Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan trong phân môn vẽ theo mẫu hiệu quả (gửi tỉnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.34 KB, 36 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan
trong phân môn vẽ theo mẫu hiệu quả.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 6 trường THCS
3. Tác giả:
Họ và tên: Nam (nữ): Nữ
Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Mĩ thuật.
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS
Điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Trường THCS
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung của bài.
- Học sinh cần chuẩn bị bài chu đáo và có thái độ học tập tích cực.

Lớp học không quá đông, khoảng 25 học sinh.

Dụng cụ thực hành đầy đủ và mẫu vật.
- Có phòng học bộ môn
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2011 - 2012
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ

(ký, ghi rõ họ tên)

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


1


XÁC NHẬN CỦA HĐ KHOA HỌC HUYỆN
TRƯỞNG PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Phần 2
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.

Chúng ta biết rằng Mỹ thuật là một trong những môn học đặc thù, giữ vai
trò quan trọng trong giáo dục thẫm mỹ ở trường phổ thông hiện nay. Đó là môn
học về cái đẹp, khơi dậy tư duy sáng tạo trong tâm hồn trong sáng, thơ ngây và
đáng yêu của lứa tuổi thiếu nhi.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy môn
Mỹ thuật tôi thấy phương pháp dạy học bằng biểu đồ tư duy kết hợp với đồ
dùng trực quan kích thích được tính tích cực sáng tạo của học sinh, tạo được sự
hứng thú cho học sinh. Đây là vấn đề mà đối với mỗi môn học cần phải có, đặc
biệt là môn Mĩ thuật.
Việc sử dụng
biểu đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực
và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ
về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức, khả năng hội họa, sự vận dụng kiến thức
được học qua sách vở vào cuộc sống.
Từ thực tế đó, tôi mạnh dạn đi sâu
vào nghiên cứu về đề tài : “Biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với
phương pháp trực quan hiệu quả trong phân môn vẽ theo mẫu”.
2



2.Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1.Điều kiện.
- Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung của bài.
- Học sinh cần chuẩn bị bài chu đáo và có thái độ học tập tích cực.

- Lớp học không quá đông, khoảng 25 học sinh.

- Chuẩn bị dụng cụ thực hành đầy đủ.
2.2.Thời gian.

- Thời gian áp
dụng sáng kiến năm học 2015 - 2016.
2.3.Đối tượng.

- Tôi đã
tiến hành nghiên cứu 50 em học sinh nam, nữ thuộc khối lớp 6 tại trường nơi
tôi công tác.
3.Nội dung sáng kiến.
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến.

- Hiện nay phương pháp truyền thống “ đọc - chép” thụ động không đáp
3


ứng được lối tư duy sáng tạo, năng động và tích cực của học sinh. Phương pháp
dạy học tích cực áp dụng biểu đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan đã đáp
ứng được điều mà phương pháp tuyền thống không đáp ứng được.
- Biểu đồ tư duy một
công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở

vật chất nào của các nhà trường hiện nay.
- Vận dụng biểu đồ tư duy trong dạy học sẽ hình thành cho học sinh lối tư
duy mạch lạc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
3.2.Khả năng áp dụng của sáng kiến.

- Sáng kiến
được nghiên cứu và áp dụng thành công với học sinh khối 6 tại trường nơi tôi
công tác và có thể áp dụng cho tất cả học sinh ở các trường trung học cơ sở nói
chung.
3.3.Lợi ích thiết thực của sáng kiến.
- Học sinh có hứng thú hơn với tiết học, bài vẽ của học sinh đạt hiệu quả
cao hơn.
4.Giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến.
- Trước khi áp dụng sáng kiến chất lượng bài vẽ của học sinh rất hạn
chế. Kết quả cho thấy chỉ 1 số ít học sinh có hứng thú với phân môn vẽ theo
mẫu.
- Sau khi áp dụng sáng kiến học sinh hứng thú hơn, kết quả bài vẽ
được tăng lên rõ rệt.
5.Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng và mở rộng sáng kiến.

4


Nhà trường cần quan tâm đáp ứng về cơ sở vật chất
như: phòng học bộ môn và những đồ dùng trực quan, mẫu vật phục vụ cho
môn học.
PHẦN 3
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Dạy nghệ thuật nói chung và dạy mỹ thuật nói riêng, không phải là đưa ra

một công thức cứng nhắc để làm, để vẽ mà điều cốt lõi quan trọng là lối tư duy,
tạo điều kiện cho sự phát triển tưởng tượng, khả năng sáng tạo của học sinh.
Nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội,
cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn
đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn, tầng lớp trí thức mà là
tất cả mọi đối tượng, mọi tầng lấp trong xã hội. Mỗi lứa tuổi lại có những cách
cảm nhận, suy nghĩ và lí giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách cảm
nhận logic, còn trẻ em thì có cái nhìn vô tư, trong sáng, nhìn sự vật qua lăng
kính màu hồng, không vướng bận những nguyên tắc, trăn trở mà tập trung tình
cảm, sự yêu thích của mình vào mỗi bài vẽ.
Đồng thời, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất
lượng của nó, cùng với sự phát triển ngày càng cao của con người về đức dục,
trí dục, thể dục thì mỹ dục cũng không ngừng phát triển và dần có vai trò quan
trọng trong đời sống của mỗi con người và nhất là thế hệ trẻ.
Dạy - học ở trường THCS không phải nhằm đào tạo họa sĩ hay người làm
nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em. Chủ yếu tạo điều
kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp,
vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với môn học mỹ thuật
việc truyền thụ kiến thức là một công việc quan trọng, qua đây học sinh hình
thành kĩ năng cảm thụ thẩm mĩ và kĩ năng thực hành.
5


Những năm gần đây, sự tích hợp của công nghệ thông tin và truyền
thông trong giảng dạy đã mở ra nhiều khả năng ứng dụng, tạo bước phát triển
mới làm thay đổi xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Trong bối cảnh
đó việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng biểu đồ tư duy vào dạy học
đã đạt được những thành công đáng kể, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi
mới giáo dục. Qua thực tế giảng dạy thực sự tôi nhận thấy việc sử dụng biểu đồ

tư duy trong dạy học có rất nhiều ưu điểm nổi bật. Mặt khác với mong muốn
trở thành người giáo viên dạy tốt, hoàn thành tốt công việc được giao và có khả
năng truyền thụ kiến thức hiệu quả nhất cho học sinh. Đặc biệt là thay đổi lối tư
duy, cách làm việc khoa học, sáng tạo và mang tính tập thể của học sinh. Đây
cũng là lí do tôi nghiên cứu và tìm hiểu đề tài này.
2. Cơ sở lý luận.
2.1. Biểu đồ tư duy là gì?
Trước tiên, chúng ta hiểu biểu đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng
màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu ý tưởng. Ở giữa biểu đồ là ý tưởng
trung tâm, từ ý tưởng này phát triển ra các nhánh tượng trưng cho các ý chính
(nhánh chính). Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh nhỏ để
nghiên cứu ở mức độ sâu hơn. Những nhánh nhỏ này lại tiếp tục được phân
thành những nhánh nhỏ hơn. Cứ như thế tạo nên bản đồ tư duy.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên bản đồ
tư duy: 1). Dùng từ khóa và ý chính; 2). Viết cụm từ, không viết thành câu; 3).
Dùng các từ viết tắt. 4).Có tiêu đề. 5). Đánh số các ý; 6). Liên kết ý nên dùng
nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,… 7). Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra
cứu lại dễ dàng. 8) Sử dụng màu sắc có hiệu quả.
Cũng có thể hiểu: Biểu đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra
để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi
tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ
phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi
nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu
6


truyện) thì não bộ còn có khả năng tạo sự liên kết giữa các dữ kiện với nhau.
Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng bản đồ tư
duy, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình vẽ, trong đó các đối

tượng liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách biểu diễn như vậy, các dữ
liệu được ghi nhớ và hấp thụ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều, Bản đồ tư duy biểu thị toàn bộ
cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức
của đối tượng, sự quan hệ tương hỗ giữa các khái niệm có liên quan và cách
liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn.

2.2. Phương pháp Trực quan là gì?
Phương pháp Trực quan hay nói một cách khác là hình thức sử dụng đồ
dùng trực quan trong quá trình dạy học, có vai trò là công cụ để giáo viên và
học sinh tác động vào đối tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn truyền, tăng
cường khả năng hoạt động của các giác quan, góp phần tạo nên cảm giác cảm
tính của đối tượng nhận thức nhằm đạt được các mục đích dạy học cụ thể. Nói
cách khác phương pháp trực quan là hình thức hay phương pháp dạy học đóng
vai trò công cụ, được giáo viên hay học sinh làm khâu trung gian tác động tới
đối tượng dạy học.
Phương pháp trực quan chính là phương tiện để nhận thức, chúng có chức
7


năng làm cho đối tượng nhận thức và bộc lộ một cách trực quan.
Phương pháp trực quan là nhóm phương pháp tổ chức dạy học sao cho học
sinh có thể sử dụng nhiều giác quan vào quá trình học tập. Phương pháp này sẽ
giúp học sinh hiểu sâu hơn, nhớ chính xác hơn và vận dụng kiến thức linh hoạt
hơn. Trong nhóm phương pháp trực quan đối với dạy học môn Mỹ thuật có thể
sử dụng một số phương pháp sau:
2.2.1. Phương pháp minh họa:
Phương pháp minh họa là phương pháp đưa ra những tư liệu trực quan bao
gồm như: tranh, ảnh, băng đĩa, máy chiếu...để minh họa cho nội dung mà giáo
viên cần trình bày. Ví dụ muốn học sinh hiểu được giá trị tác phẩm nghệ thuật,

đặc điểm của một trào lưu, trường phái nghệ thuật thì phải cho học sinh thấy
được tác phẩm dù chỉ là phiên bản. Muốn thực hiện được mục tiêu bài dạy cần
phải có phương tiện trực quan để minh hoạ cho nội dung bài giảng sau khi giáo
viên đó thuyết trình. Phương tiện trực quan bao gồm: Tranh, ảnh, băng, đĩa
hình, máy chiếu… Để minh hoạ đạt được kết quả tốt, phương tiện trực quan để
minh hoạ cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
+ Tư liệu minh họa phải sát với nội dung giáo viên truyền đạt.
+ Tư liệu minh hoạ cần đưa ra đúng lúc, hợp lý, vừa đủ và gắn bó với nội
dung bài giảng. Minh hoạ phải chọn lọc. Không nên đưa ra quá nhiều dẫn đến
học sinh không tập trung vào vấn đề trọng tâm của bài học. Những tác phẩm
được chọn lọc phải có đặc trưng tiêu biểu làm sáng tỏ nội dung cần truyền thụ.
Minh họa đẹp, phong phú, phương pháp trực quan hiện đại sẽ làm tăng thêm
tính hấp dẫn của tiết học và thuyết phục học sinh.
2.2.2. Phương pháp hướng dẫn học sinh làm giáo cụ trực quan.
Phương pháp hướng dẫn học sinh làm giáo cụ trực quan là phương pháp
giáo viên hướng dẫn học sinh làm đồ dùng bổ trợ nội dung bài học: Ví dụ bài
vẽ theo mẫu - lọ hoa và quả. Thì hướng dẫn học sinh tự sưu tầm nghiên cứu lọ
8


hoa và quả. Vì vậy, việc chuẩn bị minh hoạ, giáo cụ trực quan không phải chỉ là
phần chuẩn bị của giáo viên, học sinh có thể chủ động tham gia vào quá trình
dạy học. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm giáo cụ trực quan thông qua
hoạt động vẽ hoặc sưu tầm tranh. Với hoạt động này học sinh bước đầu nắm
được nội dung của bài học. Hoạt động này được thực hiện ở nhà, trước một
tuần. Học sinh đã rất hứng thú khi tham gia làm giáo cụ trực quan phục vụ cho
giờ học.
Đến lớp các nhóm học sinh tự trình bày quá trình từ thâm nhập, khám phá
thực tế đến quá trình hình thành ý tưởng và thể hiện trong tác phẩm hoặc cảm
nhận về tác phẩm đã sưu tầm. Trên cơ sở đó tôi đã củng cố đưa ra vấn đề cốt lõi

học sinh cần phải ghi nhớ.
Khi giao bài tập cho học sinh, giáo viên nêu rõ yêu cầu cụ thể phù hợp
với nội dung bài học, không để học sinh làm một cách tuỳ tiện sẽ không đáp
ứng được yêu cầu của bài học.
2.2.3 Tổ chức tham quan triển lãm, bảo tàng, các khu di tích văn hóa.
Là phương pháp tổ chức các buổi tham quan, ngoại khóa...Các làng nghề,
các bảo tàng, triển lãm, khu di tích văn hóa là nguồn trực quan phong phú và đa
dạng. Hoạt động này sẽ giúp cho học sinh có thể hiểu sâu hơn những kiến thức
được nghiên cứu trên lớp. Đây là phương tiện trực quan sinh động nhất. Bởi vì
học sinh được trực tiếp nhìn, nghe, thưởng thức và cảm thụ thực sự trước
những tác phẩm nghệ thuật nguyên bản. Các hoạt động này gây hứng thú cho
học sinh trong học tập, nghiên cứu và sáng tạo thẩm mỹ. Hoạt động này có thể
tổ chức thường xuyên, hoặc định kỳ tuỳ theo tình hình thực tế của nhà trường.
Hoạt động này có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức: nói chuyện ngoại
khóa, xem băng đĩa, tham quan hội hè truyền thống ở một số địa phương…
Phương pháp trực quan là phương pháp có hiệu quả đối với việc dạy học
môn Mỹ thuật. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học, biến quá

9


trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Có thể nói theo cách khác là tích cực
hóa quá trình học tập của học sinh trong dạy và học môn Mỹ thuật cần sử dụng
trực quan để nêu và giải quyết vấn đề, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề
để giúp học sinh tư duy, tìm ra kiến thức mới tiềm ẩn trong các tác phẩm nghệ
thuật.
Dụng cụ sử dụng cho phương pháp trực quan có thể hiểu là bao gồm: Giấy,
bút, màu, bảng, tranh, ảnh...nó không chỉ bó hẹp ở hình, mẫu vẽ, tranh
mẫu...mà bao gồm cả âm điệu, giọng nói của người giáo viên, là cử chỉ và điệu
bộ của người giáo viên, là trình bày bảng, là vẽ minh họa của giáo viên.

Đối với đánh giá bài vẽ của học sinh, giúp học sinh củng cố và khắc sâu
kiến thức, chúng ta cần phải đánh giá ở 2 cấp độ: đạt và chưa đạt, chỉ ra được
cái ưu cái nhược của từng bài, ở khâu này giáo viên nên khuyến khích để cho
học sinh tự đánh giá có như vậy các em mới rút kinh nghiệm vào bài vẽ của
mình một cách hiệu quả.
3.Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Người ta cho rằng, thế kỉ XXI là thế kỉ của bộ não. Con người đứng trước
kỉ nguyên của trí tuệ, của sự sáng tạo với sức mạnh tiềm tàng của bộ não gần
như vô tận.
Hai bán cầu đại não của con người có chức năng đặc trưng rất khác nhau.
Bán cầu não trái thiên về khả năng lôgíc khoa học như từ vựng, tư duy lôgíc, xử
lí dữ liệu, thứ tự, tuyến tính, khả năng phân tích, giải quyết tuần tự. Trong khi
đó, bán cầu não phải thiên về tiết tấu, tri giác, không gian, tư duy tưởng tượng,
mơ mộng, màu sắc, ý thức chỉnh thể, do vậy não phải thiên về các hoạt động
nghệ thuật, sáng tạo, tình cảm. Mặt khác, khi chất xám ở vỏ não phải hoạt động
thì chất xám ở vỏ não trái ở trạng thái tĩnh và suy tưởng. Cũng như vậy, khi
chất xám ở vỏ não trái hoạt động thì chất xám ở vỏ não phải lại thư giãn và tĩnh
lặng.

10


Con người luôn yêu cái đẹp, luôn muốn làm đẹp cho cuộc sống. Từ trong
gia đình đến ngoài xã hội ở đâu cũng có sự sắp xếp, tô điểm của con người
nhằm làm cho mọi vật thêm đẹp, cuộc sống thêm vui tươi.
Trong nhu cầu cao về thẩm mĩ đó, mỹ thuật đóng vai trò quan trọng với
chức năng thu hút và điều tiết cái gọi là “cảm thụ thẩm mĩ” ở mỗi con người.
Con người tạo ra cái đẹp nhưng đôi lúc không hiểu hết nó. Vậy, câu hỏi là:
Tại sao con người lại không hiểu được hết nó? Phải chăng kiến thức về cái đẹp
chưa thực sự đủ? Vậy thì phương pháp dạy và học này sẽ giúp ích rất nhiều cho

viêc bổ trợ kiến thức nhanh và hiệu quả nhằm bù lấp vào chỗ thiếu ấy.
Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu con người cần phải luôn cải
thiện mà nâng cao trình độ, khả năng tư duy, khả năng sáng tạo đặc biệt là trong
sự nghiệp giáo dục hay trong quá trình dạy học. Vì vậy, phương pháp này rất
cần thiết và sẽ bổ trợ tích cực cho con người, đặc biệt là trong cách tự học và
sáng tạo.
3.1. Khó khăn:
Hiện nay, phương pháp dạy học trong các trường phổ thông ở nước ta
phần lớn làm cho não trái của học sinh phát triển hơn não phải. Não phải
thường ít được dùng đến, trong khi tiềm năng tư duy của não phải không thua
kém, thậm chí còn vượt trội hơn so với não trái nếu tìm được quy luật làm việc
của nó.
Phương pháp dạy học truyền thống, học sinh thụ động, giáo viên làm việc,
học sinh lắng nghe và ghi chép đã hình thành thói quen sẵn có.
Để áp dụng biểu đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan thì đòi hỏi học
sinh phải có kiến thức tương đối vững và tương quan đồng đều.
Việc chuẩn bị giáo cụ tiêu tốn nhiều thời gian của cả giáo viên và học sinh.
Sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với phương pháp trực quan hình ảnh
là phương pháp dạy và học mới, đòi hỏi phải có thời gian thực nghiệm thì học
11


sinh và giáo viên mới có thể và làm quen thành thạo được.
Yêu cầu người học và người dạy phải năng động, sáng tạo và chủ động
trong các bước thực hiện.
3.2. Thuận lợi:
Biểu đồ tư duy được xem là một công cụ giúp bộ não tư duy toàn diện và
khai thác được tiềm năng của não phải. Nhờ có sự liên kết giữa các ý tưởng với
ý tưởng trung tâm nên biểu đồ tư duy cho thấy mức độ bao quát, sâu rộng của
vấn đề cần nghiên cứu. Biểu đồ tư duy có thể giúp người dùng xây dựng kế

hoạch làm việc, học tập nhanh chóng, chính xác, rõ ràng, sáng tạo hơn, giúp
người dùng giải phóng suy nghĩ theo lối mòn từ đó dễ dàng đưa ra cách giải
quyết vấn đề, làm sáng tỏ những tình huống, tiết kiệm thời gian và nhớ lâu hơn.
Cơ chế hoạt động của biểu đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Biểu đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các
hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng biểu đồ tư duy vào hỗ trợ
dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống
hóa kiến thức sau mỗi chương ...
Dạy học bằng biểu đồ tư duy và kết hợp trực quan hình ảnh là phương
pháp dạy học tích cực, kích thích được sự chủ động, tích cực làm việc theo cá
nhân độc lập suy nghĩ rồi tổng kết theo nhóm. Phát huy được khả năng sáng
tạo tư duy và tinh thần tập thể. Đây là cách làm việc khoa học, năng động, sáng
tạo, phù hợp với nhu cầu hiện đại hóa hiện nay.
Sử dụng được nguồn tư liệu một các phong phú và hiệu quả.
Qua đó, giúp học sinh tiếp cận tri thức, kiến thức nhanh và hiệu quả.
Học sinh khắc sâu lượng kiến thức của bài học.
Dạy học bằng cách sử dụng biểu đồ tư duy và kết hợp với phương pháp
trực quan hình ảnh có thể tích hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học. Mặt khác có thể khai thác công nghệ thông tin tối đa

12


và nguồn tư liệu phong phú để trình bày.
Dạy học bằng cách sử dụng biểu đồ tư duy và kết hợp phương pháp trực
quan hình ảnh có thể áp dụng cho tất cả các môn học khác. Cũng có thể sử
dụng trong công tác quản lí, công tác chuyên môn...
Minh hoạ đẹp, phong phú, phương pháp trực quan sinh động sẽ làm tăng
thêm tính hấp dẫn của tiết học và thuyết phục học sinh, nó có tác động quan
trọng đến việc cảm nhận tác phẩm, hình thành nên nhận thức thẩm mỹ của các

em, rèn luyện cho các em một trực giác nhạy bén, khả năng quan sát và phát
hiện những vấn đề trong cuộc sống.
4.Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
Trong mĩ thuật, Biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với phương pháp
trực quan được sử dụng tùy theo từng tiết học của từng phân môn và có sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa máy chiếu( CNTT), đồ dùng dạy học... với bảng viết.
Với các hoạt động được thiết kế cho sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp
phương pháp trực quan, trực quan được coi như nội dung bài học cần tìm hiểu.
Giáo viên không thuyết trình như cách dạy truyền thống, học sinh chủ động làm
việc, tiếp cận tìm hiểu nội dung, kiến thức mới với biểu đồ tư duy dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Trên cơ sở đó, dạy Mỹ thuật sẽ được tích cực hóa.
Khi tự mình tìm ra kiến thức mới, học sinh sẽ hứng thú, say mê, tiếp thu bài tốt
hơn vì đó là sự ghi nhớ chủ động.
Cách tổ chức giờ dạy Mỹ thuật là ứng dụng của phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề, trong đó trực quan là một phần nội dung bài giảng. Tuy nhiên
không có phương pháp nào là tuyệt đối, cần được kết hợp với nhiều phương
pháp như thuyết trình, vấn đáp để đạt được mục đích đưa học sinh cùng tham
gia vào hoạt động dạy - học, bộc lộ năng lực cá nhân. Như vậy quá trình dạy
học mới được tích cực hóa. Giáo viên có thể nhận thức được trình độ của học
sinh ngay trong giờ học. Từ đó có kế hoạch và phương pháp dạy học phù hợp
với đối tượng.
13


Một trong những phương pháp hay sử dụng nhất trong giảng dạy vẽ theo
mẫu đó là phương pháp trực quan, có thể nói bước đầu tiên để người giáo viên
giúp học sinh tiếp cận với mẫu vật đó là các hình ảnh trực quan, thông qua nó
chúng ta tổ chức tiết học một cách hợp lý nhất để học sinh tiến hành các thao
tác tư duy bao gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng
hóa…. hình thành nên kiến thức.

Với các hoạt động thiết kế, sử dụng phương pháp minh hoạ, phương pháp
tổ chức tham quan và phương pháp hướng dẫn học sinh làm giáo cụ trực quan
được áp dụng trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy học sinh nắm bài tốt hơn,
say mê hơn. Giờ vẽ theo mẫu không còn khô khan và trừu tượng nữa.
4.1.Dẫn chứng trình tự các bước tiến hành trong một tiết dạy như sau:
Ở phân môn Vẽ theo mẫu giáo viên cần vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát, trực quan, vấn đáp kết hợp với biểu đồ tư duy.
- Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
- Phương pháp chia nhóm.
- Phương pháp thực hành, luyện tập.
Khi dạy phân môn Vẽ theo mẫu, tôi tiến hành các bước như sau:
4.1.1. Chuẩn bị:
Về thiết kế bài giảng: Soạn đúng chương trình SGK, đúng phân phối
chương tình, chuẩn kiến thức kỹ năng, chú ý giảm tải những nội dung quá cao
đối với học sinh do Bộ giáo dục và đào tạo quy điịnh. Soạn đầy đủ trước khi lên
lớp 1 tuần.
Bên cạnh đó tôi tìm hiểu, tham khảo các phương pháp mới, sách báo,
truyền thông để đưa vào bài giảng thêm phong phú.
Ngoài việc thiết kế bài giảng, tôi chuẩn bị thêm đồ dùng trực quan như
tranh ảnh, mẫu vật, đồ dùng trực quan liên quan đến bài giảng, sản phẩm bài vẽ
của học sinh từ những năm trước, giấy vẽ, bút lông, chì, tẩy, màu... Một số mẫu
biểu đồ tư duy làm cho bài dạy đạt kết quả cao hơn.
Học sinh chuẩn bị giấy vẽ, chì, tẩy, màu...
14


4.1.2. Tiến trình giảng dạy:
Tiến trình giảng dạy phải đầy đủ theo các bước nhất định, thời gian trong
giờ giảng phải được phân bố hợp lý. Một giờ dạy Mỹ thuật 45 phút, vậy từng
bước tiến hành phải theo trình tự cụ thể.

Trong giờ giảng tiết vẽ theo mẫu: Trước tiên tôi kiểm tra đồ dùng học sinh
(Giấy vẽ, chì, tẩy, que đo…) tiếp theo tôi giới thiệu bài bằng một số sản phẩm
liên quan đến bài học. Sang phần bài mới tôi thực hiện 4 hoạt động.
Hoạt động 1: Quan sát và nhận xét.
- Tôi dùng phương pháp trực quan cho học sinh quan sát đồ dùng đã
chuẩn bị như tranh vẽ mẫu của giáo viên và bài vẽ của học sinh những năm
trước để gây hứng thú cho các em.
- Giáo viên giới thiệu mẫu vật thật, yêu cầu học sinh lên tham gia bày mẫu
và cho học sinh nhận xét chọn ra cách bày mẫu đẹp, hợp lý. Qua đó giúp các
em thích thú với môn học.
- Yêu cầu học sinh đọc phần thông tin trong sách giáo khoa, chia nhóm
yêu cầu các em quan sát, nhận xét mẫu vật về ( vị trí, đặc điểm cấu tạo, khung
hình, so sánh ước lượng tỉ lệ, ánh sáng và độ đậm nhạt giữa các vật mẫu) và thể
hiện những nhận xét đó trên biểu đồ tư duy. Các em rất hào hứng trao đổi nhận
xét mẫu ở bài học một cách hiệu quả.

15


Sau đó giáo viên gọi các nhóm trình bày biểu đồ tư duy của mình kết hợp
phương pháp trực quan phân tích trên mẫu vật để học sinh hiểu rõ về đặc điểm
mẫu.
Hoạt động 2: Cách vẽ.
Trước tiên tôi yêu cầu học sinh đọc phần thông tin trong sách giáo khoa.
Đặt câu hỏi gợi mở liên hệ kiến thức cũ để học sinh nêu ra các bước tiến hành
một bài vẽ theo mẫu.
Sử dụng phương pháp trực quan (minh họa làm mẫu).Tôi vẽ minh họa
bảng từng bước vẽ trên bảng kết hợp với phân tích giảng giải cho các em
hiểu.Trong quá trình vẽ minh họa các bước và phân tích giáo viên yêu cầu học
sinh quan sát theo dõi hoạt động của giáo viên . Sau đó giáo viên yêu cầu học

sinh hoạt động chốt lại các bước vẽ tổng quát một lần nữa từ đó các em khắc
sâu được kiến thức bài học.
Hoạt động 3: Thực hành.
- Với nội dung kiến thức đã tìm hiểu ở những phần trên tôi yêu cầu học
sinh bỏ giấy vẽ ra quan sát mẫu và thực hành vẽ bài.
Bằng phương pháp trực quan hình ảnh trước khi thực hành vẽ bài giáo
viên đưa ra một vài bài vẽ mẫu của họa sĩ và học sinh những năm học trước để
học sinh tham khảo khắc sâu thêm kiến thức của bài vẽ và tạo húng thú cảm
xúc cho các em trước khi bước vào vẽ thực hành mẫu. Có như vậy giờ học mới
thu hút, khuyến khích học sinh hào hứng học tập, sáng tạo. Tránh việc giáo viên
thực hành làm, nói quá nhiều, học sinh ít được thể hiện ý tưởng hay thực hành.
Trong lúc học sinh làm thực hành, giáo viên quan sát bao quát lớp gợi ý
để học sinh thực hiện được bài vẽ của mình. Tuyên dương những học sinh có
bài vẽ đẹp, tạo không khí hào hứng vui vẻ cho tiết học.
Hoạt động 4: Nhận xét - đánh giá.
- Giáo viên (trọng tài) kết thúc phần thực hành, giáo viên chia lớp thành 3
đến 4 nhóm và yêu cầu nhóm trưởng cùng các thành viên trưng bày bài vẽ của
nhóm mình, đại diện của nhóm lên nhận xét đánh giá bài vẽ về bố cục, hình vẽ
và đậm nhạt… giáo viên gọi nhóm khác nhận xét rồi cùng trò tìm ra những cái
16


đạt và chưa đạt trên bài vẽ. Tổng kết nhắc nhở để học sinh rút kinh nghiệm vào
những bài vẽ sau.
- Giáo viên nhận xét lớp học, dặn học sinh chuẩn bị bài sau, chuẩn bị
những nội dung có liên quan đến bài học sau.
4.2 So sánh kết quả dạy.
Qua tiến hành giảng dạy thử nghiệm tại hai lớp 6A và
6B với hai phương pháp khác nhau giữa phương pháp cũ và phương pháp mới,
tôi rút ra được kết luận:


Lớp 6A
Áp dụng dạy theo phương pháp cũ:

Lớp 6B
Áp dụng dạy theo phương pháp
mới:

Khi dạy vẽ theo mẫu giáo viên chưa

Tôi chuẩn bị chu đáo đồ dùng

chú ý đến quan sát nhiều để giúp học dạy học của giáo viên và học sinh.
sinh nhận biết về đối tượng trước khi vẽ, Trong lúc giảng tôi vận động kết
điều đó thể hiện qua những giờ dạy vẽ hợp các phương pháp hài hòa giữa
theo mẫu còn có những thiếu sót sau đây: cô và trò (cô hướng dẫn, trò khám
Hướng dẫn học sinh quan sát còn phá và thực hành), kết hợp phương
nặng nề về kỹ thuật mà thường quên đi pháp sử dụng biểu đồ tư duy với
tính thẩm mỹ của đối tượng do vậy chưa trực quan hiệu quả.
gây được hứng thú cho các em.

Sau khi giáo viên giới thiệu,

Phương pháp hướng dẫn học sinh yêu cầu học sinh quan sát mẫu vật
còn chung chung, chưa nêu lên đặc điểm thật kết hợp với đồ dùng trực quan
của mỗi bài đồng thời chưa chú ý đến và sử dụng biểu đồ tư duy để khắc
từng giai đoạn mà dàn trải đều đều, lặp sâu kiến thức cho học sinh từ đó
lại, gây sự nhàm chán cho học sinh.

các em có hứng thú say mê với tiết


Hướng dẫn học sinh quan sát một học qua đó thể hiện tinh thần đoàn
chiều, ít quan tâm đến so sánh đối chiếu kết giúp đỡ chia sẻ lẫn nhau.
giữa đối tượng với bài vẽ của các em. Do

Học sinh hào hứng tham gia

17


vậy học sinh thường công nhận hơn là tiết học, lớp học sôi nổi. Kết quả
thấy những điều chưa đúng ở bài vẽ của không ngờ tất cả các học sinh đều
mình vì thế mà kết quả học tập thấp.Nên vẽ bài hiệu quả. Tôi đã phát hiện ra
việc phát hiện ra học sinh nào có năng học sinh nào có năng khiếu về
khiếu là rất khó khăn cho giáo viên.

phân môn. Tiết học diễn ra nhẹ
nhàng như: "Học mà chơi, chơi
mà học".

Kết quả thu được ở bảng số liệu sau :

Lớp
6A
6B

Số
lượng
26
25


Đạt
SL
10
25

%
38,5
100

Chưa đạt
SL
%
16
61,5
0
0

4.3. Bài soạn minh hoạ.

Bài 20:Vẽ theo mẫu
Mẫu có 2 đồ vật
( Tiết 1)
A.Mục tiêu:
1.Kiến thức
- HS biết được cấu tạo của vật mẫu và bố cục của bài vẽ.
2.Kỹ năng
- HS vẽ được hình có tỉ lệ gần với mẫu vật.
3.Thái độ
- Hiểu và trân trọng vẻ đẹp của 1 số đồ vật trong cuộc sống.

4.Năng lực hình thành
- Năng lực tư duy, hợp tác và thực hành.
B.Thiết bị - đddh:
1.Giáo viên
- Mẫu vẽ.
- Hình minh họa hướng dẫn các bước vẽ.
- Một số bài vẽ của họa sĩ và học sinh.
2.Học sinh
- Sách giáo khoa và vở ghi.
- Chuẩn bị đầy đủ giấy vẽ, chì, tẩy, màu.
18


3.Phương pháp dạy - học
- Biểu đồ tư duy kết hợp PP trực quan.
- PP vấn đáp.
- PP thực hành...
C.Các hoạt động dạy - học:
I.Ổn định lớp(1')
- Kiểm tra sĩ số : 6a
II.Kiểm tra bài cũ(4')

6b

- Thế nào là vẽ theo mẫu?
- Em hãy nêu các bước tiến hành một bài vẽ theo mẫu?
III.Dạy bài mới(35')
Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò

Ghi bảng

Hoạt động 1: Quan sát,
nhận xét (8’)
- Giáo viên cho học sinh xem
một số bài vẽ theo mẫu đẹp
tạo hứng thú cho học sinh.
Giáo viên nêu rõ yêu cầu để
hướng sự quan sát của học
sinh vào trọng tâm bài.
- GV giới thiệu mẫu vẽ cái
bình đựng nước và cái hộp,
gợi ý cách bày mẫu sao cho
hợp lí (có thể bày 2 mẫu cho
học sinh vẽ theo nhóm).
- Giáo viên yêu cầu học sinh
tham gia đặt mẫu vẽ.
- Giáo viên yêu cầu học sinh
hoạt động nhóm quan sát,
nhận xét mẫu và vẽ thể hiện
nhận xét bằng biểu đồ tư duy:
+ Chất liệu?
+ Vị trí ?
+ Khung hình chung và riêng?
+ Cấu tạo?
+ So sánh tỉ lệ giữa 2 vật mẫu
và so sánh tỉ lệ giữa các bộ
phận trong từng vật mẫu?
- Yêu cầu các nhóm trình bày
biểu đồ tư duy của mình.Gọi


- Học sinh quan
sát.

- Học sinh quan
sát

I.Quan sát nhận
xét
+ Chất liệu.
+ Vị trí.
+ Khung hình chung
và riêng.
+ Cấu tạo.
+ So sánh tỉ lệ giữa
2 vật mẫu và so sánh
tỉ lệ giữa các bộ
phận trong từng vật
mẫu.

- Học sinh tham
gia bày mẫu.
- Học sinh các
nhóm quan sát
nhận xét mẫu và
vẽ thể hiện nhận
xét bằng biểu đồ tư
duy.

- Học sinh trình

19


học sinh nhận xét.
bày kết quả
- GV chốt kiến thức.
- Giáo viên tuyên dương
- Học sinh nghe và
những nhóm trình bày biểu đồ khắc sâu kiến thức.
tư duy đẹp và có kết quả tốt.

Hoạt động 2:HD cách vẽ (7’)
- Giáo viên yêu cầu học sinh nhớ
lại kiến thức đã học trả lời câu
hỏi.
- Em hãy nêu các bước tiến hành
một bài vẽ theo mẫu?
Bước 1?
Bước 2?

II. Cách vẽ
1.Vẽ khung hình
chung.
- HS tham gia xây
dựng cách vẽ.
Bước 1: Vẽ khung
hình chung
Bước 2: Vẽ khung
hình riêng


2.Vẽ khung hình
riêng.

20


Bước 3?

Bước 3: Tìm tỉ lệ
các bộ phận và vẽ
phác nét chính

Bước 4?

Bước 4: Vẽ chi tiết 4.Vẽ chi tiết

- Qua phần trả lời của học sinh
giáo viên vẽ minh họa các bước
vẽ lên bảng ở góc độ nào đó từng
bước vẽ.

- HSQS thao tác
của giáo viên khắc
sâu kiến thức.

Hoạt động 3:HD thực hành
(20’)
- Bài tập: Vẽ cái bình đựng nước
và cái hộp( vẽ hình).
- GV lưu ý cho HS:

+ Ở mỗi vị trí khác nhau, hình
ảnh mẫu vật nhìn thấy khác nhau
(vẽ theo góc độ của mình).
- Trong lúc học sinh vẽ bài giáo
viên bao quát lớp gợi ý cho các
em.

- HS quan sát mẫu
thực hành vẽ bài
trên khổ giấy A4.

3.Tìm tỉ lệ các bộ
phận vẽ phác các
nét chính

III. Thực hành
- Bài tập: Vẽ cái
bình đựng nước và
cái hộp ( vẽ hình).

IV.Củng cố(4')
- Giáo viên (trọng tài) kết thúc phần thực hành, giáo viên chia lớp thành 3
đến 4 nhóm và yêu cầu nhóm trưởng cùng các thành viên trưng bày bài vẽ của
nhóm mình, đại diện của nhóm lên nhận xét đánh giá bài vẽ về bố cục, hình vẽ
… giáo viên gọi nhóm khác nhận xét rồi cùng trò tìm ra những cái đạt và chưa
đạt trên bài vẽ. Tổng kết nhắc nhở để học sinh rút kinh nghiệm vào những bài

21



vẽ sau.
V.Hướng dẫn về nhà(1')
-Về nhà tập quan sát đậm nhạt ở một số đồ vật trong
gia đình.
- Tiết sau mang bài vẽ hình để vẽ tiếp đậm nhạt .
5. Kết quả đạt được.
Biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với phương pháp trực quan
hiệu quả trong phân môn vẽ theo mẫu” giúp học sinh học tập có hiệu quả.
Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em
thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đó quên phần trước và không biết
liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức học trước đó vào
những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp
không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí
nhớ của mình. Sử dụng thành thạo biểu đồ tư duy kết hợp với phương pháp trực
quan trong dạy học, học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập
tư duy và phát triển tư duy.
Sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với phương pháp trực quan giúp học sinh
học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con
người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự
viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng biểu đồ tư duy giúp
học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh tự vẽ biểu đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo
của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự
do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng,
cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi biểu đồ tư duy thể hiện rừ cách
hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và biểu đồ tư duy do các em
tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
Trong dạy học, biểu đồ tư duy góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Giáo viên có thể sử dụng biểu đồ tư duy trong quá trình soạn giảng, bố cục nội
dung bài dạy; vẽ sơ hoá kiến thức thông qua việc liên kết các mắt xích kiến

22


thức cho từng bài, từng chương, từng phần kiến thức; hệ thống nội dung ôn tập
để học sinh có cái nhìn tổng quát về kiến thức đã học, từ đó dễ dàng ôn tập và
khắc sâu kiến thức hơn; cấu trúc trong ra đề kiểm tra bằng cách đưa ra các ma
trận nhằm phân bố lượng kiến thức, mức độ kiến thức cần kiểm tra cho hợp lí;
phân tích cách giải các bài tập định tính cũng như định lượng, đưa ra những
kiến thức chính cần giải bài tập cũng như các kiến thức liên quan, từ đó đưa ra
các bước giải trình tự và cách trình bày rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Học sinh có
thể sử dụng biểu đồ tư duy để học tập tích cực, chủ động và sáng tạo hơn; có
thời khoá biểu và thời gian biểu học tập cụ thể, rõ ràng; từ đó tìm ra phương
pháp học phù hợp cho bản thân để việc học trở nên đơn giản, nhớ lâu, ngày
càng yêu thích môn học và kết quả học tập tốt hơn.
Dạy học bằng phương pháp sử dụng biểu đồ tư duy và kết hợp phương
pháp trực quan là phương pháp dạy học tích cực và mang lại hiệu quả. Trong
quá trình dạy - học bản thân tôi nhận thấy sự cần thiết của phương pháp dạy
học tích cực là phương pháp tối ưu cho sự tiếp thu của học sinh. Bên cạnh đó,
trực quan hình ảnh sẽ góp phần rất lớn cho “dung lượng nhớ” và “ tính tích
cực” của học sinh. Bởi vậy, dạy học theo phương pháp sử dụng biểu đồ tư duy
kết hợp trực quan hình ảnh sẽ kích thích cho bộ não và giúp cho học sinh dễ ghi
nhớ và việc học đạt hiệu quả tích cực hơn.
Khổng Tử đề cao tính tích cực, tư duy độc lập của người học khi yêu cầu
học trò kết hợp với suy nghĩ. Khổng Tử đề cao tính tích cực của người học và
ngược lại. Theo ông: “Học mà không suy nghĩ thì sai lầm và ngược lại chỉ suy
nghĩ mà không học thì nguy hiểm”. Khổng Tử đòi hỏi người học phải nêu cao
tính độc lập tư duy.
Phương pháp dạy học có sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp với đồ dùng trực
quan là phương pháp tương tác sư phạm, nó sẽ kích thích tính tự học và tìm tòi,
nghiên cứu của học sinh trước khi đến lớp. Trong tiết học giáo viên đúc kết

kiến thức và nâng cao kiến thức liên quan bài học. Muốn tiết học có hiệu quả
thì cả hai bao gồm giáo viên và học sinh phải nghiên cứu trước bài học. Điều
23


này sẽ thúc đẩy ý thức học tập của học sinh.
Biểu đồ tư duy sẽ là công cụ hệ thống kiến thức và biểu diễn kiến thức, nội
dung hiệu quả tối ưu. Giúp người dạy và người học hệ thống hóa kiến thức kỹ
và khoa học.
Phương pháp trực quan là công cụ minh chứng và là công cụ diễn giải vấn
đề rõ hơn, giúp người học và người dạy dễ dàng tiếp cận thông tin. Hay nói một
cách khác phương pháp trực quan là yếu tố biện luận, giải thích, làm rõ vấn đề
mà nội dung của biểu đồ tư duy đưa ra.Thông qua trực quan hình ảnh, người
dạy dễ giải thích vấn đề hơn, nhờ vậy vấn đề sẽ được truyền đạt nhanh và có
hiệu quả.
Thông qua trực quan hình ảnh người học dễ dàng tiếp thu, dễ hiểu vấn đề
hơn: Ví dụ: Một vấn đề nếu chỉ thuyết trình bằng ngôn ngữ thì người nghe tiếp
thu ít hiệu quả hơn so với người nghe khi vấn đề đó được thuyết trình một cách
sinh động bằng việc đi kèm hình ảnh minh họa.
6.Điều kiện sáng kiến được nhân rộng.
- Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung của bài.
- Học sinh cần chuẩn bị bài chu đáo và có thái độ học tập tích cực.

- Lớp học
không quá đông, khoảng 25 học sinh.
- Sưu tầm 1 số tranh của họa sĩ và học sinh.
- Chuẩn bị dụng cụ thực hành đầy đủ như giấy vẽ, chì, tẩy…việc
chuẩn bị chu đáo có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài giảng. Trong
khâu chuẩn bị cần phối hợp sự chuẩn bị của cả thầy và trò.
- Học sinh tham gia chuẩn bị thực hành có ý nghĩa giáo dục ý thức

trách nhiệm đồng thời giúp học sinh có điều kiện tìm hiểu quan sát sơ bộ về
mẫu vật.

24


PHẦN 4
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận.
* Đánh giá thực trạng:
Với việc nghiên cứu và tìm hiểu đề tài này tôi càng hiểu rõ
được vai trò và tác dụng của môn Mỹ thuật mà đặc biệt là phân môn vẽ theo
mẫu. Tôi nhận thấy rằng đây thực sự là phân môn cần thiết đối với học sinh phổ
thông bởi nó góp phần giáo dục học sinh biết yêu quý các đồ vật, biết trân trọng
những giá trị nhỏ bé nhất ngay trong cuộc sống thường ngày của các em. Để từ
đó các em biết sáng tạo ra cái đẹp và biết cảm thụ cái đẹp, làm đẹp thêm cho
cuộc sống.
Sau khi nghiên cứu đề tài“Biện pháp sử dụng biểu đồ tư duy kết hợp
phương pháp trực quan trong phân môn vẽ theo mẫu hiệu quả”. Tôi thấy,
nếu như giáo viên không có những định hướng, những phương pháp dạy học
tích cực thì hiệu quả đem lại trong một tiết dạy khó mà đạt được chất lượng như
mong muốn. Đặc biệt là phân môn vẽ theo mẫu một phân môn được coi là rất
khô khan trong bộ môn Mĩ thuật.
Là một giáo viên mĩ thuật, việc tìm hiểu đề tài này nhằm củng cố cho
mình phương pháp dạy học tối ưu ở phân môn vẽ theo mẫu trong bộ môn mỹ
thuật bậc trung học cơ sở, phong phú về kiến thức cũng như kĩ năng thực hành,
cảm quan mỹ thuật để tạo một tâm thế vững vàng khi đứng trên bục giảng. Bên
cạnh đó, giáo viên còn thông qua thực tế đối tượng giảng dạy nhằm nghiên cứu,
tìm tòi sáng tạo ra phương pháp dạy học tích cực, có khoa học nhằm truyền đạt
25



×