngành Xuất
bản Việt Nam
3.2. Những tiền đề lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
3.2.1. Những tiền đề lý luận trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản


76

76
77
78

79

79


3.2.2. Những tiền đề thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
3.3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân
trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay
3.3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80

82

82

84
90



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền nhân thân là bộ phận của quyền dân sự của cá nhân và là một chế
định ngày càng được khoa học pháp lý cũng như xã hội quan tâm nghiên cứu. Bộ
luật Dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa một số quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005, được ban hành đánh dấu một bước tiến mới trong việc bảo vệ các
quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng, thể hiện trình độ phát triển
kinh tế xã hội, kỹ thuật lập pháp tiến bộ. Đồng thời, đây cũng là sự cụ thể hóa
những quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong Hiến pháp năm 2013. Với những sự ghi nhận đó, quyền nhân thân ngày
càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng, là những giá trị cốt lõi trong đời
sống tinh thần của mỗi cá nhân. Do vậy, nghiên cứu, tìm hiểu bản chất của
quyền nhân thân, những đặc điểm đặc thù, cơ chế bảo vệ quyền để từ đó góp
phần hoàn thiện quy định pháp luật là những vấn đề luôn được đặt ra trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực xuất bản.
Nghiên cứu về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản ở Việt Nam là vấn đề mới và rất cần thiết. Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của
đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại… Sản phẩm
của hoạt động xuất bản chính là các xuất bản phẩm. Xuất bản phẩm có nội dung là
các tác phẩm, tài liệu ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội được xuất bản
thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép, thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động xuất
bản đã có bước phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của
bạn đọc, góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã

hội… Công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản có nhiều tiến bộ, chú trọng
bảo đảm định hướng chính trị - tư tưởng, bảo vệ các quyền và lợi ích của cá nhân,
tổ chức, phát hiện và uốn nắn kịp thời những lệch lạc, sai phạm.


2

Tuy vậy, hoạt động xuất bản ở nước ta vẫn còn yếu kém, khuyết điểm. Quy
mô, năng lực hoạt động xuất bản chưa đáp ứng nhu cầu; khuynh hướng thương
mại hóa, chạy theo lợi nhuận thuần túy tác động xấu đến hoạt động xuất bản; đội
ngũ biên tập viên còn hạn chế về trình độ và năng lực; cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành, cơ quan chủ quản nhà xuất bản chưa nhận thức đầy đủ, chưa quan
tâm đúng mức về vai trò, chức năng của xuất bản… Mặt khác, thực trạng pháp
luật về bảo vệ các quyền con người nói chung, quyền nhân thân nói riêng trong
lĩnh vực xuất bản còn có nhiều bất cập, hạn chế. Xuất phát từ những nguyên
nhân đó, thực tế vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản,
xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, trong đó, vi phạm
quyền nhân thân của cá nhân trong các xuất bản phẩm còn diễn ra khá phổ biến,
như vi phạm về quyền đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư, xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân…
Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu, tìm hiểu, xác định, phân
tích để làm rõ cơ sở lý luận về quyền nhân thân, bảo vệ quyền nhân thân trong
lĩnh vực xuất bản, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay một cách có hệ
thống và toàn diện là điều hết sức cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền nhân thân nói chung
và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản nói riêng, học viên đã chọn
đề tài: “Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” cho Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Dân sự
và Tố tụng dân sự của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền nhân thân nói chung và quyền nhân thân trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, các quyền nhân thân cụ thể đã được khá nhiều công
trình nghiên cứu đặt vấn đề và tìm hiểu một cách thấu đáo. Tuy nhiên, trong
khoa học pháp lý, tính đến thời điểm này chưa có công trình nào nghiên cứu về
quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản một cách có
hệ thống và quy mô, từ lý luận tới thực tiễn. Một số công trình nghiên cứu pháp


3

lý có liên quan mới chỉ đề cập hoặc là đến quyền nhân thân, hoặc là pháp luật về
hoạt động xuất bản một cách riêng rẽ; hoặc đề cập đến quyền nhân thân trong
lĩnh vực xuất bản ở mức độ là một khía cạnh hoặc vấn đề rất nhỏ trong việc ghi
nhận và bảo vệ một số quyền nhân thân. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu như: tác giả Vũ Mạnh Chu với “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật xuất bản
theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền” thực hiện năm 1997 với nội
dung phân tích những tồn tại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật xuất bản nói
chung chứ chưa có nghiên cứu gắn việc hoàn thiện pháp luật xuất bản với vấn đề
bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân; trong Kỷ yếu Hội thảo: “Quyền nhân thân
và bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự” do Nhà Pháp luật Việt - Pháp
tổ chức năm 1997, các thuyết trình viên đã đề cập tới quyền tác giả trong lĩnh
vực xuất bản, nhưng những đề cập dưới dạng hỏi đáp chưa cho thấy rõ được đặc
trưng cơ bản của quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản; trong công trình
nghiên cứu năm 2008 do tác giả Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm với đề tài: “Quyền
nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự” và
công trình nghiên cứu năm 2014 do tác giả Phùng Trung Tập làm chủ nhiệm với
đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền nhân thân của
cá nhân” có đưa ra nghiên cứu về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân
nói chung mà chưa có những nghiên cứu đặc thù trong lĩnh vực xuất bản; một số

công trình nghiên cứu chỉ đề cập về một số quyền nhân thân đơn lẻ như: Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Thị Hoa (2006): “Quyền nhân thân liên
quan đến thân thể của cá nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005”;
Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Nghị (2008): “Quyền bí mật đời tư
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của
tác giả Phùng Bích Ngọc (2011): “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền
nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam”;
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Hoàng Ngọc Hưng (2012): “Quyền đối
với họ, tên - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”…; có công trình đã nghiên cứu
về phương thức bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự nói chung chứ
chưa cụ thể trong một lĩnh vực nào như: Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả


4

Trần Thị Hà: “Phương thức bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự
Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; hay một số công trình nghiên
cứu đã nghiên cứu khá thấu đáo quyền nhân thân và việc bảo vệ quyền nhân thân
ở một số lĩnh vực đặc thù trong đời sống xã hội như: Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Trần Thùy Dương (2014): “Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân
thân trong môi trường mạng xã hội”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả
Lưu Thúy Hòa (2015): “Quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí”… Ngoài ra,
có một số bài viết nghiên cứu trên các tạp chí khoa học pháp lý về quyền nhân
thân ở những khía cạnh khác nhau mà chưa đề cập đến đặc thù của quyền nhân
thân trong lĩnh vực xuất bản như: “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”
của tác giả Bùi Đăng Hiếu đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2009; “Bàn thêm về
các quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005” của tác giả
Phùng Trung Tập đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 17(249)/T9/2013;
“Quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005 - những bất cập
và hướng hoàn thiện” của tác giả Lê Đình Nghị đăng trên tạp chí Luật học

số 3/2014; “Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự và sự ghi nhận quyền nhân
thân trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” của tác giả Nguyễn Thị Quế Anh
đăng trên Tạp chí Luật học, Số đặc biệt: Góp ý hoàn thiện Dự thảo Bộ luật
Dân sự (sửa đổi), số 6/2015…
Lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ Luật học một
cách chuyên sâu, đề tài “Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” được học viên đề cập đến những vấn đề cơ
bản về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản một
cách chuyên sâu dựa trên những kiến thức hiểu biết của cá nhân không có sự
trùng lặp, đồng thời có kế thừa những kết quả nghiên cứu mà các công trình
khoa học pháp lý, các bài viết đã đạt được.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận chung về
quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản; thực trạng


5

quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân
trong lĩnh vực xuất bản và kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
* Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Với đề tài này, học viên tập trung phân tích, làm rõ bản chất của quyền
nhân thân và vấn đề bảo vệ quyền nhân thân nói chung, quyền nhân thân trong
lĩnh vực xuất bản nói riêng, từ đó đi sâu nghiên cứu về một số quyền nhân thân
đặc thù của cá nhân dễ bị xâm phạm (đặc biệt đối với xuất bản phẩm là sách)
trên thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam hiện nay mà
không đi sâu tìm hiểu cụ thể từng quyền nhân thân và các biện pháp bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
Đề tài được nghiên cứu với mục tiêu: Thứ nhất, là xây dựng được khái

niệm quyền nhân thân, quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản, các phương
thức, biện pháp bảo vệ và các đặc trưng cơ bản của quyền nhân thân trong lĩnh
vực xuất bản; Thứ hai, là tìm hiểu và làm rõ được quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Xuất bản năm 2012 và các văn bản
pháp luật liên quan về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản; Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu từ các mục tiêu trên để có những nhận
xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản, từ đó chỉ ra được những bất cập, những
điểm còn chưa phù hợp với thực tế để có đề xuất, kiến nghị những giải pháp
hoàn thiện pháp luật liên quan.
Ngoài ra, với những kiến thức chuyên ngành được nghiên cứu một cách
chuyên sâu, hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích cho những nhà nghiên cứu pháp luật, các cơ quan xây dựng, áp dụng
pháp luật và bạn đọc quan tâm.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, một số câu hỏi được học viên đặt ra, gồm:
- Khái quát chung về quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản?
- Khái quát chung về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản?


6

- Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh
vực xuất bản?
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản?
- Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong
lĩnh vực xuất bản?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện Luận văn
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là

phương pháp luận triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Phương pháp lịch sử cụ thể: Học viên sử dụng phương pháp này nhằm
thấy được quá trình phát triển của vấn đề bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đối với mỗi quan điểm khoa học được
trích dẫn, học viên có những phân tích, tổng hợp, rút ra những ưu điểm, nhược
điểm để đưa đến cách nhìn nhận của bản thân về vấn đề đó.
Ngoài ra, học viên còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
quy nạp, diễn dịch, so sánh…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Với những nghiên cứu mới, Luận văn có những ý nghĩa khoa học và thực
tiễn như sau:
- Luận văn là một công trình nghiên cứu với cái nhìn tương đối cơ bản, toàn
diện mang tính pháp lý về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân; khái quát
những vấn đề lý luận về lĩnh vực xuất bản, về quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản và những đặc điểm của quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản.
- Luận văn đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi
hành pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản.


7

- Luận văn đưa ra những giải pháp cụ thể mang tính toàn diện nhằm hoàn
thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực
xuất bản.
8. Bố cục của Luận văn
Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh
vực xuất bản - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” có kết cấu gồm: Phần mở đầu,

phần nội dung chính, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung chính của Luận văn gồm:
Chương 1: Lý luận chung về quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân
trong lĩnh vực xuất bản.
Chương 2: Thực trạng quy định và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam.


8

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ
BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN TRONG LĨNH VỰC XUẤT BẢN
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của quyền nhân thân
1.1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Có thể khẳng định, quyền con người là thành quả của sự nghiệp đấu tranh
của cả nhân loại, được hình thành với sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân
tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên trái đất. Do vậy, quyền con
người luôn được xác định là những giá trị cao quý, chuẩn mực được cộng đồng
quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực đó kết tinh những giá trị nhân
văn, nhờ đó con người được bảo vệ nhân phẩm và có điều kiện phát triển đầy đủ
năng lực của mình. Cùng với sự phát triển vượt bậc về mọi mặt trong đời sống
xã hội hiện nay, vấn đề này càng được pháp luật ghi nhận và bảo đảm, có sự thay
đổi căn bản, từ công thức Nhà nước “quyết định” trao quyền cho người dân sang
công thức các quyền con người là tự nhiên, vốn có, Nhà nước phải tôn trọng và
bảo vệ và bảo đảm thực hiện, mà không phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước1.
Việc hiểu đúng bản chất và nội dung cơ bản của quyền con người sẽ giúp mỗi

quốc gia - dân tộc không những không né tránh vấn đề quyền con người mà còn
nâng cao trách nhiệm của mình trong việc cùng hợp sức xây dựng những điều
kiện bảo đảm thực hiện các quyền này.
Quyền nhân thân là một bộ phận của quyền con người, quyền dân sự và
không tách rời khỏi quyền con người2. Theo quy định tại Điều 24 Bộ luật Dân sự
năm 2005 (sau đây gọi chung là BLDS 2005) và Điều 25 Bộ luật Dân sự năm

1

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2014), Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - Quan điểm mới,
cách tiếp cận mới và các quy định mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 49.
2
Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Hà Nội, tr. 8.


9

2015 (sau đây gọi chung là BLDS 2015), thì quyền nhân thân được hiểu là một
loại quyền dân sự. Do vậy, tìm hiểu khái niệm quyền nhân thân trước hết phải
xuất phát từ khái niệm quyền con người, quyền dân sự.
Quyền con người là một phạm trù phức tạp, đa dạng, biểu hiện các đặc
điểm, thuộc tính quan trọng và nhân cách của con người. Khoa học pháp lý nói
chung cũng như trong nhiều công trình nghiên cứu tồn tại một số định nghĩa
khác nhau về quyền con người, có thể do cách thể hiện từ ngữ hoặc căn cứ trên
những đặc trưng khác nhau về quyền con người. Tuy nhiên, giá trị cốt lõi mà
những định nghĩa đó đều thống nhất, quyền con người là quyền mà một con
người đều có, đơn giản vì họ là con người; quyền con người là của mọi người và
bình đẳng cho mọi người, là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Ví như,
quyền con người được định nghĩa một cách khái quát “là những quyền bẩm sinh,

vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống
như một con người”3; hoặc định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc:
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.
Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 và các Công ước quốc
tế về các quyền cơ bản của con người năm 19664 của Liên Hợp quốc ghi nhận ý
tưởng về con người tự do trong việc hưởng quyền tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm
điều mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng. Theo đó, quyền con
người mang tính phổ quát và không thể chuyển nhượng, có nghĩa là chúng được
áp dụng khắp nơi và không thể lấy đi.
Từ quá trình tìm hiểu luật pháp quốc tế và với những công trình nghiên cứu
của mình, tác giả Nguyễn Bá Diến đã đưa ra định nghĩa về quyền con người như
sau: “Quyền con người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp
luật (luật quốc tế và luật quốc gia) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội,
3

Trung tâm Nghiên cứu quyền con người - quyền công dân (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 20.
4
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa (ICESCR).


10

các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người
khác trên cơ sở pháp luật”5. Tuy nhiên, định nghĩa này mới chỉ đề cập đến
quyền con người với tư cách là phạm trù luật học mà chưa làm rõ được quyền

con người cũng là quyền tự nhiên, xuất hiện một cách bẩm sinh bởi cá thể con
người, không phụ thuộc bất cứ điều kiện truyền thống, văn hóa, dân tộc hay Nhà
nước nào.
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là
“chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một
quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển”. Quyền con người
“không thể tách rời”, đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn
bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền của
dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền
của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội... mà không thể chuyển giao.
Quyền dân sự được coi là một khái niệm được bao hàm trong nội dung của
quyền con người, được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam thừa
nhận và bảo vệ. Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích
mà các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là
những quyền lợi liên quan đến vật chất và/hoặc những lợi ích về tinh thần.
Theo định nghĩa trong cuốn Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý,
quyền dân sự được hiểu là:
Khả năng được phép xử sự theo một cách nhất định của chủ thể trong
quan hệ dân sự để thực hiện, bảo vệ lợi ích của mình.
Quyền dân sự hiểu theo nghĩa rộng là quyền của chủ thể được pháp
luật dân sự quy định như là nội dung của năng lực pháp luật của chủ thể đó.
Các chủ thể có năng lực pháp luật dân sự khác nhau thì có các quyền dân sự
khác nhau.
5

Nguyễn Bá Diến (chủ biên, 2015), Mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và Luật nhân quyền quốc tế (Sách
chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 41.



11

Quyền dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là quyền của chủ thể trong quan hệ
dân sự nhất định mà chủ thể đó đang tham gia, quyền tự mình thực hiện
những hành vi nhất định, quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ, quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi bị người khác xâm phạm6.
Quyền dân sự có thể được phân thành nhiều loại quyền khác nhau căn cứ
vào những tiêu chí nhất định, tuy nhiên, sự phân loại khá phổ biến hiện nay và
được thừa nhận rộng rãi trong giới luật học, đó là quyền nhân thân và quyền tài
sản. Hay nói cách khác, quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự.
Trong BLDS cũng như trong khoa học pháp lý, tồn tại nhiều quan điểm khi
đề cập tới quyền nhân thân, như về chủ thể của quyền nhân thân (chỉ thuộc về cá
nhân hay còn bao gồm cả quyền nhân thân của tổ chức), đối tượng, nội dung của
quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về quyền nhân thân.
Theo các tác giả của cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi
nhận mới được coi là quyền nhân thân. Quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và
không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy
định…”7. Theo cách giải thích này thì chủ thể của quyền nhân thân có thể là tổ
chức (khi mà giá trị nhân thân của tổ chức được pháp luật ghi nhận).
Trong một bài nghiên cứu năm 2009 đăng trên Tạp chí Luật học, tác giả
Bùi Đăng Hiếu cho rằng, pháp luật có quy định thừa nhận pháp nhân và các chủ
thể khác cũng có quyền nhân thân, như: Điều 604, Điều 611 BLDS 2005 có đề
cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”; hoặc tại Điều 1 Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (thay thế Nghị quyết số
01/2004/NQ-HĐTP) quy định: “Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân

6

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr. 650.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999.


12

và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là
do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm,
lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất mà tổ chức phải chịu”… Từ đó, tác giả cho rằng khái niệm quyền nhân
thân nên được mở rộng không những gắn với cá nhân mà cả với các chủ thể khác
và đã xây dựng khái niệm quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền
dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng
tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”8.
Các quan điểm trên đều thừa nhận quyền nhân thân có thể thuộc về cả cá
nhân và pháp nhân. Tuy nhiên, rất nhiều học giả cho rằng quyền nhân thân chỉ có
thể thuộc về cá nhân mà thôi.
Theo quy định của pháp luật, thuật ngữ “Quyền nhân thân” được đề cập
đầu tiên với tư cách là thuật ngữ pháp lý trong BLDS 1995. Điều 26 BLDS 1995
quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Đây là một trong những điểm mới tiêu biểu của
BLDS 1995, đánh dấu bước tiến lớn của pháp luật dân sự cũng như hệ thống
pháp luật Việt Nam, đặt nền móng cho sự nghiên cứu, tìm hiểu và phát triển khái
niệm “quyền nhân thân”. BLDS 2005 và BLDS 2015 tiếp tục kế thừa gần như

trọn vẹn quy định này của BLDS 1995 khi định nghĩa về quyền nhân thân. Với
quan điểm này, các nhà làm luật đã nhìn nhận quyền nhân thân với hai điểm
chính là “quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân” và “không thể chuyển giao”.
Tại Hội thảo khoa học “Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân bằng
pháp luật dân sự”, Giáo sư Ravanas đã phân tích khái niệm quyền nhân thân
xuất phát từ khái niệm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do dân sự và
quyền của cá nhân. Sau quá trình phân tích, Giáo sư đã đưa ra nhận định:
“Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và nhằm bảo vệ
nhân thân của mỗi người không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình, địa vị, tuổi
8

Bùi Đăng Hiếu, “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”, Tạp chí Luật học (7/2007), tr. 40.


13

tác của họ”; và nêu cụ thể các đặc điểm của quyền nhân thân, bao gồm: (i) từ
khi sinh ra tất cả mọi người đều có quyền nhân thân; (ii) quyền nhân thân không
nằm trong tài sản của cá nhân; (iii) quyền nhân thân không thể bị định đoạt, có
nghĩa là không thể chuyển nhượng; và (iv) quyền nhân thân không thể chuyển
giao cho người khác9. Quan điểm của Giáo sư Ravanas về quyền nhân thân cũng
xuất phát từ quan niệm “là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân”.
Trong khoa học pháp lý, công trình nghiên cứu của Tòa án nhân dân tối
cao10 đã đề cập tới quyền nhân thân dưới hai giác độ: Dưới giác độ chủ thể,
quyền nhân thân về dân sự được hiểu là quyền con người về dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời
điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định
địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó mỗi cá nhân đều có quyền
nhân thân riêng và quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Dưới giác độ khách thể, quyền nhân thân về dân

sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp
luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để đảm bảo địa vị pháp lý cho
mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân được thực hiện các quyền con người về
dân sự trong sự bảo hộ của Nhà nước và pháp luật. Theo đó, quyền nhân thân
được nhìn nhận trên hai yếu tố cơ bản là chủ thể quyền (quyền con người) và
khách thể (chế định pháp luật) đều gắn liền với mỗi cá nhân.
Trong cuốn Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, các nhà nghiên
cứu đã định nghĩa quyền nhân thân là “quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân
mà không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”11. Với định nghĩa này, quyền nhân thân chỉ thuộc về cá nhân với những
đặc tính không thể chuyển giao, tức là không thể là đối tượng trong các giao dịch
dân sự, trừ một số trường hợp mà pháp luật có quy định khác.
9

Nhà Pháp luật Việt - Pháp, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân bằng pháp
luật dân sự, Hà Nội, 24, 25, 26/11/1997, tr. 7-10.
10
Tòa án nhân dân tối cao, Vai trò của TAND trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định
của BLDS, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Số đăng ký: 96-98-063/ĐT.
11
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr. 653.


14

Tác giả Lê Đình Nghị trong Luận án Tiến sĩ Luật học của mình có đưa ra
khái niệm quyền nhân thân theo hai nghĩa:
Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù
pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành,

trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn
liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của
mình.
Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn
liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không
thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác12.
Để bảo vệ thêm cho quan điểm quyền nhân thân chỉ thuộc về cá nhân, tác
giả Nguyễn Thị Quế Anh cho rằng, “quyền nhân thân trong luật dân sự là quyền
chủ thể của các cá nhân xuất hiện do việc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật dân sự đối với các quan hệ liên quan đến các giá trị nhân thân của các chủ
thể đó”13.
BLDS 2015 cũng đưa ra định nghĩa về quyền nhân thân và thừa nhận quyền
nhân thân chỉ thuộc về cá nhân, như sau: “Quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho người khác, trừ trường hợp luật khác có quy định khác” (khoản 1 Điều 25).
Xét về các đặc tính của quyền nhân thân, hầu hết các định nghĩa đã nêu trên
đều thừa nhận các đặc tính cơ bản của quyền nhân thân gồm: (1) Đối tượng của
quyền nhân thân là giá trị tinh thần (phi vật chất); (2) gắn liền với cá nhân và
không thể chuyển giao; và (3) có tính cá biệt hóa cá nhân. Đây là những đặc
trưng khác biệt với các quyền dân sự khác.
Từ những quan điểm nêu trên và qua quá trình nghiên cứu, tiếp thu và có
những đánh giá nhất định, học viên nhận thấy quyền nhân thân chỉ thuộc về cá
12

Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 18.
13
Nguyễn Thị Quế Anh, “Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự và sự ghi nhận quyền nhân thân trong Dự
thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Luật học, Số đặc biệt: Góp ý hoàn thiện Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa

đổi) (6/2015), tr. 34.


15

nhân. Các yếu tố như danh dự, uy tín của pháp nhân là những giá trị vô hình của
pháp nhân được pháp luật thừa nhận trong một số trường hợp nhất định. Do vậy,
cần thiết phải xây dựng một khái niệm quyền nhân thân khái quát nhưng có chứa
đựng đầy đủ các yếu tố về chủ thể, khách thể và nội dung quyền, thể hiện được
những dấu hiệu cơ bản, đặc trưng để phân biệt quyền nhân thân với các quyền
khác. Có thể đưa ra định nghĩa về quyền nhân thân như sau:
Quyền nhân thân là các quyền dân sự của cá nhân được pháp luật thừa
nhận, gắn liền với cá nhân đó và mang tính chất tinh thần, không định giá được
bằng tiền và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của quyền nhân thân
Với tư cách là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, quyền nhân thân
mang một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự đặc biệt của cá nhân và mang
tính chất tinh thần
Dưới góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên,
quan trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định
cho cá nhân là vì con người và luôn hướng tới con người, trong đó có quyền
nhân thân. Trong khi nhiều quyền khác có thể thuộc về cá nhân hoặc chủ thể
khác thì quyền nhân thân chỉ thuộc về cá nhân và gắn với đời sống tinh thần của
con người.
b) Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản
Khác với quyền tài sản, quyền nhân thân có khách thể là những giá trị tinh
thần gắn với đời sống con người với bản chất là các giá trị phi tài sản. Tính chất
phi tài sản thể hiện, đó là không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự như

mua bán, trao đổi, tặng cho… và cũng không gắn với yếu tố tiền bạc, với tính
chất đền bù ngang giá. Do vậy, “quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có
quyền nhân thân gắn với tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi”14.
14

Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 23.


16

c) Quyền nhân thân của mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
Dưới góc độ lý luận, mỗi cá nhân khi sinh ra đều có quyền nhân thân,
không phân biệt giới tính, thành phần, địa vị xã hội, dân tộc… Đây là một trong
những sự ghi nhận giá trị con người vì mỗi con người nói riêng. Do vậy, tùy
thuộc điều kiện kinh tế - xã hội nhất định mà Nhà nước thể chế hóa và ghi nhận
trong các văn bản pháp luật cho cá nhân có các quyền nhân thân cụ thể. Các
quyền này gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho cá nhân khác
(không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự). Tuy nhiên trong một số
trường hợp theo quy định của pháp luật thì quyền nhân thân có thể chuyển giao
cho chủ thể khác. BLDS và Luật Sở hữu trí tuệ quy định cho tác giả có các
quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 738 BLDS 2005, Điều 19, Điều 20 Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong số các quyền
nhân thân thuộc quyền tác giả, thì quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người
khác công bố tác phẩm được pháp luật quy định tác giả có thể chuyển giao (có
thể theo hình thức ủy quyền hoặc được thừa kế).
1.1.2. Quyền nhân thân trong lĩnh vực xuất bản
1.1.2.1. Khái quát chung về xuất bản
a) Khái niệm xuất bản

Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản là
việc “chuẩn bị bản thảo rồi in ra thành sách báo, tranh ảnh và phát hành”15.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa, xuất bản là “hoạt động thuộc lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến các ấn phẩm đến nhiều
người. Xuất bản là hoạt động truyền bá, bản thân nó không bao gồm khâu sáng
tạo ra tác phẩm. Xuất bản khai thác và truyền bá, phổ biến tác phẩm, là khâu
nối tiếp, nâng cao giá trị văn hóa, nhân rộng và mang chúng đến với quảng đại
quần chúng. Xuất bản gồm ba khâu: biên tập, in, phát hành xuất bản phẩm”.16
15

Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.1874.
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
tập 4, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 1057.

16


17

Khoản 1 Điều 4 Luật Xuất bản năm 2012 quy định: “Xuất bản là việc tổ
chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để
phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử”.
Như vậy, theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất
bản, in và phát hành xuất bản phẩm, là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội
trong việc sáng tạo tác phẩm, các tài liệu để in nhân bản, truyền bá, phổ biến tri
thức nhân loại đến nhiều người nhằm đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo để có bản thảo tác
phẩm, xử lý và hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu để in thành các xuất bản phẩm
nhằm phục vụ cho nhu cầu của nhiều người trong xã hội.
Khoản 4 Điều 4 Luật Xuất bản năm 2012 quy định: “Xuất bản phẩm là tài

liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công
nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan,
tổ chức được cấp giấy phép xuất bản bằng các ngôn ngữ khác nhau, bằng hình
ảnh, âm thanh và được thể hiện dưới các hình thức sau đây: (a) Sách in; (b)
Sách chữ nổi; (c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp phích, tờ rơi, tờ gấp; (d) Các loại lịch;
(đ) Bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa cho sách”.
Trong các loại hình xuất bản phẩm kể trên, sách là loại sản phẩm có tính
chất điển hình, đại diện cho hoạt động xuất bản, là bộ phận cơ bản, phổ biến và
ra đời sớm nhất, giữ vai trò chủ yếu, quan trọng nhất. Và đây cũng là xuất bản
phẩm mà sự xâm phạm các quyền nói chung, quyền nhân thân của cá nhân nói
riêng diễn ra phổ biến nhất hiện nay.
b) Tính chất của xuất bản
Xuất bản không thuần túy chỉ là một ngành kinh tế mà trước hết nó là một
thiết chế trong lĩnh vực văn hóa. Xuất bản cũng sản xuất ra của cải vật chất như
những ngành sản xuất, kinh doanh khác nhưng sản phẩm, hàng hóa trong xuất
bản là vật phẩm đặc biệt mang tính chất văn hóa tinh thần. Nói cách khác, xuất
bản mang tính hai mặt, đó là sản xuất ra vật phẩm văn hóa tinh thần và sản xuất,


18

kinh doanh hàng hóa xuất bản phẩm. Do đó, đây thực chất là một ngành sản xuất
đặc thù. Cụ thể:
- Tính chất văn hóa
Văn hóa là thuộc tính tất yếu của hoạt động xuất bản. Xuất bản ra đời là do
nhu cầu thông tin và truyền bá thông tin. Đó là một nhu cầu văn hóa tinh thần.
Để đáp ứng nhu cầu đó, hoạt động xuất bản về bản chất là truyền bá văn hóa,
phổ biến các giá trị tinh thần đó ra ngoài xã hội chứa đựng trong các tác phẩm,
công trình, tài liệu… của con người sáng tạo ra. Tính chất văn hóa của hoạt động
xuất bản được thể hiện trong quá trình sản xuất xuất bản phẩm, từ khâu tổ chức

bản thảo đến khâu phát hành xuất bản phẩm đó. Đây là những hoạt động mang
tính chất trí tuệ, khoa học, vừa mang tính chất tinh thần, những hành vi văn hóa
rõ rệt.
- Tính chất sản xuất hàng hóa
Xuất bản là hoạt động truyền thông nhưng cũng có quy trình sản xuất hàng
hóa và sản phẩm của hoạt động xuất bản cũng được lưu thông, trao đổi trên thị
trường như các loại hàng hóa thông thường khác. Nghĩa là, hoạt động sản xuất
trong xuất bản cũng tuân theo những quy luật kinh tế khách quan của thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… Nhà xuất bản,
người làm xuất bản cũng phải hạch toán kinh doanh theo cơ chế và điều tiết của
thị trường, định mức kinh tế - kỹ thuật, việc tái sản xuất để phát triển không
ngừng và có thể phải chịu sự “đào thải” của thị trường nếu không có những
phương án kinh doanh hiệu quả.
c) Vai trò của xuất bản trong đời sống xã hội
- Xuất bản - “bà đỡ” của các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình
khoa học công bố dưới hình thức xuất bản phẩm
Các nhà khoa học, văn nghệ sĩ bằng lao động của mình đã sáng tạo ra các
tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng như các công trình khoa học. Song, nếu chỉ
dừng lại ở đó, các sáng tạo này chỉ là những sản phẩm đơn lẻ, việc phổ biến chỉ
dừng lại trong phạm vi hẹp. Do vậy, cùng với quá trình truyền bá ý tưởng sáng
tạo của mình, nhu cầu tiếp cận nhanh và thuận tiện các giá trị chứa đựng trong


×