Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Tuân thủ điều trị tăng huyết áp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 87 trang )

MỤC LỤC
TÓM TẮT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................................. 4
1.

Giới thiệu về tăng huyết áp ........................................................................................ 4

2.

Điều trị và tuân thủ điều trị tăng huy……………………………………………...10

3.

Các nghiên cứu về tuân thủ điều trị tăng huyết áp……………………...................15

4.

Dự án phòng chống tăng huyết áp tại Việt Nam......................................................21

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………….……………...24
1.

Đối tượng nghiên cứu .…………………..…………….…………………...…… 24

2.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu …..……………………..……………………. 24

3.



Thiết kế nghiên cứu ……………….…………………………………….………. 24

4.

Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu………………………………………………25

5.

Phương pháp thu thập số liệu .................................................................................. 26

6.

Phương pháp phân tích số liệu ................................................................................. 27

7.

Các biến số nghiên cứu ............................................................................................ 28

8.

Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu ....................................................................... 38

9.

Hạn chế, sai số của nghiên cứu và biện pháp khắc phục ......................................... 38

Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 41
1.


Các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu ................................................................. 41

2.

Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp ............................................................... 47


3.

Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị tăng huyết áp......................................... 51

4.

Huyết áp mục tiêu .................................................................................................... 54

Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN ................................................................................... 56
Chương 5: DỰ KIẾN KẾT LUẬN .................................................................................... 57
Chương 6: KHUYẾN NGHỊ.............................................................................................. 57
Kế hoạch nghiên cứu ......................................................................................................... 58
Bảng dự trù kinh phí thực hiện nghiên cứu ....................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 61
Phụ lục 1 Quy trình đo huyết áp đúng ............................................................................... 65
Phụ lục 2 Phiếu phỏng vấn đối tượng nghiên cứu ............................................................. 67
Phụ lục 3 Hướng dẫn điều tra viên điền phiếu phỏng vấn ................................................. 80
Phụ lục 4 Danh mục một số loại thực phẩm có hàm lượng muối Natri cao ...................... 82
Phụ lục 5 Hàm lượng cholesterol trong một số thực phẩm ............................................... 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BN

Bệnh nhân

CBYT

Cán bộ y tế

ĐTĐ
ĐTNC
ĐTV
HA
HAMT
THA

Đái tháo đường
Đối tượng nghiên cứu
Điều tra viên
Huyết áp
Huyết áp mục tiêu
Tăng huyết áp

TTĐT

Tuân thủ điều trị

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới



TÓM TẮT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Tăng huyết áp (THA) là bệnh mạn tính phổ biến nhất trên thế giới. THA không chỉ
ảnh hưởng đến gánh nặng bệnh lý tim mạch mà còn ảnh hưởng nhiều đến gánh nặng bệnh
tật toàn cầu. THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của đất
nước. Khoa học kỹ thuật phát triển, các phương pháp điều trị đổi mới liên tục và ngày
càng hoàn thiện, nên hiện nay việc điều trị tăng huyết áp có nhiều tiến bộ nhưng tỷ lệ điều
trị và tuân thủ điều trị còn thấp và thấp nhất là tại các nước đang phát triển. Hầu hết các
nghiên cứu về tuân thủ điều trị THA thường mới chỉ tập trung vào tuân thủ chế độ dùng
thuốc, trong khi việc điều trị THA đòi hỏi BN phải tuân thủ 6 khuyến cáo về điều trị THA
bao gồm điều trị thuốc, chế độ ăn, bỏ thuốc lá/ thuốc lào, hạn chế bia rượu. tập thể dục,
đo huyết áp định kỳ hàng ngày. Nếu THA không được khống chế và kiểm soát tốt trong
giới hạn cho phép sẽ dẫn đến các biến chứng nặng nề như tai biến mạch máu não, nhồi
máu cơ tim, suy tim, suy thận,…nguy cơ gây tử vong cao. Chính vì vậy mà chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp và một số yếu tố
liên quan của bệnh nhân tăng huyết áp đang được quản lý tại quận Tây Hồ năm 2012”
với các mục tiêu sau: Mô tả thực trạng tuân thủ chế độ điều trị THA và xác định một số
yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị THA trên BN THA đang được quản lý tại quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội năm 2012.
Nghiên cứu được dự kiến tiến hành từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu cắt ngang phân tích trên 420 BN THA đang được quản lý
tại quận Tây Hồ năm 2012. Thu thập số liệu bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, kết
hợp với một số thông tin thu được từ trung tâm y tế quận Tây Hồ, 8 trạm y tế đóng trên
địa bàn quận (Xuân La, Bưởi, Thụy Khuê, Nhật Tân, Quảng An, Tứ Liên, Phú Thượng,
Yên phụ).
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS
16.0 với các phân tích thống kê mô tả (tần suất, tỷ lệ %), so sánh tỷ lệ và mô hình hồi quy
Logistics. Số liệu định lượng được trình bày theo dạng bảng, biểu đồ.



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh tim mạch ở các nước
phát triển và ngày càng tăng ở các nước đang phát triển như nước ta. THA đang trở
thành một vấn đề sức khoẻ trên toàn cầu do sự gia tăng về tuổi thọ và tăng tần suất
mắc bệnh. THA là bệnh nguy hiểm bởi các biến chứng của nó nếu không gây chết
người thì cũng thường để lại những di chứng nặng nề (tai biến mạch máu não, suy
tim…) ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Kiến thức của y học về THA ngày càng đầy đủ, hàng loạt các loại thuốc mới và
các phương thức điều trị hiệu quả đươc áp dụng. Tuy nhiên các BN THA thì cho đến khi
bị các biến chứng của THA mới biết mình bị THA hoặc khi đó mới hiểu rõ việc khống
chế tốt huyết áp là quan trọng như thế nào. Đối với BN THA, huyết áp tâm thu trung bình
giảm 2mmHg thì nguy cơ tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ giảm 7%, nguy cơ tử
vong do đột quỵ giảm 10%[30]. Năm 2002, nghiên cứu trên 5.012 người từ 25 tuổi trở
lên ở 4 tỉnh miền Bắc Việt Nam, kết quả là có tới 70% không biết bị THA. Trong 818
người được phát hiện có THA, chỉ có 11.5% (94 người) là dùng thuốc và tỷ lệ HA được
khống chế tốt chỉ là 19,1% (18/94 người)[11].
Theo khuyến nghị của Bộ Y tế về điều trị THA, tuân thủ chế độ điều trị không
những bao gồm tuân thủ điều trị thuốc theo chỉ định của thầy thuốc mà còn bao gồm thay
đổi lối sống như chế độ ăn hạn chế muối, hạn chế thực phẩm chứa nhiều cholesterol và
acid béo bão hòa, giảm uống rượu bia, không hút thuốc lá/ thuốc lào, tập thể dục mức độ
vừa phải khoảng 30-60 phút mỗi ngày và cần đo huyết áp định kỳ hàng ngày[1].
Tuy nhiên các nghiên cứu trên thế giới hiện nay thường mới chỉ tập trung vào tuân
thủ điều trị thuốc [22], [31], [37] và như thế là chưa đầy đủ với chế độ điều trị THA. Tại
Việt Nam, các nghiên cứu về tuân thủ điều trị THA chưa nhiều và cũng mới chỉ tập trung
vào tuân thủ điều trị thuốc và các yếu tố liên quan đến tuân thủ uống thuốc [7], [15]. Một
số nghiên cứu thì hướng tới kiến thức và thực hành tuân thủ điều trị [3]. Nghiên cứu khác
đánh giá tuân thủ điều trị cao hơn thực tế do quy ước chỉ cần tuân thủ 2/3 các khuyến cáo



2

về điều trị THA đã được coi là tuân thủ [13]. Hoặc đánh giá đầy đủ theo các khuyến cáo
nhưng nghiên cứu lại tiến hành trên đối tượng là BN ngoại trú của bệnh viện tuyến trung
ương, nơi BN có kiến thức và thực hành điều trị THA tốt hơn đối tượng tại cộng đồng
[21]. Như vậy là có rất ít nghiên cứu đánh giá được tỷ lệ tuân thủ điều trị của BN THA tại
cộng đồng với tất cả các khuyến cáo mà Bộ Y tế đưa ra.
Tại quận Tây Hồ, trong những năm gần đây do sự phát triển của nền kinh tế làm
cho mô hình bệnh tật cũng thay đổi, xu hướng các bệnh không lây nhiễm ngày càng tăng
cao cụ thể năm 2010 số BN tăng huyết áp được quản lý tại quận là 1657 BN, năm 2011 là
2873 BN, và đến 6 tháng đầu năm 2012 qua báo cáo sơ bộ thì có 3343 BN THA được
quản lý và theo dõi tại quận, đó chỉ là con số thống kê sơ bộ, thiết nghĩ còn rất nhiều BN
khác đang được khám và theo dõi tại các cơ sở y tế khác trên địa bàn Thành phố Hà Nội,
và cũng có rất nhiều BN không được khám và theo dõi điều trị vì những lý do khác nhau.
Qua khảo sát sơ bộ của nhóm thực địa tại Trung tâm Y tế quận Tây Hồ, 8 trạm y tế trên
địa bàn của quận thì cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2012 có 37 trường hợp bị tai biến
mạch máu não, trong đó có 06 trường hợp đã có tiền sử bị tai biến mạch máu não và để
lại di chứng. Qua khảo sát phỏng vấn trực tiếp một số BN THA của quận cho thấy có đến
1/3 số BN được hỏi trả lời là không dùng thuốc đều đặn, thường xuyên theo chỉ định của
bác sĩ, khoảng 2/3 BN không thay đổi chế độ ăn uống khi bị THA, vẫn còn BN hút thuốc
lá, không tập thể dục và rất nhiều BN không đo huyết áp định kỳ hàng ngày. Điều này
chứng tỏ việc tuân thủ điều trị THA của những BN này chưa cao và họ luôn bị đe dọa bởi
các biến chứng nguy hiểm của bệnh.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng
tuân thủ điều trị tăng huyết áp và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân tăng huyết áp
đang được quản lý tại quận Tây Hồ năm 2012” nhằm đánh giá sự tuân thủ đầy đủ điều
trị THA theo khuyến cáo của Bộ Y tế để có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao
mức độ tuân thủ điều trị của những BN này. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu này sẽ cung
cấp các thông tin để góp phần mở rộng và cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc, điều trị

THA cho các bệnh nhân THA.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng tuân thủ chế độ điều trị tăng huyết áp (bao gồm tuân thủ điều trị
thuốc, chế độ ăn, giảm bia rượu, bỏ thuốc lá/ thuốc lào, tập thể dục, đo huyết áp
định kỳ hàng ngày) của bệnh nhân tăng huyết áp đang được quản lý tại quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội năm 2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị tăng huyết áp của bệnh nhân
tăng huyết áp đang được quản lý tại quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội năm 2012.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Giới thiệu về tăng huyết áp
1.1.

Khái niệm
Huyết áp là áp lực máu trong lòng động mạch. Huyết áp được tạo ra do lực bóp

của tim và sức cản của động mạch [5]
Một người trưởng thành (≥18 tuổi) được gọi là tăng huyết áp (THA) khi huyết áp
tâm thu ≥140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg [1].
1.2. Nguyên nhân
Phần lớn tăng huyết áp (THA) ở người trưởng thành là không rõ nguyên nhân
(THA nguyên phát), chỉ có khoảng 10% các trường hợp là có nguyên nhân (THA thứ

phát)[31]
1.3.

Chẩn đoán xác định THA:

Dựa vào trị số huyết áp đo được sau khi đo huyết áp đúng quy trình (xem Phụ lục 1 - Quy
trình đo huyết áp). Ngưỡng chẩn đoán THA thay đổi tùy theo từng cách đo huyết áp
(Bảng 1)[1].
Bảng 1. Các ngưỡng chẩn đoán tăng huyết áp theo từng cách đo
Huyết áp tâm thu

tâm trương

1. Cán bộ y tế đo theo đúng quy trình

≥ 140 mmHg

2. Đo bằng máy đo HA tự động 24 giờ

≥ 130 mmHg

≥ 80 mmHg

3. Tự đo tại nhà (đo nhiều lần)

≥ 135 mmHg

≥ 85 mmHg

1.4.


và/hoặc

Huyết áp
≥ 90 mmHg

Phân độ THA: dựa vào trị số huyết áp do cán bộ y tế đo được (xem Bảng 2)[1].


5

Bảng 2. Phân độ huyết áp
Phân độ huyết áp
Huyết áp tối ưu

Huyết áp tâm thu

Huyết áp tâm

(mmHg)

trương (mmHg)

< 120



< 80

Huyết áp bình thường


120 – 129

và/hoặc

80 – 84

Tiền tăng huyết áp

130 – 139

và/hoặc

85 – 89

Tăng huyết áp độ 1

140 – 159

và/hoặc

90 – 99

Tăng huyết áp độ 2

160 – 179

và/hoặc

100 – 109


Tăng huyết áp độ 3

≥ 180

và/hoặc

≥ 110

Tăng huyết áp tâm thu đơn độc

≥ 140



< 90

1.5. Triệu chứng
Cơ năng
Đa số BN tăng huyết áp không có triệu chứng gì cho đến khi phát hiện bệnh. Đau đầu
vùng chẩm là triệu chứng thường gặp. Các triệu chứng khác có thể gặp là hồi hộp, mệt,
khó thở, mờ mắt... Không đặc hiệu. Một số triệu chứng khác của tăng huyết áp tùy vào
nguyên nhân tăng huyết áp hoặc biến chứng tăng huyết áp [2].
Triệu chứng thực thể
 Đo huyết áp cung cấp thông tin quan trọng về chỉ số huyết áp.
Dấu hiệu lâm sàng
- BN có thể béo phì, mặt tròn trong hội chứng Cushing, cơ chi trên phát triển hơn cơ
chi dưới trong bệnh hẹp eo động mạch chủ. Tìm các biểu hiện xơ vữa động mạch trên da
(u vàng, u mỡ, cung giác mạc..).
- Khám tim mạch có thể phát hiện sớm dày thất trái, các động mạch gian sườn đập

trong hẹp eo động mạch chủ. Sờ và nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn
hay tắc động mạch cảnh trong động mạch chủ bụng...
- Cần lưu ý hiện tượng (huyết áp giả) gặp ở những người già đái đường, suy thận do
sự xơ cứng vách động mạch làm cho trị số huyết áp đo được cao hơn trị số huyết áp nội


6

mạch. Có thể loại trừ bằng cách dùng “thủ thuật” Osler hay chính xác nhất là đo huyết áp
trực tiếp. Một hiện tượng khác cũng đang được cố gắng loại trừ là hiệu quả “áo choàng
trắng” bằng cách sử dụng phương pháp đo liên tục huyết áp (Holter tensionnel).
- Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn trong hẹp động mạch
thận, phồng động mạch chủ hoặc khám phát hiện thận to, thận đa nang.
- Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ [2]
1.6. Biến chứng của tăng huyết áp
THA nguy hiểm vì thường không có triệu chứng, không gây khó chịu cho người
bệnh nên ít người biết để đề phòng hoặc biết mà vẫn chủ quan. Khi có triệu chứng thì
cũng là lúc đã xuất hiện biến chứng và THA đã ở giai đoạn muộn. Biến chứng một phần
do chính huyết áp tăng cao gây ra, một phần do THA thúc đẩy xơ vữa động mạch và các
bệnh chuyển hóa phối hợp nặng thêm như đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa lipid,…
cuối cùng dẫn đến tổn thương cơ quan đích. Như vậy, THA là nguyên nhân giết người
thầm lặng, dai dẳng và nguy hiểm nếu không được điều trị phù hợp. Một số biến chứng
xảy ra ở những cơ quan chịu ảnh hưởng nhiều của THA là [2]:
Biến chứng tim
Suy tim là một trong hai biến chứng chính và nguyên nhân gây tử vong cao nhất
đối với tăng huyết áp. Dày thất trái là biến chứng sớm do dày cơ tim trái. Để đối phó sức
cản ngoại biên nên gia tăng sức co bóp làm công tim tăng lên và vách cơ tim dày ra. Dần
dần suy tim trái và với khó thở khi gắng sức, hen tim hoặc phù phổi cấp sau đó chuyển
sang suy tim toàn bộ với phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi. X-quang và điện tim có dấu dày
thất phải [2].

Biến chứng não
Tai biến mạch máu não, thường gặp như nhũn não, xuất huyết não, tai biến mạch
máu não thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú chỉ kéo dài, không quá 24giờ


7

hoặc bệnh não do tăng huyết áp với lú lẫn, hôn mê kèm theo co giật, nôn mửa, nhức đầu
dữ dội [2].
Biến chứng mắt
THA gây tổn thương võng mạc, xơ cứng động mạch võng mạc với nhiều mức độ
khác nhau, dẫn đến hậu quả là rối loạn thị lực, phù gai thị. Trường hợp nặng có thể thấy
nhồi máu hắc mạc, nó có thể dẫn đến bong võng mạc [17].
Biến chứng thận
Thận là cơ quan bị ảnh hưởng nặng nhất. THA có thể dẫn đến tổn thương thận và
là nguyên nhân của bệnh thận mạn tính. Tuy nhiên rất khó phân biệt suy thận do THA
hay THA do bệnh thận mạn tính gây nên [2]
Phình tách động mạch chủ, xơ vữa động mạch
THA là thủ phạm gây ra 67% nhồi máu cơ tim, 77% đột quỵ, 74% suy tim và 26%
suy thận mạn tính. Nguyên nhân chính là xơ vữa động mạch ở BN THA [25]. THA làm
thay đổi cấu trúc mạch, xơ hóa và xơ vữa, hẹp lòng mạch rồi dẫn đến phình tách động
mạch [27].
1.7. Tình hình tăng huyết áp trên thế giới


8

45

Năm 2000


40

37.4 37.2

40.7

39.1
35.3

34.8

35

(%)

30

26.9
23.7

25

22

20.6 20.9

22.6
19.7


20

28.3

17
14.5

15
10
5
0
Các nước Các nước
phát triển CNXH cũ

Ấn Độ

Mỹ Latinh Các nước Trung Quốc Các nước Châu Phi
Trung
Châu Á
và Cariber
vùng hạ
Đông
khác
Sahara
Nam

50

Năm 2025


45

42.5

40

41.6

45.9

Nữ

44.5
40.2

39.1

35

(%)

30

27
22.9 23.6

25

24


27.7

27

27

28.2

18.8

20

17.1

15
10
5
0

Các nước Các nước
phát triển CNXH cũ

Ấn Độ

Mỹ Latinh Các nước Trung Quốc Các nước Châu Phi
Trung
Châu Á
và Cariber
vùng hạ
Đông

khác
Sahara

Hình 1. Tỷ lệ THA theo giới ở một số vùng trên thế giới năm 2000 và 2025 [29]


9

Hiện nay THA đã và đang là vấn đề thời sự của nhiều quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu tỷ lệ mắc THA ở người lớn từ 25 tuổi trở lên thì tỷ lệ tổng thể của tăng huyết
áp ở người lớn tuổi từ 25 trở lên là khoảng 40% trong năm 2008. Tỷ lệ dân số thế giới với
huyết áp cao, hoặc tăng huyết áp không được kiểm soát, giảm khiêm tốn giữa năm 1980
và 2008 [41]. Tại thời điểm năm 2008, tỷ lệ mắc THA cao nhất là ở Châu Phi 46% cho cả
2 giới kết hợp, thấp nhất là ở Châu Mỹ 35%. Nam trong khu vực này có tỷ lệ cao hơn so
với phụ nữ (39% đối với nam và 32% đối với phụ nữ). Trong tất cả các khu vực của
WHO, những người đàn ông có tỷ lệ cao hơn một chút cao huyết áp hơn so với phụ nữ.
Sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống kê ở Mỹ và châu Âu [40].
1.8. Tình hình tăng huyết áp ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ THA ở người trưởng thành ngày càng gia tăng. Theo nghiên
cứu của giáo sư Đặng Văn Chung năm 1960, tỷ lệ THA ở người lớn phía Bắc chỉ là 1%.
Năm 1992, theo điều tra toàn quốc của Trần Đỗ Trinh và cộng sự, tỷ lệ này là 11,7%
[18]. Năm 1999, tỷ lệ THA là 14,5% [10] và đến năm 2001-2002 theo điều tra của viện
Tim mạch Việt Nam tại các tỉnh miền Bắc thì tỷ lệ là 16.3% [11]. Tỷ lệ THA tại 12
phường nội thành Hà Nội năm 2002 là 23,2%. Năm 2004, tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ
lệ THA được công bố là 20,5% . Năm 2007 theo Nguyễn Thị Thanh Ngọc thì tỷ lệ THA
ở người cao tuổi tại phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội là 37,6%[12]. Theo số
liệu mới nhất của Viện Tim mạch quốc gia Việt Nam điều tra trên 8 tỉnh ở cả ba miền
Bắc, Trung, Nam (từ năm 2002-2008), tỷ lệ THA đã lên đến 25,1%, nghĩa là cứ 4 người
trưởng thành ở nước ta thì có 1 người bị THA [20]. Với dân số Việt Nam hiện nay là 88
triệu dân thì ước tính sẽ có khoảng 22 triệu người bị THA.

1.9. Tình hình tăng huyết áp tại Hà Nội và Quận Tây Hồ
Những năm gần đây, Hà Nội cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đời
sống nhân dân được tăng cao, những tác động của xã hội đã ảnh hưởng rất nhiều đến tình
hình bệnh tật nói chung và bệnh THA nói riêng. Nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng
sự năm 1999 về đặc điểm dịch tễ học THA tại Hà Nội ở lứa tuổi trưởng thành, trên 16


10

tuổi cho thấy tỷ lệ THA chung 16,05%, tỷ lệ mắc ở nam là 17,99%, ở nữ là 14,51%. Độ
tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc càng cao, đặc biệt từ 55 tuổi trở lên xấp xỉ một nửa số nam
giới ở Hà Nội bị THA và với phụ nữ tỷ lệ này từ 65 tuổi trở lên [10]
Theo nghiên cứu của Đinh Thị Bích Thủy năm 2001, ở người lao động nông
nghiệp một xã của huyện Gia Lâm Hà Nội cho thấy kết quả tỷ lệ THA là 20,4%. Tuổi
càng cao thì tỷ lệ THA càng cao, tỷ lệ THA ở nam cao hơn ở nữ [16]. Nghiên cứu của
Nguyễn Lân Việt và cộng sự năm 2008 tại xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội cũng cho
thấy tỷ lệ THA của người từ 25 tuổi trở lên là 20,5%. Nam giới có tỷ lệ THA bắt đầu tăng
cao ở độ tuổi 45 trở lên, nữ giới tỷ lệ THA bắt đầu tăng ở độ tuổi 55 trở lên, 65 tuổi trở
lên thì tỷ lệ THA ở nam và nữ xấp xỉ nhau [20].
Tại quận Tây Hồ, với tổng số dân là 145.534 người, qua thống kê sơ bộ 06 tháng
đầu năm 2012 có 3343 BN THA đang được quản lý tại quận, và còn rất nhiều BN THA
khác chưa được thống kê đầy đủ đang được khám, điều trị và theo dõi tại các cơ sở y tế
khác trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
2. Điều trị và tuân thủ điều trị tăng huyết áp
2.4.

Những nét cơ bản trong điều trị
2.4.1. Mục tiêu điều trị
Mục tiêu điều trị THA là đạt huyết áp mục tiêu dưới 140/90 mmHg. Ở BN có


nguy cơ tim mạch từ cao đến rất cao thì huyết áp mục tiêu cần đạt là dưới 130/80 mmHg.
Ngoài ra còn cần tăng chất lượng cuộc sống của người bệnh, tăng sự tuân thủ điều trị,
tăng sự hiểu biết về bệnh, giảm sự tiến triển của bệnh và các biến chứng do THA gây ra
[1].
2.4.2. Lợi ích của điều trị:
Các nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy huyết áp tâm thu trung bình giảm 2mmHg
thì nguy cơ tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ giảm 7%, nguy cơ tử vong do đột quỵ
giảm 10% [30]. Trên BN THA có kèm đái tháo đường, điều trị tích cực THA không


11

những giảm các biến chứng tim mạch mà còn giảm biến chứng suy thận mạn tính của
bệnh đái tháo đường.
2.4.3. Các biện pháp điều trị
Bao gồm điều trị không dùng thuốc và dùng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Điều trị không dùng thuốc là phương pháp điều trị kết hợp dù có kèm theo dùng
thuốc hay không để ngăn ngừa tiến triển của bệnh, giảm được huyết áp và giảm số thuốc
cần dùng, bao gồm [1]:
(1)

Chế độ ăn giảm muối natri, hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và acid

béo bão hòa. Tuy nhiên, hạn chế tuyệt đối muối natri trong thức ăn là điều không thể
thực hiện được. Do đó nên hạn chế vừa phải bằng cách tránh thức ăn chế biến sẵn, tránh
thêm muối, nước mắm khi nấu món ăn, không ăn mỡ động vật,… Lợi ích của chế độ ăn
giảm muối vừa phải bao gồm: gia tăng hiệu quả của thuốc hạ huyết áp, giảm mất kali do
thuốc lợi tiểu, giảm phì đại thất trái, giảm protein niệu, giảm nguy cơ đột quỵ, giảm huyết
áp. Theo nghiên cứu DASH khi thực hiện chế độ ăn DASH (nhiều rau củ quả và sản

phẩm sữa ít chất béo) đều giảm được huyết áp [35].
(2)

Tích cực giảm cân nếu thừa cân: Thừa cân khi chỉ số khối cơ thể BMI ≥

23, có tương quan chặt chẽ với THA. Hiệu quả hạ huyết áp của giảm cân bao gồm nhiều
cơ chế: gia tăng nhạy cảm của Insulin do giảm mỡ ở phủ tạng, giảm hoạt tính giao cảm
do cải thiện hoạt tính giao cảm do cải thiện thị thể áp lực…[28]. Cứ giảm được mỗi 1kg
cân nặng thừa thì giảm được trung bình 1,5mmHg [9]
(3)

Hạn chế uống rượu/ bia: nếu dùng qua nhiều rượu bia có thể làm tăng

nguy cơ tai biến mạch máu não ở BN THA, làm tăng trở kháng với thuốc điều trị THA.
Do đó lượng rượu dùng hạn chế dưới 3 cốc chuẩn/ ngày với nam, dưới 2 cốc chuẩn/ ngày
với nữ và tổng cộng dưới 14 cốc chuẩn/ tuần với nam và dưới 9 cốc chuẩn/ tuần với nữ.
Một cốc chuẩn chứa 10g ethanol tương đương 330 ml bia, 120 ml rượu vang hoặc 30 ml
rượu mạnh [1]


12

(4)

Ngừng hút thuốc lá/ thuốc lào: ngừng hút thuốc lá/ thuốc lào là một trong

các biện pháp hiệu quả nhất để giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch. Hút thuốc hoặc khói
thuốc do người khác hút làm tăng huyết áp. Ngừng hút thuốc không những làm giảm
huyết áp mà còn giảm cả bệnh động mạch vành và đột quỵ. Tất cả BN THA cần phải bỏ
thuốc. Lợi ích cho tim mạch đạt được ngay trong năm đầu tiên ngừng hút thuốc [26].

(5)

Tăng cường vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi

ngày (đi bộ nhịp nhanh hoặc trung bình, 5-7 km/ giờ, đạp xe đạp 8-14 km/ giờ…) Hoạt
động thể lực như vậy sẽ giảm được huyết áp từ 4-9 mmHg [38].
(6)

Các biện pháp khác: tăng cường hoa quả, rau xanh, tránh căng thẳng thần

kinh, chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý, tránh bị lạnh đột ngột,…[1]
Điều trị tăng huyết áp bằng thuốc [2]
-

Thuốc lợi tiểu

-

Thuốc chẹn Beta

-

Thuốc ức chế men chuyển

-

Thuốc chẹn thụ thể angiotensin II

-


Thuốc ức chế calci

2.2. Yêu cầu tuân thủ trong điều trị tăng huyết áp
Theo khuyến nghị của Bộ Y tế về điều trị bệnh THA, tuân thủ điều trị không
những bao gồm dùng thuốc kéo dài theo đúng chỉ định của thầy thuốc mà còn bao gồm
thay đổi lối sống như chế độ ăn hạn chế muối natri, hạn chế thực phẩm có nhiều
cholesterol và acid béo bão hòa, giảm uống rượu bia, không hút thuốc lá/ thuốc lào, tập
thể dục mức độ vừa phải 30-60 phút mỗi ngày, và cần đo huyết áp định kỳ hàng ngày [1],
những khuyến cáo này cũng hoàn toàn phù hợp với những khuyến cáo mà JNC VII đưa
ra năm 2004 [36]. Cụ thể:
(1) Tuân thủ điều trị (TTĐT) thuốc là dùng thường xuyên tất cả các loại thuốc được
kê đơn theo đúng chỉ định của thầy thuốc
(2) TTĐT chế độ ăn là ăn hạn chế muối natri, cholesterol và acid béo bão hòa


13

(3) TTĐT liên quan đến tập thể dục là tập thể dục ở mức độ vừa phải như đi bộ nhanh
khoảng 30-60 phút mỗi ngày
(4) TTĐT liên quan đến thuốc lá/ thuốc lào là không hút thuốc lá/ thuốc lào
(5) TTĐT liên quan đến rượu bia là số lượng rượu bia ít hơn 3 cốc chuẩn/ ngày (nam),
ít hơn 2 cốc chuẩn/ ngày (nữ) và tổng cộng ít hơn 14 cốc chuẩn/ tuần (nam), ít hơn
9 cốc chuẩn/ tuần (nữ)
(6) TTĐT liên quan đến đo huyết áp là đo và ghi chỉ số huyết áp định kỳ hàng ngày
2.3.

Cách đo lường tuân thủ điều trị
Định nghĩa
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới [38] dựa trên định nghĩa về tuân thủ


điều trị của Haynes và Rand [34] có sửa đổi, tuân thủ điều trị là trong phạm vi của một
người như dùng thuốc, thay đổi chế độ ăn và/ hoặc thay đổi lối sống đúng với những
khuyến cáo phù hợp của cán bộ y tế. Sự khác biệt chính của định nghĩa này so với định
nghĩa trước đây là tuân thủ điều trị cần sự đồng tình của người bệnh với những khuyến
cáo mà cán bộ y tế đưa ra, người bệnh nên là đối tượng tích cực với cán bộ y tế trong việc
chăm sóc sức khỏe của mình. Chính vì vậy, quan hệ tốt giữa người bệnh và cán bộ y tế
phải được duy trì trong thực hành lâm sàng.
Cách đo lường
Đánh giá chính xác hành vi tuân thủ điều trị là hết sức cần thiết cho việc theo dõi
kết quả điều trị và giúp các bác sĩ đưa ra những phác đồ điều trị phù hợp cho BN. Điều
này cũng được đặc biệt quan trọng với các nhà quản lý Chương trình THA để đưa ra
những quyết định nhắm tăng cường sự tuân thủ điều trị của BN, từ đó làm giảm biến
chứng của THA và tăng hiệu quả của Chương trình.
Cho đến nay không có “chuẩn vàng” để đo lường hành vi tuân thủ điều trị. Phương
pháp lí tưởng để đo lường tuân thủ điều trị đòi hỏi các tiêu chuẩn sau: đảm bảo chi phí
thấp, có giá trị, đáng tin cậy, khách quan và dễ sử dụng. Tuân thủ điều trị có thể được
đánh giá bằng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp (bảng 3)[39]
Bảng 3. Các phương pháp đo lường tuân thủ điều trị của BN


14

Phương pháp

Ưu điểm

Nhược điểm

Gián tiếp
Hệ thống tự ghi nhận


Dễ thực hiện, chi phí thấp,

Sai số nhớ lại, mang tính

cung cấp thông tin về các

chủ quan, thường cho tỷ lệ

yếu tố rào cản tuân thủ điều

cao hơn thực tế

trị
Đánh giá theo quan điểm

Dễ thực hiện, chi phí thấp,

Độ nhạy thấp, thường tỷ lệ

của cán bộ y tế

độ đặc hiệu cao

tuân thủ điều trị cao hơn
thực tế

Nhật ký của BN

Số lượng viên thuốc dùng


Đơn giản hóa mối tương

Không phải luôn nhận được

quan với các sự kiện bên

sự hợp tác của người bệnh,

ngoài và/ hoặc ảnh hưởng

có thể gây sự thay đổi hành

thuốc

vi có tính phản ứng

Ước lượng tỷ lệ tuân thủ ở

Cần BN mang vỏ thuốc đến

mức trung bình

tái khám, nhiều khi không
có sự tương quan giữa số
viên thuốc uống và vỏ thuốc

Đáp ứng lâm sàng

Dễ thực hiện, chi phí thấp


Có nhiều yếu tố khác gây ra
đáp ứng lâm sàng ngoài
tuân thủ điều trị tốt.

Trực tiếp
Định lượng trực tiếp thuốc

Cho phép xác định nồng độ

Không phải lúc nào cũng

hoặc các chất chuyển hóa

thuốc, chất ban đầu hoặc

thực hiện được, chi phí cao,

các chất chuyển hóa

cần mẫu dịch cơ thể (máu,
huyết thanh), bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố sinh học
khác, độ đặc hiệu giảm theo
thời gian


15

Quan sát trực tiếp BN


Đánh giá tương đối chính

Tốn thời gian và nhân lực y

xác hành vi tuân thủ

tế, khó đánh giá hành vi
tuân thủ không dùng thuốc

Phương pháp trực tiếp như định lượng thuốc hoặc các chuyển hóa của thuốc, dấu
ấn sinh học trong dịch cơ thể hoặc quan sát trực tiếp BN dùng thuốc. Phương pháp trực
tiếp cho độ chính xác cao nhưng tốn kém
Phương pháp gián tiếp chủ yếu dựa vào trả lời của BN về việc uống thuốc và hành
vi liên quan đến các chế độ điều trị của họ trong một khoảng thời gian nhất định. Phương
pháp này còn được gọi là hệ thống tự ghi nhận (self- report system), là phương pháp dễ
thực hiện hơn và ít tốn kém hơn nhưng lại phụ thuộc chủ quan vào đối tượng nghiên cứu.
Lựa chọn phương pháp nào tùy thuộc vào hoàn cảnh và loại tuân thủ nào được đánh giá
[39].
3. Các nghiên cứu về tuân thủ điều trị tăng huyết áp
3.1.

Các nghiên cứu về tuân thủ điều trị tăng huyết áp trên thế giới
Theo WHO qua điều tra cộng đồng cho thấy THA không điều trị hoặc điều trị

không đầy đủ chiếm khoảng 70-75% ở BN THA trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ năm
2006, có khoảng 77,6% là được biết bị THA. Trong số BN bị THA chỉ có 67,9% được
điều trị và chỉ có 44,1% là được khống chế tốt HA [9]. Theo thông báo của hội THA Tây
Ban Nha năm 1996, tỷ lệ THA ở nước này là 30% ở người trưởng thành, tỷ lệ nhận biết
và được điều trị ở thập kỷ 80 là 50%, nhưng sau đó nhờ hoạt động tuyên truyền giáo dục

sức khỏe và quan tâm tích cực của y tế, kết quả tăng thêm 20%[4].
Tuân thủ điều trị thuốc
Mặc dù có sẵn nhiều thuốc điều trị hiệu quả nhưng có đến một nửa BN bỏ thuốc
trong năm đầu được chẩn đoán, những BN còn dùng thuốc sau một năm thì chỉ khoảng
50% dùng ít nhất 80% số thuốc họ đã được kê đơn. Chính vì vậy có đến 75% BN được
chẩn đoán THA không đạt được huyết áp mục tiêu [33].


16

Hầu hết các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ tuân thủ thuốc của BN THA không cao và
có sự thay đổi tương đối lớn giữa các nghiên cứu. Sự thay đổi này liên quan đến sự khác
biệt trong nhóm nghiên cứu, thời gian theo dõi, phương pháp đánh giá sự tuân thủ và
phác đồ thuốc được sử dụng giữa các nghiên cứu [24].
Với những nghiên cứu định nghĩa tuân thủ như là tỷ lệ sử dụng 80% số thuốc được
kê đơn trong thời gian nghiên cứu, báo cáo tỷ lệ tuân thủ từ 52- 74%, ước tính trong năm
đầu tiên điều trị có 16- 50% BN ngừng dùng các thuốc hạ huyết áp, trong số những người
tiếp tục điều trị thì tình trạng quên thuốc là phổ biến [23]. Một nghiên cứu khác tại Thổ
Nhĩ Kỳ sử dụng cách đo lường tuân thủ thuốc là dùng thường xuyên tất cả các loại thuốc
được kê đơn trong vòng ít nhất là một tuần cũng đưa ra tỷ lệ tuân thủ thuốc là 72% [22].
Với phương pháp đo lường tuân thủ dựa vào hệ thống tự ghi nhận như thang đo
của Donald và cộng sự (2008) gồm 8 mục để đo lường tuân thủ thuốc hạ huyết áp. Theo
đó, 8 câu hỏi về hành vi dùng thuốc của BN được đưa ra để BN tự trả lời. Nguyên tắc cơ
bản nhất của biện pháp này là không tuân thủ chế độ thuốc có thể xảy ra do một số yếu tố
như quên uống thuốc, khó khăn khi nhớ uống thuốc, quên mang theo thuốc khi đi xa, cảm
thấy phiền toái vì ngày nào cũng phải uống thuốc, tự ý ngừng thuốc do tác dụng phụ hoặc
khi huyết áp được kiểm soát. Các câu hỏi được diễn đạt để tránh sai số “ có” bằng thay
đổi từ ngữ để có câu trả lời là “ không” nghĩa là tuân thủ. Theo thang đo này, tỷ lệ tuân
thủ thuốc là 67,8% [31].
Tuân thủ với điều trị không dùng thuốc

Hiệu quả của điều trị không dùng thuốc như chế độ ăn hạn chế muối, chất béo
động vật, giảm lượng bia/rượu tiêu thụ, không hút thuốc, hoạt động thể thao ở mức độ
vừa phải trong việc làm giảm huyết áp đã được nhiều nghiên cứu ghi nhận. Tuy nhiên
thông tin về phương pháp đánh giá đo lường và cũng như việc tìm ra tỷ lệ tuân thủ còn
tương đối ít và đôi khi được giả định là tương tự như tuân thủ thuốc hạ huyết áp và đây
chính là vấn đề cần nghiên cứu thêm [39].


17

Trên thực tế chỉ có một vài nghiên cứu dẫn ra được tỷ lệ tuân thủ với điều trị
không dùng thuốc của BN THA. Điển hình là nghiên cứu của Uzun S và cộng sự (2009)
thực hiện trên BN khám và điều trị THA ngoại trú bằng phương pháp tự ghi nhận dựa
trên 44 câu hỏi. Nghiên cứu đưa ra tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn là 65% khi thực hiện chế độ
ăn ít muối và ít chất béo; tuân thủ liên quan với tập thể dục là tập thể dục 30-60
phút/ngày, ít nhất là 3 lần mỗi tuần có tỷ lệ là 31%; tuân thủ không hút thuốc lá/thuốc lào
là hiện không hút thuốc có tỷ lệ là 83%; 63% đối tượng nghiên cứu tuân thủ đo huyết áp
là đo và ghi lại số đo huyết áp ít nhất một lần một ngày [37].
Một nghiên cứu khác trên 4910 đối tượng ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng đưa ra tỷ lệ tuân thủ
chế độ ăn là 66,3%, tuân thủ tập thể dục là 35,1% ở nữ giới và 54,7% ở nam giới [22].
3.2.

Các nghiên cứu về tuân thủ điều trị tăng huyết áp tại Việt Nam
Tại Việt Nam hầu hết các nghiên cứu về THA đều tập trung vào thực trạng và các

yếu tố nguy cơ, các nghiên cứu về tuân thủ điều trị THA chưa nhiều, hầu hết tập trung
vào tuân thủ điều trị thuốc hoặc lồng ghép vào các nghiên cứu về quản lý, điều trị BN
THA.
Theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải và cộng sự ở người dân trên 25 tuổi sống tại
các tỉnh phía bắc Việt Nam, trong 818 người được phát hiện THA, chỉ có 94 người là

dùng thuốc chiếm tỷ lệ 11,5%, trong đó tỷ lệ điều trị tốt là 19,1% (18/94). Cũng theo
nghiên cứu này, THA ở người trẻ ít được chú ý hơn ở người có độ tuổi cao hơn cho dù
hiệu quả điều trị đạt được là dễ dàng hơn [11].
Nghiên cứu của Hoàng Viết Thắng năm 2000 ở BN THA tại xã Lộc Thủy, Huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế có 23,8% BN tuân thủ theo dõi điều trị, 46% theo dõi điều
trị sơ sài, 30,2% BN không theo dõi điều trị [14].
Nghiên cứu của Bùi Thị Hà (2010) trên BN THA tại Hải Phòng, cho thấy có
12,62% người bệnh THA thực hiện điều chỉnh lối sống, chỉ có 5,85% BN là tuân thủ điều
trị, 64,62% BN không điều trị mặc dù biết bị THA và 29,54% BN có điều trị nhưng uống


18

thuốc không đều. Nguyên nhân bỏ thuốc hoặc không uống thuốc là do người bệnh thiếu
kiến thức là 68,95%, do kinh tế là 20,92%, do cán bộ y tế là 8,17%. Chỉ có 1,58% BN có
máy đo huyết áp, 34,75% biết nên duy trì huyết áp <140/90mmHg [6].
Một số nghiên cứu khác đơn thuần chỉ đánh giá tuân thủ thuốc của BN THA và
mối liên quan giữa tuân thủ thuốc và đạt huyết áp mục tiêu, đồng thời cũng chỉ ra được
một số lý do của việc không tuân thủ điều trị và lồng ghép vào các nghiên cứu quản lý và
điều trị THA. Như nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt (2008) tiến hành trên những BN trên
25 tuổi bị THA tại Xuân Canh, Đông Anh cũng cho thấy chỉ có 24,3% ĐTNC được điều
trị [20]. Theo nghiên cứu của Phạm Gia Khải, tỷ lệ tuân thủ điều trị là 19,1%, của Đồng
Văn Thành tiến hành trên 1200 BN THA khám và điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh,
bệnh viện Bạch Mai là 20% [15]. Hầu như các nghiên cứu này chỉ đánh giá tuân thủ
thuốc của BN và chưa chỉ ra được các yếu tố liên quan với tuân thủ điều trị.
Tuy nhiên cũng có nhiều nghiên cứu bắt đầu quan tâm đến việc tuân thủ các
khuyến cáo khác bên cạnh điều trị thuốc như tuân thủ chế độ ăn, tuân thủ tập thể dục và
tuân thủ đo huyết áp… đồng thời cũng đưa ra được tỷ lệ tuân thủ với những khuyến cáo
đó.
Theo nghiên cứu cắt ngang có phân tích của Nguyễn Thị Thanh Hằng (2006) tìm

hiểu về tuân thủ điều trị trên 165 BN THA thì tỷ lệ tuân thủ điều trị bao gồm chế độ ăn
hợp lý, tập luyện hợp lý, đo huyết áp định kỳ hàng ngày và sử dụng thường xuyên thuốc
điều trị THA là 25,9%. Tuân thủ chế độ ăn của BN là 22,2% được đánh giá qua một câu
hỏi mang tính chất chủ quan là có thực hiện chế độ ăn kiêng sau khi bị phát hiện THA
không. Về tuân thủ tập thể dục, nghiên cứu cũng đưa ra được tỷ lệ 61,8% của tuân thủ
nhưng chỉ dựa vào tập luyện thường xuyên và thời gian trên 30 phút mà chưa quan tâm
đến mức độ tập. Tuân thủ chế độ dùng thuốc được đánh giá dựa vào việc có sử dụng
thuốc hạ huyết áp thường xuyên không và đưa ra tỷ lệ là 52,7%. Cũng có 69,7% BN có
theo dõi số đo huyết áp định kỳ hàng ngày. Nghiên cứu cũng chỉ ra được mối tương quan
có ý nghĩa thống kê giữa tuân thủ điều trị và đạt huyết áp mục tiêu [7].


19

Nghiên cứu cắt ngang có phân tích đánh giá tuân thủ điều trị của BN THA trên 60
tuổi tại phường Hàng Bông, Hà Nội năm 2010 của Ninh Văn Đông đưa ra được thực
trạng có kiến thức và thực hành đúng về tuân thủ điều trị cùng với một số yếu tố liên
quan. Theo đó, tỷ lệ có kiến thức đạt là 46,5%; tỷ lệ thực hành đạt là 21,5%. ĐTNC được
coi là thực hành đạt khi bao hàm cả 4 yếu tố sau: (1) thực hành uống thuốc thường xuyên,
liên tục và lâu dài (68%); (2) có thay đổi chế độ ăn (tỷ lệ có thay đổi chế độ ăn là 22%);
(3) thực hành tập thể dục (68%) là tập thường xuyên nhưng chưa quan tâm đến thời gian
tập cũng như cường độ tập; (4) thực hành đo huyết áp (26%) là thường xuyên đo huyết áp
> 5 lần/tuần. Như vậy nghiên cứu này chưa quan tâm đến 2 loại tuân thủ khác là tuân thủ
không hút thuốc lá/thuốc lào và tuân thủ giảm uống rượu/ bia dưới ngưỡng cho phép.
Nghiên cứu cũng chỉ ra được 2 yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với thực hành
tuân thủ điều trị đạt là kiên thức đạt (OR=4,5) và trình độ học vấn của ĐTNC (OR=15,4)
[3].
Năm 2011, với phương pháp nghiên cứu cắt ngang có phân tích, nghiên cứu của
Nguyễn Minh Phương trên 250 BN THA tuổi từ 25-60 ở 4 phường được triển khai dự án
phòng chống THA của thành phố Hà Nội là Thụy Khuê, Cầu Diễn, Phố Huế, Trung Tự

cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị chung là 44,8% bao gồm tuân thủ thực hiện chế độ ăn, tập
thể dục, uống thuốc, đo huyết áp. Đồng thời cũng đưa ra được tỷ lệ của từng loại tuân thủ
điều trị. Tuân thủ uống thuốc dừng lại ở uống thuốc đầy đủ là 45,6%. Tuân thủ chế độ ăn
đạt yêu cầu 36% gồm 5 yếu tố là ăn nhạt, ăn nhiều rau, ăn ít chất béo, hạn chế rượu/bia,
không hút thuốc và đánh giá đạt yêu cầu khi đạt trên 3 lựa chọn, 66,4% ĐTNC hạn chế
uống rượu bia nhưng đây là nhóm đối tượng không uống rượu bia, như vậy là nghiên cứu
này đã đưa ra tỷ lệ tuân thủ hạn chế rượu/bia thấp hơn thực tế (bao gồm tất cả những đối
tượng có uống) và chưa đầy đủ (chưa đánh giá ngày uống nhiều nhất và tổng số cốc/tuần)
vì theo khuyến cáo mới nhất mà Bộ y tế đưa ra thì chỉ cần hạn chế lượng rượu/bia dưới
mức quy định là dưới 3 cốc chuẩn/ngày đối với nam, dưới 2 cốc chuẩn/ngày đối với nữ
và tổng cộng dưới 14 cốc chuẩn/tuần với nam, dưới 9 cốc chuẩn/tuần với nữ mà không
cần phải ngừng hẳn. 34% đối tượng đo huyết áp thường xuyên nhưng chưa có thông tin


20

về ghi lại số đo để theo dõi. Về tuân thủ không hút thuốc có 72%. Tuân thủ tập thể dục
62,8% là tập thể dục thường xuyên và cũng chưa quan tâm đến 2 khía cạnh quan trọng
khác của tập thể dục là thời gian tập theo khuyến cáo là từ 30-60 phút và cường độ tập ở
mức độ trung bình (tương đương đi bộ nhanh). Nếu có tập thường xuyên nhưng thời gian
tập quá ngắn hoặc quá dài hoặc tập mức độ nhẹ hoặc quá nặng đều được coi là không
tuân thủ điều trị. Nghiên cứu cũng chỉ ra được 2 yếu tố có liên quan đến tuân thủ điều trị
sau khi loại trừ yếu tố nhiễu bằng phân tích hồi quy logistics là giới tính (đối tượng là nữ
tuân thủ cao hơn) và kiến thức về THA (đối tượng có kiến thức đạt tuân thủ cao hơn).
Tuy nhiên nghiên cứu chỉ tiến hành trên 4 phường ở Hà Nội nên tính đai diện của nghiên
cứu hạn chế về mặt phạm vi, không thể suy rộng từ kết quả nghiên cứu [13].
Nghiên cứu Nguyễn Hải Yến (2012), tiến hành nghiên cứu cắt ngang có phân tích
trên 260 BN THA đến khám và điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh, bệnh viện E. Kết
quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tuân thủ với chế độ thuốc là 61,5%; tuân thủ chế độ ăn là
40,4%; không hút thuốc lá/thuốc lào là 95,4%; hạn chế uống rượu /bia là 95,5%; tuân thủ

về tập thể dục là 21,9%; tuân thủ về đo huyết áp hàng ngày là 20%. Tuân thủ chế độ điều
trị (tuân thủ 6 khuyến cáo trên) chỉ đạt 1,9%. Nghiên cứu cũng chỉ ra là 100% BN tuân
thủ một trong các khuyến cáo về điều trị. Kết quả phân tích hồi quy đa biến của nghiên
cứu cho thấy các yếu tố liên quan đến mỗi loại tuân thủ là khác nhau nhưng đều liên quan
đến kiến thức của BN về bệnh và chế độ điều trị THA. Một số yếu tố quan trọng được
xác định có liên quan đến các loại tuân thủ chế độ điều trị THA là công việc hiện tại,
hoàn cảnh phát hiện THA, giai đoạn THA lúc bắt đầu điều trị, kiến thức, được cán bộ y tế
giải thích rõ về chế độ điều trị. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tìm thấy các loại tuân thủ
điều trị có liên quan với nhau và có liên quan với huyết áp mục tiêu. Hạn chế của nghiên
cứu là tiến hành trên đối tượng là BN đến khám và điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh
của bệnh viện nên tỷ lệ tuân thủ điều trị của nhóm BN này có thể cao hơn so với nhóm
BN tăng huyết áp khác tại cộng đồng [21].


21

4. Dự án phòng chống tăng huyết áp tại Việt Nam.
Đứng trước tình hình gia tăng bệnh THA, năm 2010 thủ tướng chính phủ đã phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm, trong đó có
dự án phòng, chống bệnh THA.
Năm 2010, cả nước đã có 16 tỉnh, thành phố triển khai khám sàng lọc tăng huyết
áp tại 96 quận, huyện và phát hiện gần 72.000 người mắc căn bệnh này; tổng số người
bệnh được quản lý hiện tại gần 57.000 người, chiếm gần 80% số người bịTHA trong
cộng đồng và hơn 10.700 người được điều trị đạt huyết áp mục tiêu; tổ chức 18 lớp tập
huấn đào tạo tại 3 miền (Bắc-Trung-Nam) cho 1450 lượt học viên; triển khai biên soạn
18 tài liệu chuyên môn về phòng, chống tăng huyết áp để sử dụng vào các hoạt động.
Năm 2011, chính phủ sẽ trích ngân sách quốc gia 32 tỷ đồng để tiếp tục mở rộng
dự án trên phạm vi 63 tỉnh thành phố. Theo đó, Bộ y tế sẽ tiếp tục duy trì mô hình điểm
của dự án tại 190 xã/phường ở 16 tỉnh, thành phố đã xây dựng đồng thời mở rộng tuyên
truyền và đào tạo nhân lực phòng chống THA trên cả nước. Dự án cũng đề ra mục tiêu

đào tạo khoảng 10.000 lượt cán bộ y tế làm công tác dự phòng, phát hiện sớm, điều trị
bệnh; xây dựng, triển khai và duy trì bền vững mô hình quản lý bệnh tại tuyến cơ sở;
phấn đấu điều trị theo đúng phác đồ do Bộ y tế quy định cho 50% số BN THA được phát
hiện [8].
Trong dự kiến kế hoạch hoạt động năm 2012, theo GS.TS. Nguyễn Lân Việt, Ban
điều hành dự án phòng chống THA năm 2012 tiếp tục triển khai các hoạt động chủ yếu
bao gồm: đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cán bộ y tế, truyền thông giáo dục phòng
chống THA, khám sàng lọc và tổ chức quản lý THA ở mỗi tỉnh/thành trên cả nước. Kinh
phí cho dự án là 47,498 tỷ đồng [19].
Tại quận Tây Hồ, số BN THA được quản lý là dự án quốc gia về phòng chống
tăng huyết áp đã được triển khai tại 3/8 phường đó là phường Xuân La, phường Nhật
Tân, Phường Thụy Khuê. Tại 3 phường được áp dụng đã triển khai khám sàng lọc cho
các đối tượng từ 25 tuổi trở lên, hàng tháng vẫn duy trì tổ chức 1-2 ngày tư vấn, khám và


×