Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

SKKN Một số biện pháp đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức của học sinh ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.18 KB, 45 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp đổi mới công tác quản lý nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức của học sinh ở trường THCS
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Cán bộ quản lý trường THCS.
3. Tác giả:
Họ và tên:

Nam (nữ): Nam

Ngày tháng/năm sinh: Trình độ chuyên môn: Đại học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Hiệu trưởng trường THCS
Điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Đơn vị: Trường THCS
Địa chỉ:
Điện thoại:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Trường THCS THCS
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2012 - 2013.
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

XÁC NHẬN CỦA HĐ KHOA HỌC HUYỆN
TRƯỞNG PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Bác Hồ kính yêu có nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đạo đức là sợi chỉ hồng xuyên
suốt trong quá trình suy nghĩ và hành động của một con người. Người có đạo
đức tốt ắt hẳn suy nghĩ và hành động đúng.
Trong trường học giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành trọng yếu
của quá trình giáo dục rèn luyện nhân cách học sinh. Đạo đức được coi là nền
tảng trong phẩm chất, nhân cách, là cái gốc của con người. Vì thế, trong nhà
trường phải luôn chú trọng cả đức lẫn tài: Việc dạy chữ phải kết hợp với dạy
người nhằm rèn luyện học sinh trở thành con người phát triển toàn diện.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá, hoà nhập
khu vực và quốc tế, tận dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thắng lợi, yêu cầu đòi hỏi nhân tài cho
đất nước ngày càng cao hơn, chất lượng hơn.
Vì vậy, hơn bao giờ hết nhận thức và hành động của việc “giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức phải chiếm vị trí hàng đầu trong toàn bộ công tác
giáo dục học sinh”.
Xuất phát từ thực tế khách quan và nguyên nhân chủ quan vấn đề giáo
dục đạo đức nhân cách của học sinh đã có lúc, có nơi trở thành vấn đề nóng
của xã hội nói chung, của trường THCS nói riêng. Qua thực tiễn công tác
quản lý và giảng dạy học sinh ở trường THCS, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực
trạng và đề ra một số biện pháp quản lý để giáo dục đạo đức cho học sinh
THCS là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là vấn đề then chốt để để nâng cao
chất lượng gáo dục trong nhà trường. Qua một số năm làm công tác quản lý
bản thân tôi đã có một số giải pháp đổi mới trong công tác quản lý để giáo
dục đạo đức học sinh có hiệu quả. Trong điều kiện có thể tôi đúc rút thành
những kinh nghiệm cho bản thân và mong muốn chia sẻ cho đồng nghiệp để
tháo gỡ khó khăn trong quá trình công tác.
2



2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1. Điều kiện.
Áp dụng trong quản lý đối với các trường bậc THCS
2.2. Thời gian.
Thời gian áp dụng sáng kiến từ năm học 2012 - 2013 đến năm học
2014-2015
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến.
Cán bộ quản lý bậc THCS
3. Nội dung sáng kiến.
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến.
- Giúp cho các nhà quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Bình
Giang hiểu rõ hơn những cơ sở lí luận và thực tiển trong công tác GDĐĐ cho
HS, từ đó có sự nghiên cứu thật sự nghiêm túc và khoa học về việc GD toàn diện
cho HS, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tệ nạn xã hội đang từng giờ
từng phút xâm nhập vào trường học, nạn bạo lực học đường và từ đó nâng cao
kỹ năng sống cho HS.
- Giúp các nhà quản lý GD các nhà trường nhà thấy rõ hơn những nguyên
nhân đã gây ra sự suy giảm về đạo đức của một bộ phận HS, nguyên nhân gây ra
nạn bạo lực học đường đặc biệt là tìm ra “huyệt” của vấn đề, từ đó quản lý các
nhà trường phải tích cực đổi mới công tác quản lý để tìm ra những giải pháp hiệu
quả cho công tác GDĐĐ cho HS.
- Đề xuất các giải pháp có tính đồng bộ hướng vào mục tiêu đổi mới công
tác quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trong trường
THCS hiện nay.
3. 2. Khả năng áp dụng sáng kiến.
Sáng kiến được nghiên cứu và áp dụng thành công tại trường tôi công
tác nói riêng và có thể áp dụng cho các trường THCS khác trên địa bàn nói
chung.

3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến.

3


Sáng kiến cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất hệ thống các giải
pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng GD đạo đức học sinh trong trường
THCS hiện nay. Những kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho các chủ thể quản lý
xác định các biện pháp cụ thể có tính khoa học, khả thi để góp phần nâng cao
chất lượng GD đạo đức học sinh trong tình hình mới.
4. Giá trị và kết quả đạt được của sáng kiến.
- Trước khi chưa áp dụng sáng kiến công tác quản lý GD đạo đức học
sinh còn lúng túng,chưa chủ động, chất lượng GD đạo đức học sinh rất hạn
chế, còn có nhiều học sinh vi đạo đức, học sinh có hạnh kiểm TB và yếu
nhiều.
- Sau khi áp dụng sáng kiến quản lý nhà trường hoàn toàn chủ động
trong quản lý chỉ đạo, tổ chức thực hiện với các giải pháp khoa học đồng bộ
được thống nhất trong toàn thể cán bộ giáo viên học sinh và được sự đồng
thuận ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh học sinh và các ban ngành, đoàn thể
khác. Kết quả trong 3 năm liền tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm TB, yếu giảm đi
rõ rệt, nhà trường không phải thành lập HĐ kỷ luật nào để kỷ luật HS, học
sinh thực hiện tốt các nền nếp và đã góp phần tích cực trong việc nâng cao
chất lượng của nhà tường.
5. Đề xuất và khuyến nghị.
- Đối với Bộ GD-ĐT: Bổ sung nội dung “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, rèn luyện kỹ năng sống cho HS vào chương trình chính
khóa hay ngoại khóa để nâng cao hiệu quả giáo GDĐĐ cho HS. Đặc biệt là coi
trọng việc dạy môn GDCD ở trường phổ thông
- Đối với Phòng GD-ĐT: Cần chỉ đạo các trường phổ thông cụ thể hóa kế
hoạch GDĐĐ từng năm học. Hàng năm tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề về

GDĐĐ để các trường học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau;
- Đối với địa phương: Chính quyền và các tổ chức xã hội ở địa phương cần
phối kết hợp và hỗ trợ nhà trường về điều kiện vật chất, phối hợp tốt với nhà
trường trong công tác tạo môi trường lành mạnh, an toàn xung quanh trường học
để giúp công tác GDĐĐ cho HS đạt hiệu quả tốt nhất;
4


Phần 2
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Cơ sở khoa học của sáng kiến
1.1. Đạo đức và chức năng của đạo đức
1.1.1.Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ
người và người và con người với tự nhiên.
1.1.2.Chức năng đạo đức
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, đạo đức
một mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội ; mặt khác nó cũng tác
động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, đạo đức
có chức năng to lớn , tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kềm hãm phát triển
xã hội. Đạo đức có những chức năng sau:
- Chức năng giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công
cụ tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
- Chức năng phản ánh.
1.2. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS
1.2.1.Những nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo dục đạo

đức nói chung và giảng dạy các môn giáo dục nói riêng trong nhà trường phải
thực hiện các nhiệm vụ sau:
Hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải
phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức
các chuẩn mực đạo đức được quy định.
Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để
đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện.

5


Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm
chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức.
Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của
mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này.
Giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực thể hiện sự tôn trọng và quý trọng
lẫn nhau của con người.
1.2.2. Các phương pháp giáo dục đạo đức ở trường THCS
1.2.2.1.Phương pháp thuyết phục
Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây
dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục
công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt
dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện,
kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói
chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
- Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động
viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn
những mặt chưa tốt.

1.2.2.2.Phương pháp rèn luyện
Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện
cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm
đạo đức của các em thành hành động thực tế:
- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà
trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập
thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường
là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích
thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành

6


người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và
động viên học sinh tham gia tốt phong trào này.
- Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ
hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính
ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu
nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo
trẻ ra ngoài những tác động có hại.
1.2.2.2.Phương pháp thúc đẩy
Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo
đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên
trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
- Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với
học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân
theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
- Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học
sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến

khích các em khác noi theo.
- Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động
có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để
răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó
và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm
dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai
lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động
viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc
nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình
xúc phạm đến thân thể học sinh.
1.3. Thực trạng công tác quản lý giáo dục đạo đức học sinh trong
trường THCS hiện nay.
1.3.1. Thực trạng chung

7


Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế
giới, mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những
bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục
đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo. Trong nhà trường, các tổ chức
Đoàn thể đã có nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo
đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những
thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo như: Số học sinh học giỏi, chăm
ngoan vẫn nhiều … đã góp phần tạo nên những thành quả quan trọng trong
thực hiện mục tiêu của ngành :”Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi
dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan:
- Về gia đình: Có gia đình do cha mẹ sống không gương mẫu, cha mẹ
ly hôn; hay buông lỏng giáo dục, phó mặc cho xã hội, cho nhà trường “trăm

sự nhờ thầy” …
- Về nhà trường: Có lúc, có nơi uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị
truyền thống “Tôn sư trọng đạo“ bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất
hóa, thực dụng; có trường hợp người thầy không giữ được tư thế đáng kính
trọng trong quan hệ thầy trò; tình trạng vi phạm dạy thêm, học thêm đã tác
động xấu đến uy tín của người thầy trong suy nghĩ học sinh và không ít phụ
huynh.
- Về xã hội: Những hạn chế, tác động xấu từ môi trường của thời kỳ
“mở cửa, hội nhập”, những “tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai”; mặt trái của cơ
chế thị trường …có cơ hội xâm nhập. Đây đó, còn có những hiện tượng suy
thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng,
thậm chí những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động xấu trực
tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có nơi, có lúc đã xâm nhập vào trong
trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội thậm chí
đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, … số này tuy không phổ biến nhưng
có xu hướng gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách; gây nỗi đau,
8


đáng lo ngaị cho các bậc cha, mẹ; đã tác động xấu tới các gía trị đạo đức
truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ trực tiếp đến công tác GDĐĐ học sinh,
đến an ninh trật tự xã hội.
- Các thế lực phản động: Đang tìm mọi cách chống phá cách mạng
XHCN ở Việt Nam. Với âm mưu “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng “Tự do, dân
chủ, dân quyền, dân tộc, tôn giáo,...” để kích động gây rối trật tự, an ninh xã
hội, lối kéo đặc biệt là thanh niên, học sinh, …Vì vậy, chúng ta cần phải tích
cực giáo dục cho học sinh nhận thức được âm mưu thâm độc của kẻ thù, đồng
thời nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; tăng cường công tác giáo dục
chính trị tư tưởng nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng cho học sinh, cho thế
hệ trẻ; là vấn đề cấp thiết, đặc biệt chú trọng trong giai đoạn hiện nay.

1.3.2.Thực trạng của nhà trường nơi tôi công tác
Phần lớn HS ở trường nơi tôi công tác đều chăm ngoan, có ý thức rèn
luyện đạo đức tốt, HS xếp loại đạo đức loại tốt, khá chiếm tỷ lệ khá cao và
tăng lên các năm nhất là HS có hạnh kiểm tốt. Xếp loại hạnh kiểm của HS
loại trung bình chiếm một tỷ lệ thấp theo thứ tự các năm, đặc biệt là trong 03
năm trở lại đây tỷ lệ học sinh hạnh kiểm yếu giảm rõ rệt. Nhưng nếu nhà
trường chủ quan, không có những biện pháp quản lý GDĐĐ cho HS một cách
phù hợp thì tỷ lệ HS vi phạm chuẩn đạo đức có thể tăng lên.
Trong ba năm qua sau khi khảo sát những vi phạm của HS ở trường
nơi tôi công tác, tôi liệt kê ra biểu hiện vi phạm đạo đức của HS như sau :
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Nội dung vi phạm
Nói chuyện riêng, gây mất trật trong lớp học
Nghỉ học không phép, đi học muộn,..
Lười học, không thuộc bài
Xích mích, gây gỗ, đánh nhau.
Mê chơi game, trò chơi điện tử, facebook…..
Gian lận trong kiểm tra, thi cử
Nói tục, chửi thề,…

Nhuộm tóc, không mặc đồng phục
Làm hư hao tài sản nhà trường
Hút thuốc, uống rượu,…
9


11 Xem thường, vô lễ với người lớn
12 Xả rác nơi công cộng
13 Vi phạm an toàn giao thông
Qua kết quả, cho thấy những biểu hiện vi phạm của HS thường là nói
chuyện riêng, đùa giỡn, gây mất trật tự trong lớp học; nghỉ học không xin
phép, đi muộn và trốn tiết; thiếu ý thức trong học tập, gây gỗ đánh nhau trong
lớp và ngoài lớp; gây mất vệ sinh hay xả rác nơi công cộng, vi phạm các qui
định về nề nếp; mê chơi các trò chơi điện tử như: game, chat, facebook…...
Ngoài ra còn có những biểu hiện vi phạm khác, mặc dù tỷ lệ HS vi
phạm ít nhưng mang tính chất rất nghiêm trọng như xem thường và vô lễ với
GV, tình trạng HS uống rượu,bia, hút thuốc, quan hệ không đúng mực, phá
hoại tài sản và làm hư hỏng bàn ghế, vi phạm an toàn giao thông đường bộ…
1.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo
đức của học sinh.
Sau khi lấy ý kiến một số giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh và cán
bộ lớp trong trường, thì kết quả nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm chuẩn
mực đạo đức của học sinh như sau:
TT
Nội dung trả lời
1
Do quản lý nhà trường chưa tốt
2
Do GV chưa gương mẫu
3

Do CMHS chưa gương mẫu
4
Do tác động tiêu cực của xã hội
5
Do HS học yếu kém
6
Do cách GD chưa phù hợp (nặng dạy chữ, nhẹ dạy người).
Qua khảo sát cho ta thấy: Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến đạo đức
học sinh trường bị sa sút do sự tác động nhiều mặt ở trong và ngoài nhà
trường như:
Trên địa bàn các xã lân cận huyện có nhiều nhà máy, công ty được hình
thành kéo theo nhiều người dân ở tỉnh ngoài đến sinh sống và làm việc. Một
số dịch vụ văn hóa thiếu lành mạnh (những tụ điểm cà phê không lành mạnh,
phim ảnh, dịch vụ Internet, bi da, quán nhậu…), đây là nguyên nhân quan
trọng dẫn đến tình trạng HS trốn học, bỏ tiết, gây gỗ đánh nhau, vi phạm pháp
luật. Ngoài ra, do HS mất kiến thức căn bản nên vào lớp thường không chú ý
10


nghe giảng, tâm lý chán học, nên nói chuyện riêng không chép bài, không
chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp.
Một số số GV chưa là tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Hiện tượng
giáo viên còn trễ tiết dạy; chưa gương mẫu trong tác phong và lời ăn, tiếng
nói; còn có giáo viên chưa chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh;
việc cho điểm thiếu công bằng giữa HS học thêm và không học thêm vẫn còn
tồn tại.
Một số CMHS thật sự chưa gương mẫu cho con em, một số CMHS do
suốt ngày vất vả làm ăn, gia đình không hòa thuận, ly dị, không quan tâm con
cái chính những điều này đã góp phần vào sự sa sút đạo đức của các em trong
những hoàn cảnh như thế. Bên cạnh đó có nhiều ý kiến cho rằng sự quá tải

của chương trình học, sự nặng nề về lý thuyết đã làm cho nhà trường, GV và
HS quá mệt mỏi. Thời gian sinh hoạt vui chơi, giải trí lành mạnh, những tiết
học về rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng thích ứng còn quá ít, những yếu tố
này cũng phần nào hạn chế hiệu quả của công tác GDĐĐ cho HS hiện nay.
2. Một số biện pháp đổi mới trong công tác quản lý nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
2.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ CBGV,
HS, CMHS và chính quyền địa phương.
* Mục tiêu của giải pháp:
Giúp đội ngũ CBGV, CMHS và chính quyền địa phương nhìn nhận
được một cách sâu sắc về tầm quan trọng và sự cấp thiết của công tác GDĐĐ
cho HS trong nhà trường. Qua đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực
tham gia các hoạt động nhằm góp phần nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS
nói riêng và chất lượng GD toàn diện của nhà trường nói chung. Giúp HS
nhận thức, củng cố và phát huy khả năng tự ý thức, tự GD, tích cực vươn lên
trong học tập và rèn luyện đạo đức.
* Cách thực hiện giải pháp:
- Đối với cán bộ quản lý:

11


+ Hàng năm nhà trường tổ chức học tập và quán triệt các văn bản cấp
trên về công tác GDĐĐ cho HS trong hội đồng nhà trường, toàn thể HS và
các lực lượng ngoài nhà trường một cách đầy đủ, kịp thời. Thường xuyên
nhắc nhở, đôn đốc mọi người trong cùng thực hiện một cách có hiệu quả.
+ Nhà trường đã có kế hoạch tổ chức tốt các buổi hội thảo, hội nghị,
cuộc họp bàn về công tác GDĐĐ cho HS. Thành phần tham dự gồm toàn thể
CBGV, Ban đại diện CMHS, chính quyền và ban ngành đoàn thể địa phương
cùng tham dự. Thời gian tổ chức mỗi học kỳ thường là 3 lần: đầu năm học,

cuối Học kỳ I, cuối học kỳ II. Cuối mỗi cuộc họp Hiệu trưởng cần có thống
nhất về nội dung, đề ra được những hình thức và giải pháp thực hiện thích
hợp để GD và quản lý công tác GDĐĐ cho HS. Hiệu trưởng cần chuẩn bị chu
đáo kế hoạch thực hiện như: thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức và biện
pháp thực hiện. Một số trong những nội dung cuộc họp có thể là: phân công
GVCN báo cáo tham luận về thực trạng tình hình vi phạm đạo đức của HS
và những biện pháp đã sử dụng để GDĐĐ cho HS. Phân công GV báo cáo
tham luận về những kinh nghiệm hay trong công tác GDĐĐ cho HS. Nêu hệ
thống câu hỏi gợi ý để các thành viên trong cuộc họp hay hội thảo có ý kiến,
bồi dưỡng thêm một số kiến thức cho CMHS trong công tác GD con của họ,
những kinh nghiệm hay của đơn vị bạn, ý kiến phát biểu của đại biểu tham
dự...
+ Vào đầu năm học Hiệu trưởng cần tổ chức tốt hội nghị để xác định
việc GDĐĐ và quản lý công tác GDĐĐ cho HS là trách nhiệm của toàn
trường. Đồng thời Hiệu trưởng kết hợp với Công đoàn cơ sở tổ chức tốt các
cuộc vận động phong trào thi đua trong suốt năm học như : “Mỗi thầy cô giáo
là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”; cuộc vận động “Hai không”; cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”… để thực hiện GD toàn diện và
nâng cao chất lượng GD của nhà trường.

12


+ Chỉ đạo thực hiện đầy đủ về chương trình giáo dục hướng nghiệp,
chương trình rèn luyện kỹ năng sống …để HS có thể định hướng nghề nghiệp
của mình và chọn nghề thích hợp sau khi học xong chương trình THCS.
+ Có kế hoạch phối hợp với phòng Tư pháp, Công an, Huyện Đoàn,
Hội Cựu Chiến binh… tổ chức tốt các buổi nói chuyện chuyên đề hay tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, an toàn giao thông, phòng chống tệ

nạn xã hội, giáo dục truyền thống tốt đẹp của địa phương… cho HS.
- Đối với Đoàn TN:
Đoàn TN phải nắm rõ mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước,
nhà trường, các kế hoạch hoạt động của Huyện đoàn để có kế hoạch hoạt
động xuyên suốt trong năm học với nhiều nội dung và hình thức sinh hoạt tập
thể phong phú, đa dạng, thiết thực và hấp dẫn nhằm GDĐĐ cho HS có hiệu
quả.
- Đối với giáo viên bộ môn:
Nhiệm vụ quan trọng của GVBM là nâng cao ý thức trách nhiệm
GDĐĐ cho HS thông qua bài giảng trên lớp và sự gương mẫu trong lối sống,
tư cách, lời nói, việc làm, sự mẫu mực trong ứng xử, giao tiếp trong cuộc
sống của GV.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Là người trực tiếp GDĐĐ cho HS, có vai trò rất lớn đến chất lượng
GDĐĐ cho HS. Vì vậy, GVCN phải có nhận thức đúng đắn mục tiêu GD,
nắm vững các nội dung yêu cầu của các kế hoạch, chỉ thị, chiến lược phát
triển GD với tinh thần trách nhiệm cao, vận dụng tốt các phương pháp GDĐĐ
cho HS, hết lòng chăm lo GD cho thế hệ trẻ và tất cả vì HS thân yêu.
- Đối với học sinh:
+ Nhà trường phải coi trọng GD chính trị tư tưởng và tuyên truyền phổ
biến pháp luật cho HS là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong nhà
trường. Cụ thể: cần trang bị cho HS những hiểu biết về chuẩn mực đạo đức
mà xã hội yêu cầu cũng như nhận thức được những giá trị về đạo đức; những
quan điểm về đạo đức, vị trí, vai trò, chức năng của đạo đức trong đời sống
13


thường ngày, phương pháp rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, ý thức chấp hành
nội quy trong nhà trường, thực hiện chính sách pháp luật nhà nước, nhiệm vụ
của HS theo Điều lệ trường Trung học, Luật GD…

+ Tổ chức nhiều chuyên đề ngoại khóa như: tuyên truyền về những tác
hại, hậu quả và cách phòng tránh các tệ nạn xã hội; phòng chống thảm họa và
bảo vệ môi trường; bồi dưỡng những kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi THPT, GD về giới tính, GD về bình đẳng giới, GD về kỹ năng sống và
ứng xử trong cuộc sống.
+ GVCN cần quán triệt một cách sâu sắc cho HS hiểu giữa đạo đức và
tài năng là hai vấn đề cần thiết phải có, bởi theo Bác Hồ: “Có tài mà không có
đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Từ
đó giúp HS thấy được nhiệm vụ không chỉ vươn lên trong học tập mà còn
phải biết tự rèn luyện hạnh kiểm cho thật tốt thì sau này mới trở thành con
người toàn diện. Tất cả việc GD này phải được thực hiện một cách thường
xuyên và lâu dài trong các buổi sinh hoạt chào cờ đầu tuần; trong các tiết sinh
hoạt chủ nhiệm; trong giảng dạy môn GDCD và các môn văn hóa khác; trong
các tiết GDNGLL, các buổi thực hành rèn luyện kỹ năng sống; trong các buổi
sinh hoạt truyền thống nhân các ngày lễ lớn, trong các cuộc trao đổi, nói
chuyện với HS, trong các chương trình phát thanh học đường của nhà trường.
- Đối với cha mẹ học sinh:
Vào đầu năm học, nhà trường có kế hoạch tổ chức họp CMHS. Nội
dung, ngoài việc bình bầu Ban đại diện của trường, của lớp, triển khai những
văn bản của cấp trên về công tác giáo dục, kết quả chất lượng GD, những
thuận lợi và khó khăn trong công tác phối hợp để GDĐĐ trong năm học vừa
qua, nhằm tác động đến CMHS hiểu công tác GDĐĐ là công tác của toàn xã
hội, trong đó có vai trò của gia đình rất lớn. HT tham mưu và phối hợp với
chính quyền địa phương tùy vào thời điểm thích hợp mời những CMHS
không chịu phối hợp với nhà trường trong công tác GDĐĐ cho HS. Ngoài ra
Hiệu trưởng cần triển khai những văn bản có liên quan đến công tác GDĐĐ
cho HS và cung cấp thêm một số kiến thức về những vấn đề tâm lý để GD
14



con em như: không nên nuông chìu con quá mức, không nên bao che và dung
túng những việc làm sai trái của HS, GD con em bằng tình thương và trách
nhiệm không được phạt nặng, hay quá nghiêm khắc làm cho trẻ phải nói dối
có thể sẽ sinh ra tai họa khác. Về lâu dài là trẻ sẽ thiếu tự tin, vì thế đối với
gia đình việc GD con em nghiêm minh thì được chứ không nên nghiêm khắc,
không được để trẻ mất niềm tin, không nên xao lãng việc theo dõi và GD con
em…. Phải làm sao cho CMHS hiểu được rằng: công tác GDĐĐ cho HS của
nhà trường nhằm giúp HS trở thành những con người phát triển toàn diện có
phẩm chất đạo đức, có kiến thức phổ thông cơ bản, có kỹ năng bước đầu vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc
sống, bản thân và cộng đồng. Việc cho con học nên người, ngoài việc mang
lại lợi ích cho bản thân các em, cho gia đình mà còn mang lại lợi ích cho xã
hội. CMHS cũng cần hiểu gia đình là tổ ấm của các em, là trường học đầu đời
của em. Trẻ em từ tờ giấy trắng, nếu chúng được nuôi dưỡng trong một môi
trường GD tốt, được sự quan tâm chăm sóc của ba mẹ và nhà trường thì cái
tốt sẽ được phát huy. Ngược lại, nếu thiếu đi sự quan tâm chăm sóc dạy bảo,
uốn nắn, không có sự phối hợp tốt giữa cha mẹ và nhà trường trong việc GD
nhân cách, đạo đức tất yếu các em sẽ rất dễ lạc lối và dẫn đến sa ngã.
- Đối với chính quyền địa phương:
Hiệu trưởng có ý kiến đề xuất với UBND xã , các đoàn thể địa phương
cần có sự phối hợp tốt với nhà trường trong công tác GDĐĐ cho HS thông
qua kế hoạch tháng, học kỳ và năm học. Chính quyền địa phương cần tạo điều
để phối hợp tốt với nhà trường tiếp xúc với CMHS khi cần thiết.
2.2. Công tác kế hoạch hóa quản lý công tác GDĐĐ cho HS của
Hiệu trưởng.
* Mục tiêu của giải pháp:
Mục tiêu của giải pháp này là hướng đến xây dựng kế hoạch chung và
kế hoạch riêng của nhà trường. Kế hoạch chung là nhằm GD toàn diện cho
HS, kế hoạch riêng là GDĐĐ cho HS. Kế hoạch đảm bảo tính thống nhất giữa
mục tiêu GDĐĐ với mục tiêu GD trong nhà trường. Kế hoạch phải có tính

15


khả thi và tính hiệu quả cao. Kế hoạch được triển khai đồng bộ trong các hoạt
động của nhà trường. Huy động được các lực lượng trong và ngoài nhà
trường cùng nhau phối hợp thực hiện. Làm sao cho số lượng HS vi phạm đạo
đức giảm, từng bước mang lại hiệu quả quản lý công tác GDĐĐ cho HS.
Muốn đạt hiệu quả cao trong việc quản lý GDĐĐ cho HS, Hiệu trưởng phải
lập kế hoạch riêng cho công tác này. Kế hoạch phải dựa trên cơ sở nội dung
GDĐĐ trong chương trình GDCD, chương trình hướng nghiệp, GDNGLL,
rèn luyện kỹ năng sống cho HS. Hiệu trưởng phải có cái nhìn toàn diện, sâu
sắc, những vấn đề thuộc công tác GDDĐ để lập kế hoạch có sát hợp với thực
tiển và có tính khả thi.
* Cách thực hiện giải pháp:
- Đầu mỗi năm học, Hiêu trưởng cần đưa ra một kế hoạch GDĐĐ
chung cho toàn trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu giáo dục và mang tính
khả thi. Bản kế hoạch phải được đưa ra bàn bạc, thảo luận và lấy ý kiến của
toàn thể Hội đồng giáo dục và cả CMHS trước khi đua vào thực hiện. Có kế
hoạch bồi dưỡng kiến thức về công tác GDĐĐ cho đội ngũ CB-GV là điều vô
cùng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS. Hiêu trưởng
có thể tổ chức những chuyên đề, hội thảo về công tác GDĐĐ cho HS bằng
cách mời các báo cáo viên nói chuyện về cách quản lý HS, những đặc điểm
tâm lý HS THCS và một số vấn đề khác liên quan đến HS. Có kế hoạch tổ
chức kiểm tra, đánh giá công tác GDĐĐ của các lực lượng trong nhà trường
và của HS theo nội dung đã định sẵn, bổ sung và điều chỉnh kế hoạch cho phù
hợp với tình hình thực tế. Sơ, tổng kết và tuyên dương khen thưởng, rút kinh
nghiệm trong công tác GDĐĐ cho HS vào mỗi tuần, học kỳ và cuối năm.
Chuẩn bị kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác GDĐĐ cho HS như: thư mời
CMHS đến họp, bảng tin thông báo kế hoạch, bảng tin thi đua, trang bị phòng
máy để ứng dụng công nghệ thông tin trong việc GDĐĐ và quản lý công tác

GDĐĐ cho HS và kinh phí khen thưởng những cá nhân và tập thể lớp có
nhiều đóng góp trong công tác GDĐĐ cho HS. Có kế hoạch tổ chức tham
quan và học tập kinh nghiệm những đơn vị có thành tích và sáng kiến hay
16


trong việc GDĐĐ cho HS ở trong và ngoài huyện. Sau khi kế hoạch đã lập
xong cần thông qua Hội đồng sư phạm của nhà trường để thảo luận và trao
đổi một cách dân chủ về nội dung và hình thức thực hiện, chú ý nhất là biện
pháp thực hiện nhằm tạo sự nhất trí và đồng thuận trong quá trình thực hiện
kế hoạch. Đối với các tổ chức ngoài nhà trường, HT cần thống nhất kế hoạch
hoạt động của nhà trường, thông báo chương trình hành động đến từng bộ
phận có liên quan như: Ủy ban nhân dân xã, Công an xã, Ban đại diện CMHS,
Hội Khuyến học…
- Trên cơ sở của kế hoạch, Hiệu trưởng yêu cầu các bộ phận trong nhà
trường lập kế hoạch đạo đức cho từng bộ phận, từng cá nhân một cách chu
đáo, khoa học khả thi và sau đó trình cho Hiệu trưởng duyệt. Căn cứ vào kế
hoạch năm, các bộ phận, các cá nhân lập kế hoạch tháng, kế hoạch tuần một
cách thường xuyên. Hiệu trưởng phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nhắc
nhở việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ của các bộ phận liên quan. Lãnh đạo
trường trực tiếp kết hợp với Công đoàn, Đoàn TN, GV họp bàn bạc thống
nhất phối hợp tổ chức triển khai kế hoạch. Đặc biệt phát huy vai trò của Đoàn
TN trong việc GDĐĐ thông qua các hình thức sinh hoạt tập thể trong nhà
trường.
- Kế hoạch công tác GDĐĐ cho HS bao gồm những nội dung và hình
thức phải cụ thể cho từng tuần, từng tháng, cho toàn năm học với những chủ
đề khác nhau và phù hợp với đặc thù lứa tuổi HS.
Trong mỗi năm học dựa vào các văn bản pháp qui như Luật GD, Điều
lệ trường trung học, nhiệm vụ năm học của Bộ, Sở GD - ĐT, căn cứ vào tình
hình địa phương và đặc thù của trường. Hiệu trưởng sau khi thống nhất với

tập thể sư phạm nhà trường soạn thảo chuẩn thi đua nề nếp đối với các lớp và
bản nội qui đối HS, cho in thành văn bản và giao về cho GVCN các lớp triển
khai cho từng HS nắm rõ và thực hiện cho nghiêm túc. Nhà trường cho từng
HS viết bản cam kết không tham gia vào các tệ nạn xã hội, nhất là không vi
phạm việc phòng chống ma túy, không vi phạm các qui định về an toàn giao
thông. Hiệu trưởng phải nhận thức rằng mỗi buổi tập trung đầu tuần chính là
17


buổi học đạo đức, đây là một tiết học hiệu quả và sinh động về cách sống đẹp
và cách làm người tốt cho các em. Nội dung GDĐĐ thông qua các môn học là
một trong những biện pháp cần được áp dụng triệt để, nhất là môn GDCD.
Hiệu trưởng chỉ đạo giải quyết việc GDĐĐ thông qua hoạt động giảng dạy
các môn học và thực hiện trong quá trình học tại nhà trường.
2.3. Tổ chức, chỉ đạo quản lý công tác GDĐĐ cho HS
* Mục tiêu của giải pháp:
Xác định đúng lực lượng chủ yếu tham gia công tác GDĐĐ cho HS.
Đảm bảo thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của các lực
lượng tham gia GDĐĐ. Phát hiện, điều chỉnh, bổ sung nội dung kế hoạch cho
phù hợp với tình hình thực tế.
* Cách thực hiện giải pháp:
Tổ chức, chỉ đạo quản lý công tác GDĐĐ cho HS, đây là quá trình
phân phối và sắp xếp nguồn nhân lực theo những cách thức nhất định để đảm
bảo việc thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra. Trong việc chỉ đạo thực hiện kế
hoạch cần quán triệt thực hiện tốt hiệu quả GDĐĐ, do đó đối với giải pháp
này:
Nhà trường đã thành lập Ban GDĐĐ cho HS của trường, thành phần
gồm: Trưởng ban (Hiệu trưởng), các thành viên gồm: Bí thư và Phó bí thư
Đoàn TN, Ban đại diện CMHS, và một số GV nhiệt tình và có kinh nghiệm
trong công tác. Ban GDĐĐ cho HS có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, chương

trình, tổ chức các hoạt động và phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà
trường để GDĐĐ cho HS. HT cần xây dựng quy chế phân công trách nhiệm
và quyền hạn của từng thành viên trong Ban GDĐĐ của nhà trường. Hiệu
trưởng yêu cầu các thành viên cần cụ thể hóa kế hoạch công tác GDĐĐ cho
HS từ kế hoạch chung của Hiệu trưởng. Khi lập kế hoạch cũng cần chú ý, tùy
theo tình hình thực tế vị trí công tác của mình mà có kế hoạch GDĐĐ cho HS
một cách phù hợp theo từng tuần, tháng, học kỳ và năm học.
Ngoài ra, Hiệu trưởng cần xác định lực lượng chủ yếu tham gia công
tác GDĐĐ cho HS trong nhà trường là GVCN, GVBM, thầy cô quản sinh,
18


Ban chấp hành Đoàn TN. Lực lượng này giữ vai trò nòng cốt và mang tính
quyết định sự thành bại của công tác GDĐĐ cho HS. Hiệu trưởng cần phát
huy ý thức, trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận để thực
hiện một cách đồng bộ kế hoạch GDĐĐ cho HS. Đồng thời thông qua bộ
phận này, Hiệu trưởng sẽ quản lý chặt chẽ, thường xuyên nắm bắt kịp thời
những thông tin của quá trình thực hiện để có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung
kịp thời những nội dung, hình thức, biện pháp chưa phù hợp để góp phần thực
hiện thành công việc GDĐĐ cho HS. Hàng tuần, Hiệu trưởng cần tổ chức họp
chủ nhiệm, để nắm bắt tình hình thực hiện công tác GDĐĐ cho HS của từng
lớp, có ghi nhận diễn biến quá trình GDĐĐ cho HS các khối lớp đặc biệt là
chú ý những HS chưa ngoan để đề xuất những giải pháp GD cho HS một cách
thích hợp nhằm đạt kết quả như mong muốn. Song song với việc làm này,
Hiệu trưởng cần quy định thời gian cho các bộ phận báo cáo định kỳ về công
tác GDĐĐ cho HS theo từng tuần, tháng, học kỳ và năm học. Nội dung báo
cáo nêu quá trình thực hiện, những thuận lợi và khó khăn, kết quả đã đạt
được, tồn tại những vấn đề gì, phương hướng thực hiện, ý kiến đề xuất,..
Hiệu trưởng chỉ đạo các bộ phận trong nhà trường quan tâm nhiều đến HS
nghèo, HS có hoàn cảnh khó khăn, học sinh có nguy cơ bỏ học, HS chưa

ngoan…có biện pháp giúp đỡ khi các em gặp khó khăn trong học tập, trong
sinh hoạt gia đình. Hiệu trưởng tham mưu với Chi bộ nhà trường, chỉ đạo các
đảng viên, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tham gia tích cực công tác
GDĐĐ cho HS.
* Đối với giáo viên bộ môn:
Hiệu trưởng luôn lưu ý GVBM, ngoài việc truyền thụ kiến thức văn
hóa cho HS trên lớp còn phải biết thông qua những tiết học, bằng phương
pháp lồng ghép hay tích hợp còn có thể GDĐĐ cho HS những điều hay lẽ
phải, biết từ xa cái xấu, hướng về cái thiện, cái mỹ ( đặc biệt là GV dạy các
môn GDCD, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý). Ví dụ:
Môn GDCD: thông qua những tiết học, GV sẽ giáo dục cho HS nắm
được những nội dung về pháp luật của Nhà nước để các em thực hiện cho tốt,
19


hay các em phải biết được những nhân cách nào cần có của người công dân
trong giai đoạn mới..
Môn Ngữ văn: thông qua những câu chuyện, những nhân vật trong bài
giảng, GV phân tích cho HS phải sống, phải làm như thế nào để mọi người
luôn yêu mến, khâm phục…
Môn Lịch sử: thông qua những bài học lịch sử, GV có thể giáo dục cho
HS cảm nhận được những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta và của những
Anh hùng, Liệt sỹ để từ đó HS thấy được trách nhiệm của mình là phải biết
phát huy những truyền thống đó.
Môn Địa lý: thông qua những tiết học GV có thể giáo dục cho HS phải
biết bảo vệ môi trường, phải biết bảo quản cây xanh, luôn hướng về biển đảo
thân yêu và từ đó thấy được trách nhiệm của mình…
Mặt khác GVBM phải luôn trau dồi năng lực chuyên môn “Mỗi thầy cô
là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, luôn có cái tâm trong giảng dạy,
luôn phục vụ hết mình “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Tích cực đổi mới

phương pháp giảng dạy có tác dụng lôi cuốn HS học tập tích cực và yêu thích
môn học hơn.
- Hiệu trưởng chỉ đạo GVBM quản lý chặt chẽ nề nếp học tập của HS
như tinh thần, thái độ học tập, HS vắng, trốn tiết và đồng thời có trách nhiệm
xử lý các tình huống vi phạm của học sinh xảy ra trong giờ dạy do GV đó phụ
trách. Mọi vấn đề xử lý hoặc chưa xử lý GVBM cần ghi rõ vào sổ đầu bài làm
cở sở phối hợp với GVCN, với hiệu trưởng để GDĐĐ cho HS. Hiệu trưởng
cũng cần chỉ đạo GVBM hỗ trợ GVCN, các đoàn thể trong nhà trường,
CMHS để GDĐĐ cho HS.
* Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên CN chính là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng nề nếp,
nội qui cũng như GDĐĐ cho HS. GVCN là người chịu trách nhiệm chính
thức trước hiệu trưởng về quá trình tổ chức giáo dục và kết quả GD của lớp
mình phụ trách. Có thể nói GVCN là cánh tay nối dài trong việc hỗ trợ cho
Hiệu trưởng trong việc GDĐĐ cho HS. Do đó nhiệm vụ của GVCN là:
20


- Thực hiện đầy đủ chương trình hoạt động GDNGLL với nội dung và
hình thức phong phú, sinh động, phù hợp với tâm sinh lý, hấp dẫn thu hút
được mọi đối tượng trong lớp tham gia nhằm GD tư tưởng đạo đức, phẩm
chất và nhân cách cho HS.
- Thường xuyên quan tâm đến đời sống của gia đình HS, nghiên cứu về
những vấn đề tâm sinh lý của lứa tuổi HS, quan hệ bạn bè, quan hệ người thân
để có biện pháp giúp đỡ khi các em gặp khó khăn. GVCN cũng cần phối hợp
tốt với GVBM, Đoàn TN, CMHS để nắm bắt những thông tin về HS trong
quá trình học các môn văn hóa, về mức độ tham gia hoạt động của Đoàn TN,
quá trình học tập và rèn luyện đạo đức ở nhà của HS. GVCN cũng có thể nắm
bắt những thông tin về quá trình học tập của HS thông qua bộ môn GVCN
giảng dạy. Nếu HS có những ý kiến đề xuất gì về GVBM hoặc với nhà trường

thì GVCN chính là chiếc cầu nối để thông tin đến những lực lượng này về
những vấn đề mà HS quan tâm để có cách giải quyết một cách thích hợp cho
HS hiểu hơn.
- Xây dựng tốt quy chế tự quản cho HS trong các hoạt động như: tổ
chức học nhóm, lao động, sinh hoạt tập thể, khi GV vắng không đến lớp, sinh
hoạt đầu giờ học, truy bài, hội thảo… Phối hợp tốt với tổ chức Đoàn TN tổ
chức tốt phong trào thi đua hàng tuần theo từng chủ điểm trong năm. Có sơ
kết hàng tuần theo từng đợt phong trào theo từng chủ điểm. Mỗi chủ điểm cần
có kế hoạch một cách cụ thể: xác định mục tiêu nào là trọng tâm, có thang
điểm cụ thể, quy chế đánh giá và xếp hạng rõ ràng theo từng tuần.
- Tùy theo tình hình hoạt động của lớp mà GVCN cần xây dựng quy
chế thi đua giữa các tổ trong lớp một cách cụ thể và chi tiết hơn. Qua việc tổ
chức thi đua của HS và sinh hoạt các chủ điểm trong năm học, GVCN cần
GD cho HS tinh thần tập thể “Mình vì mọi gười, mọi người vì mình”, GD
lòng yêu quê hương đất nước, nhớ ơn các vị anh hùng dân tộc, ý chí phấn đấu
vươn lên trong học tập, tham gia tích cực các phong trào, chấn chỉnh tác
phong, nề nếp sinh hoạt. Có kế hoạch từng bước xây dựng những truyền

21


thống tốt đẹp của lớp, các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó
được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen tốt trong quá trình thực hiện.
- Phối hợp với các lực lượng trong nhà trường có biện pháp giúp đỡ
những HS học yếu, kém, có biện pháp GD và xử lý đối với HS vi phạm đạo
đức nhiều lần một cách có hệ thống để vừa có tính GD nhưng lại vừa có tính
chất ngăn ngừa đối với những HS khác. Có như vậy, việc thực hiện những
quy định và nội quy nhà trường mới có tính chất nghiêm minh. Nếu công tác
thi đua này thực hiện được một cách thường xuyên, kết hợp với nội dung thi
đua của lớp sẽ góp phần rất lớn trong công tác GDĐĐ cho HS. Phối hợp tốt

với Ban đại diện CMHS của lớp và CMHS thông qua các cuộc họp CMHS
theo từng tháng điểm. Để cuộc họp đạt hiệu quả GVCN cần chuẩn bị kỹ về
nội dung chính cần thông tin đến CMHS theo từng thời điểm thích hợp.
Qua đây, cho thấy vai trò của GVCN trong công tác GDĐĐ cho HS là
rất quan trọng, vì thế Hiệu trưởng cần chọn những GV có năng lực, có phẩm
chất đạo đức tốt, biết cách phối hợp với CMHS và các bộ phận khác trong và
ngoài nhà trường, biết quan tâm đến những HS có hoàn cảnh đặc biệt, biết
cách tổ chức quản lý HS trong nhiều hoạt động khi làm công tác chủ nhiệm
các lớp.
* Đối với Đoàn Thanh niên:
Vai trò của Đoàn TN trong việc giúp Hiệu trưởng làm tốt công tác ổn
định nề nếp và GDĐĐ cho HS là rất lớn. Ngay từ đầu năm học Hiệu trưởng
phải tham mưu Đoàn TN đưa ra những nội qui cụ thể mà HS phải thực hiện:
đi đúng giờ, thực hiện đồng phục, thực hiện tốt các qui định, làm các bản cam
kết không vi phạm các qui định về an toàn giao thông; phòng, chống ma túy,
tệ nạn xã hội … Bên cạnh đó, Hiệu trưởng chỉ đạo Đoàn TN thực hiện các
nhiệm vụ:
- Củng cố hoạt động Đoàn TN xác định nội dung sinh hoạt phù hợp với
đối tượng và tình hình thực tế của nhà trường, địa phương. Phối hợp tốt với
GVCN tổ chức tốt phong trào thi đua theo những chủ điểm trong năm. Cụ thể,
hàng tuần GVCN trực tuần thi đua có nhiệm vụ lập báo cáo sơ kết thi đua, có
22


ý kiến nhận xét, đánh giá, xếp loại theo đúng nội dung thi đua đã đề ra. Khi
kết thúc phong trào thi đua, Bí thư Đoàn TN cần lập báo cáo tổng kết và có sổ
sách theo dõi quá trình thi đua của các khối lớp. Đồng thời, cập nhật thông tin
kết quả thi đua hàng tuần, danh sách HS được khen và phê bình lên trang
web của nhà trường.
- Phối hợp với GVCN tổ chức tốt các hoạt động như: hoạt động

GDNGLL; tổ chức cho HS cam kết thực hiện tốt về an toàn giao thông, phòng
chống ma túy; thực hiện nói không với tiêu cực trong thi cử; tổ chức tốt việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức rèn luyện đoàn
viên,thông qua các hoạt động tạo điều kiện cho Đoàn TN hoạt động qua đó
rèn luyện thói quen, hành vi ứng xử đạo đức cho HS.
- Có kế hoạch tổ chức nhiều chương trình có nội dung, hình thức, biện
pháp phong phú, đa dạng, phù hợp với lứa tuổi nhằm GDĐĐ cho HS được
thực hiện trong chương trình phát thanh học đường, chào cờ đầu tuần, cắm
trại, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao,... Qua đó, giúp HS nhận
thức được các hành động, hành vi đạo đức sai trái cần phê phán; đồng thời
giúp HS tự tìm ra cách để tránh vi phạm, biết yêu thương, tương thân, tương
ái và sống lành mạnh, không vi phạm nội qui nhà trường và qui định Nhà
nước.
- Việc GDĐĐ cho HS phải gắn liền với rèn luyện thói quen hành vi đạo
đức. Điều này, đòi hỏi Hiệu trưởng cần chỉ đạo cho cán bộ Đoàn phải có kế
hoạch hàng năm tổ chức cho HS tham gia các hoạt động xã hội như: chăm sóc
mộ nghĩa trang liệt sĩ, quét dọn các khu tưởng niệm, thăm hỏi các Bà mẹ Việt
Nam anh

hùng, những gia đình thương binh, liệt sĩ, vận động quỹ hỗ trợ

những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, dọn vệ sinh trong và ngoài nhà
trường, tổ chức tham quan các di tích lịch sử. Qua chuyến đi, Đoàn có kế
hoạch cho HS viết những bài cảm tưởng và suy nghĩ của các em về những
việc đã làm, hoặc suy nghĩ về những người có dịp được gặp gỡ. Từ việc làm
này, đã giáo dục được cho HS biết nhớ ơn những người đã hy sinh, những

23



người đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương, hải đảo cho các em được yên
vui, học hành như ngày hôm nay.
2.4. Xây dựng tập thể HS tự quản tốt
* Mục tiêu của giải pháp:
- Nhằm liên kết các em HS trong lớp, trong trường thành một tập thể
phát triển toàn diện, không vô cảm trước cái xấu. Xây dựng cho HS thói quen
làm chủ tập thể, làm chủ bản thân; biến quá trình giáo dục thành quá trình tự
GD, quá trình quản lý thành quá trình tự quản lý.
- Xây dựng được tập thể HS vững mạnh, tích cực học tập rèn luyện,
biết đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, chủ động, sáng tạo, có thể tự quản
được một số hoạt động của nhà trường đề ra. Xây dựng cho HS thói quen làm
chủ tập thể, làm chủ bản thân có kỹ năng ứng xử, kỹ năng thích ứng và kỹ
năng hòa nhập trong cuộc sống.
Mục tiêu trước mắt mà giải pháp này hướng đến là xây dựng được
những tập thể HS có ý thức tự quản tốt. HS tự giác thực hiện tốt nội qui nhà
trường, tích cực học tập và rèn luyện đạo đức, biết đoàn kết, thương yêu, giúp
đỡ nhau trong học tập và sinh hoạt. HS phải biết tự nhận xét và phê phán
những thói hư tật xấu, những lối sống tiêu cực, biết sống có trách nhiệm với
tập thể, bản thân, gia đình và xã hội.
* Cách thực hiện giải pháp:
Để thực hiện được mục tiêu và nội dung của giải pháp, đòi hỏi phải có
sự phối hợp tốt giữa GVCN, GVBM và tổ chức Đoàn TN trong nhà trường
một cách liên tục và lâu dài. Để thực hiện tốt công tác này Hiệu trưởng cần
tập trung chỉ đạo các nội dung sau:
- GVCN, GVBM và Đoàn TN giúp HS cần nâng cao năng lực tự quản
mà trước hết là thiết lập cán bộ lớp, cán sự bộ môn, cán bộ Đoàn ở lớp.
Hướng dẫn HS xây dựng kế hoạch cụ thể về nội dung, tiêu chuẩn của một tập
thể HS tự quản, thực hiện các loại hồ sơ, sổ sách để theo dõi các hoạt động
của lớp, biết lập báo cáo hàng tuần. Trên cơ sở đó nhằm giúp HS hiểu được
nhiệm vụ, trách nhiệm của mình trong tập thể, biết tự quản một số hoạt động

24


học tập, lao động, vui chơi, điều khiển hoạt động GDNGLL,.. biết tự điều
chỉnh hoạt động của tập thể lớp khi cần thiết để đạt được hiệu quả tốt trong
quá trình thực hiện.
- GVCN cần phối hợp với GVBM, cán bộ Đoàn TN giúp HS tổ chức
các hoạt động GDNGLL theo kế hoạch của trường, của lớp. Các hoạt động
GD phải kết hợp với các hoạt động vui chơi giải trí với nội dung và hình thức
phong phú, tạo một tâm lý thoải mái, thu hút mọi đối tượng trong lớp cùng
tham gia, đồng thời phải đảm bảo tính giáo dục về truyền thống yêu nước,
lòng nhân ái, có ý thức vươn lên trong học tập và rèn luyện đạo đức. Qua đó,
GVCN cũng có thể phát hiện những HS có hành vi sai trái như: thiếu tinh
thần tập thể, tính ích kỷ chỉ biết đến quyền lợi cá nhân, ý thức học tập kém,
lời nói-thái độ-hành động chưa chuẩn.. Đây là dịp để GVCN hiểu HS của
mình hơn, có cách đều chỉnh những hành vi sai lệch với từng đối tượng của
HS.
- Trong quá trình giao nhiệm vụ cho HS, GVCN, GVBM và tổ chức
cán bộ lớp, cán bộ Đoàn chỉ đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn, gợi mở cho HS,
phải để cho HS tự vạch ra kế hoạch, tự tổ chức về hoạt động nào đó, mặc dù
bước đầu có thể là không thành công. Tuy nhiên, trong mỗi lần không thành
công đó GVCN, GVBM và tổ chức Đoàn TN hướng dẫn HS nguyên nhân nào
không thành công, để HS tự đánh giá được những gì đã làm được, những gì
chưa làm được và cần bồi dưỡng về năng lực gì chẳn hạn như: năng lực chỉ
huy; điều hành lớp nhằm thu hút, lôi cuốn tập thể lớp tham gia một cách tích
cực và chủ động vào các hoạt động của lớp.
- Nhà trường kết hợp với Đoàn TN, Huyện Đoàn mở các lớp bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng tự quản cho cán bộ lớp với các nội dung: phương pháp
theo dõi, tự đánh giá, tự phê bình góp ý cho tập thể lớp và cá nhân HS, tiêu
chuẩn đánh giá lớp, cách làm các loại sổ sách, các loại biểu mẫu báo cáo, cách

thức tổ chức cuộc họp lớp, đại hội lớp, tổ chức hội thảo. Bên cạnh đó GVCN
tổ chức cho HS rèn ý thức tự GD bằng sổ tay cá nhân. Cùng với việc thực
hiện và phát huy tác dụng của sổ liên lạc, sổ nhật ký lớp, sổ đầu bài, sổ ghi
25


×