Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.05 KB, 21 trang )

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP)
Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của TPP-CPTPP. Nội dung của

I.

TPP-CPTPP.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của TPP-CPTPP.
 Tiền thân của CPTPP là hiệp định đối tác xuyên Thái Thái Bình Dương TPP.
 Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là Hiệp định thương mại tự do
được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm 12 nước thành viên là Hoa Kỳ, Canada,
Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei,
Malaysia và Việt Nam. TPP được chính thức ký ngày 4/2/2016 và được dự kiến sẽ
có hiệu lực từ 2018. Tuy nhiên, đến tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP
trong cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 11/11/2017 tại TP Đà Nẵng (Việt
Nam), khiến TPP không thể đáp ứng điều kiện có hiệu lực như dự kiến ban đầu.
 Tháng 11/2017, 11 nước thành viên TPP ra Tuyên bố chung thống nhất đổi tên
TPP thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên
còn lại của TPP (không bao gồm Hoa Kỳ). CPTPP sẽ có hiệu lực nếu ít nhất 6
nước hoặc một nửa số thành viên CPTPP phê chuẩn hiệp định này. Dự kiến sẽ có
hiệu lực vào đầu năm 2019.
 CPTPP giữ nguyên gần như toàn bộ các cam kết của TPP ngoại trừ (i) các cam kết
của Hoa Kỳ hoặc với Hoa Kỳ; (ii) 22 điểm tạm hoãn (có Danh mục chi tiết) và
(iii) một số sửa đổi trong các Thư song phương giữa các Bên của CPTPP
2. Nội dung của CPTPP.
Kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này, bất kỳ một quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan
riêng biệt nào đều có thể gia nhập vào Hiệp định này, theo các điều khoản và điều kiện
được thống nhất giữa các Bên của Hiệp định với quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan riêng
biệt đó.



KHẲNG ĐỊNH LẠI các vấn đề đã được thể hiện trong lời mở đầu Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương, được ký tại Auckland ngày 4 tháng 02 năm 2016 (sau đây gọi là
“Hiệp định TPP”). Bao gồm 30 chương :
Chương 1: Các điều khoản và định nghĩa chung
Chương 2: Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa
Chương 3: Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ
Chương 4: Dệt may
Chương 5: Hải quan và Tạo thuận lợi thương mại
Chương 6: Phòng vệ Thương mại
Chương 7: Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật
Chương 8: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
Chương 9: Đầu tư
Chương 10: Thương mại dịch vụ xuyên biên giới
Chương 11: Dịch vụ Tài chính
Chương 12: Nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh
Chương 13: Viễn thông
Chương 14: Thương mại điện tử
Chương 15: Mua sắm Chính phủ
Chương 16: Chính sách cạnh tranh
Chương 17: Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền chỉ định
Chương 18: Sở hữu trí tuệ
Chương 19: Lao động
Chương 20: Môi trường
Chương 21: Hợp tác và nâng cao năng lực
Chương 22: Tính cạnh tranh và Thuận lợi hóa kinh doanh
Chương 23: Phát triển
Chương 24: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương 25: Hài hòa hóa các quy định
Chương 26: Minh bạch hóa và chống tham nhũng



Chương 27: Các điều khoản hành chính và thể chế
Chương 28: Giải quyết tranh chấp
Chương 29: Các ngoại lệ và các điều khoản chung
Chương 30: Các điều khoản cuối cùng
HIỆN THỰC HÓA nhanh chóng các lợi ích của Hiệp định TPP thông qua Hiệp định này
và tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược của các lợi ích đó;
ĐÓNG GÓP nhằm duy trì mở cửa thị trường, thúc đẩy thương mại thế giới và tạo ra
những cơ hội kinh tế mới cho người dân thuộc mọi mức thu nhập và hoàn cảnh kinh tế;
THÚC ĐẨY hơn nữa hội nhập và hợp tác kinh tế khu vực giữa các Bên;
TĂNG CƯỜNG cơ hội thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư khu vực;
KHẲNG ĐỊNH LẠI tầm quan trọng của việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, bản sắc và sự đa dạng văn hóa, bảo vệ và bảo tồn môi trường, bình đẳng giới,
quyền lợi của người bản địa, quyền lao động, thương mại, phát triển bền vững, tri thức
truyền thống, cũng như tầm quan trọng của việc bảo lưu quyền quản lý của mình vì các
lợi ích công cộng;
HOAN NGHÊNH các quốc gia hoặc các lãnh thổ hải quan riêng biệt tham gia Hiệp định
này;
ĐÃ NHẤT TRÍ như sau:
Điều 1: Tích hợp Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
1. Các Bên theo đây nhất trí rằng, theo các điều khoản của Hiệp định này, các điều khoản
của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ký tại Aukland ngày 04 tháng 02
năm 2016 (“Hiệp định TPP”) được tích hợp, bằng cách tham chiếu, vào thành một phần
của Hiệp định này với những sửa đổi phù hợp, ngoại trừ Điều 30.4 (Gia nhập), Điều 30.5
(Hiệu lực), Điều 30.6 (Rút khỏi) và Điều 30.8 (Lời văn xác thực).
2. Vì mục đích của Hiệp định này, các dẫn chiếu tới ngày ký trong Hiệp định TPP được
hiểu là ngày ký Hiệp định này.



3. Trong trường hợp có bất kỳ sự khác biệt nào giữa Hiệp định này với Hiệp định TPP thì
khi Hiệp định TPP có hiệu lực, Hiệp định này sẽ được ưu tiên áp dụng ở mức độ khác
biệt đó.
Điều 2: Tạm đình chỉ thực hiện một số điều khoản
Tại thời điểm Hiệp định này có hiệu lực, các Bên sẽ tạm đình chỉ thực hiện các điều
khoản quy định tại Phụ lục của Hiệp định, cho đến khi các Bên đồng ý kết thúc việc tạm
đình chỉ thực hiện một hay nhiều hơn các điều khoản đó[2].
Điều 3: Hiệu lực
1. Hiệp định này sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ít nhất sáu nước ký kết hoặc ít
nhất 50 phần trăm số nước ký kết của Hiệp định, tùy trường hợp nào cho giá trị nhỏ hơn,
thông báo cho Cơ quan lưu chiểu bằng văn bản rằng họ đã hoàn thành các thủ tục pháp lý
hiện hành của mình.
2. Đối với bất kỳ nước ký kết nào của Hiệp định này mà với nước đó Hiệp định chưa có
hiệu lực theo khoản 1, Hiệp định này sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày nước ký kết
đó thông báo bằng văn bản cho Cơ quan lưu chiểu rằng họ đã hoàn thành các thủ tục
pháp lý hiện hành của mình.
Điều 4: Rút khỏi Hiệp định
1. Bất kỳ Bên nào đều có thể rút khỏi Hiệp định này bằng cách gửi thông báo bằng văn
bản tới Cơ quan lưu chiểu. Bên rút khỏi Hiệp định sẽ đồng thời thông báo cho các Bên
khác về việc rút khỏi Hiệp định thông qua các đầu mối chung được chỉ định tại Điều 27.5
(Đầu mối liên lạc) của Hiệp định TPP.
2. Việc rút khỏi Hiệp định sẽ có hiệu lực sau sáu tháng kể từ khi một Bên gửi thông báo
bằng văn bản cho Cơ quan lưu chiểu theo khoản 1, trừ khi các Bên đồng ý về một khoảng
thời gian khác. Nếu một Bên rút khỏi Hiệp định, Hiệp định này vẫn có hiệu lực với các
Bên còn lại.
Điều 5: Gia nhập


Kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này, bất kỳ một quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan
riêng biệt nào đều có thể gia nhập vào Hiệp định này, theo các điều khoản và điều kiện

được thống nhất giữa các Bên của Hiệp định với quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan riêng
biệt đó.
Điều 6: Rà soát Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Bên cạnh Điều 27.2 của Hiệp định TPP (Các chức năng của Ủy ban), nếu việc có hiệu lực
của Hiệp định TPP sắp xảy ra hoặc nếu Hiệp định TPP có xu hướng không thể có hiệu
lực, các Bên, theo yêu cầu của một Bên, sẽ rà soát việc vận hành của Hiệp định này nhằm
xem xét bất kỳ sự sửa đổi nào đối với Hiệp định này và các vấn đề có liên quan.
Điều 7: Các lời văn xác thực
Các lời văn bằng tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp của Hiệp định này có giá
trị xác thực như nhau. Trong trường hợp xảy ra bất kỳ sự không thống nhất nào giữa các
lời văn này, lời văn tiếng Anh sẽ được ưu tiên áp dụng.
Singapore là nước cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay
sau khi thực hiện CPTPP. 100% biểu thuế của các thành viên CPTPP sẽ được đưa về 0%
theo lộ trình. Với các nước phát triển, lộ trình này là 7 năm; nhưng Việt Nam được ưu
tiên kéo dài hơn, khoảng 10 năm, để phù hợp với điều kiện phát triển.
3. Một số nội dung cần lưu ý.
 Lộ trình cắt giảm thuế của các nước trong CPTPP.

Với CPTPP, toàn bộ hàng công nghiệp sẽ đưa thuế nhập khẩu hàng Việt Nam về 0%,
thậm chí có nước dành cho Việt Nam trên 90% mặt hàng thuế về 0% ngay khi hiệp định
có hiệu lực (như Canada, Nhật Bản). Các mặt hàng hải sản như tôm, cá ngừ đại dương,
hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện tử, cao su… của Việt Nam cũng nằm trong danh
sách được hưởng lợi ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, hoặc sau 3 - 5 năm.
Về phía Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế, trong đó 65,8% số dòng
thuế sẽ về 0% ngay khi CPTPP có hiệu lực; 85,5% về 0% vào năm thứ 4; 97,8% về 0%


vào năm thứ 11; các mặt hàng còn lại (được xem là nhạy cảm) cam kết xóa bỏ thuế nhập
khẩu với lịch trình tối đa vào năm thứ 16, hoặc theo hạn ngạch thuế quan.
Cụ thể, ở nhóm hàng công nghiệp như ô tô, sẽ bỏ thuế vào năm thứ 13 với các loại ô tô

mới và về mức 0% sau 16 năm; sắt, thép, xăng dầu chủ yếu xóa bỏ vào năm thứ 11; nhựa
và các sản phẩm từ nhựa xóa bỏ vào năm thứ 4; dệt may và giày dép xóa bỏ ngay khi
CPTPP có hiệu lực...
Ở nhóm các mặt hàng nông nghiệp và thủy sản, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế vào năm
thứ 11 đối với thịt gà; với thịt heo tươi vào năm thứ 10 và thịt đông lạnh vào năm thứ 8;
gạo xóa bỏ ngay khi CPTPP có hiệu lực; bắp xóa bỏ vào năm thứ 5; thực phẩm chế biến
từ thịt xóa bỏ từ năm thứ 8 đến năm thứ 11; chế biến thủy sản vào năm thứ 5…
 Quy định về xuất xứ hàng hóa.
 Quy định về xuất xứ hàng hoá từ sợi trở đi.
 Không Bên nào được yêu cầu giấy chứng nhận xuất xứ nếu:

(a) giá trị hải quan nhập khẩu không vượt quá US $1000 hoặc số tiền tương đương bằng
đồng tiền của Bên nhập khẩu hoặc một số tiền lớn hơn do Bên nhập khẩu quy định; hoặc
(b) Bên nhập khẩu không yêu cầu giấy chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa đó hoặc nhà
nhập khẩu được Bên nhập khẩu miễn xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ, với điều kiện
việc nhập khẩu không là một phần của một chuỗi nhập khẩu liên tiếp được thực hiện hoặc
sắp đặt nhằm mục đích né tránh quy định pháp luật của Bên nhập khẩu về yêu cầu hưởng
ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này.
 Quy định về lao động.

Mỗi Bên phải thông qua và duy trì trong các qui chế và qui định của mình các quyền dưới
đây như được nêu trong Tuyên bố ILO:
(a) tự do liên kết và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể;
(b) loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc;
(c) bãi bỏ lao động trẻ em, cấm những hình thức lao động trẻ em tệ hại nhất; và
(d) Không phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp;


Mỗi Bên phải thông qua và duy trì trong các qui chế và qui định của mình các điều kiện
làm việc có thể chấp nhận được đối với mức lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn và sức

khỏe lao động.



Điểm khác biệt lớn giữa CPTPP và TPP.

 Thứ nhất: đó là thay đổi về tên gọi. TPP cũ có tên đầy đủ là Hiệp định Đối tác

xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership). Hiệp định mới lần này đã bổ
sung 2 từ "Toàn diện" (Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive) vào tên gọi
chính thức.
 Thứ hai: số lượng thành viên trong Hiệp định CPTPP mới còn 11 nước, bao gồm
Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore và Việt Nam, với quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP và 15,2%
tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, thấp hơn khá nhiều so với quy mô của TPP
khi có Mỹ (38.2% GDP và 26.5% kim ngạch thương mại toàn cầu).
 Thứ ba: thay đổi về hiệu lực của Hiệp định. Theo quy định của TPP cũ, để Hiệp

định có hiệu lực thì tổng GDP của các nước triển khai phải bằng 85% tổng GDP
của 12 nước đã ký từ năm 2013. Như vậy, với tình huống Mỹ, quốc gia chiếm tới
60% GDP toàn khối, rút lui khỏi TPP, thì 11 nước còn lại sẽ phải thay đổi điều


khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc gia thành
viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký.
 Thứ tư: CPTPP có khoảng 20 nội dung bị tạm hoãn so với TPP cũ, chủ yếu là các
cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia đề xuất trước đây. Cụ thể, có
11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền lợi của người
sở hữu sáng chế. CPTPP sẽ hoãn việc yêu cầu các nước thành viên thay đổi luật và
thông lệ của mình để bảo vệ các dược phẩm mới, bao gồm cả chế phẩm sinh học,

không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug).
 CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản quyền trong những trường

hợp do sự chậm trễ cuả cơ quan cấp bằng hoặc những trì hoãn bất hợp lý trong
việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một loại dược phẩm nào đó vào
các nước thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên của Hiệp định mới sẽ không
cần phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 50 lên 70 năm …
 Các điều khoản còn lại bị hoãn thuộc lĩnh vực đầu tư. Đối với cơ chế giải quyết

tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP đã thu hẹp phạm vi cho
phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước thành
viên sở tại (nước tiếp nhận đầu tư).
 Theo đó, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không được

phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai bên. Các
công ty trong nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ
nước đó nhưng có thể sử dụng để khởi kiện Chính phủ một nước thành viên khác
trong khối.
Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP quy định Ban trọng tài có ba
thành viên bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một đại diện do nguyên đơn lựa
chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn thống nhất lựa chọn.


II.

Vì sao Hoa Kỳ rút khỏi TPP và TPP không có Hoa Kỳ thì ảnh hưởng như
thế nào đến VN?
1. Vì sao Hoa Kỳ rút khỏi TPP?

TPP được xem như một phiên bản mở rộng của hiệp định thương mại mà Canada

và Mỹ đã ký kết gần đây – hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Khi đó, người
dân Canada sẽ có quyền gia nhập vào nền kinh tế Mỹ và Mexico, đồng thời được hưởng
các giao dịch mua – bán tốt nhất thông qua biên giới của cả 2 quốc gia. Với TPP, 12 quốc
gia thành viên có thể chia sẻ đặc quyền từ các cơ hội của hiệp định thương mại tự do
mang lại như giảm hoặc cắt bỏ hàng rào thuế quan đánh trên hàng hóa, các quy định mới
về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, đàm phán về trợ cấp trong ngành sản xuất
và nông nghiệp cũng như nhiều điều khoản khác.
Vậy tại sao Hoa kỳ rút khỏi TPP, theo đó ông Trump cho rằng:
Điều khoản về ngành bò thịt trong TPP sẽ làm tổn thương đến người lao động Mỹ
và làm giảm lợi nhuận của các công ty Mỹ. Trên quan điểm bảo hộ thương mại, ông
Trump tin rằng tầng lớp nông dân và công nhân Mỹ sẽ mất đi nhiều cơ hội việc làm vào
tay lực lượng lao động giá rẻ đến từ các nước đang phát triển như Việt Nam và Malaysia.
Tất nhiên, quan điểm của ông Trump hoàn toàn không sai. Chúng ta có thể thấy nhiều
công việc đòi hỏi kỹ năng thấp một thời từng là “xương sống” của các thành phố công
nghiệp Mỹ, thì hiện nay đều đã bị chuyển ra nước ngoài. Các tập đoàn theo đuổi lợi
nhuận đều tập trung vào việc cắt giảm chi phí, và không có lý do gì để họ tiếp tục sản
xuất ở một đất nước có chi phí lao động cao như Mỹ. “Thay vì thỏa thuận với 12 nước
thành viên TPP, ông Trump nghĩ rằng ông ấy có thể đạt được một thỏa thuận tốt hơn cho
Mỹ nếu có ít quốc gia trên bàn đàm phán hơn. Đây là thời điểm khá thú vị cho các thỏa
thuận thương mại. Và ông Trump đang muốn đảo lộn mọi thứ” - Stuart Trew, chuyên gia
kinh tế đến từ Viện chính sách kinh tế Canada phân tích.


Trong chiến dịch tranh cử tại bang Ohio, ông Trump từng nói: “Hiệp định TPP là
một thảm họa khác và được thúc đẩy bởi các nhóm lợi ích đặc biệt. Đó là nhưng người
muốn cưỡng đoạt đất nước này, chỉ muốn tiếp tục cưỡng đoạt đất nước này”, theo NBC
News.
Theo MSNBC, mục tiêu chính của Mỹ với TPP là để chi phối thương mại ở châu
Á, tạo lên một đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này. Về mặt kinh tế,
hiệp định có thể tăng xuất khẩu của Mỹ thêm 123 tỷ USD, theo Viện Peterson. Và chính

quyền ông Obama ước tính hiệp định giúp tăng thêm 650.000 việc làm. Nhưng theo
MSNBC, các hiệp định tự do thương mại như TPP hay NAFTA đều không có hiệu quả.
Vấn đề là chính phủ đang giúp các công ty thêm giàu có, nhưng không có ràng buộc nào
để các công ty phải tăng thêm việc làm hay tăng lương cho người lao động. Bình luận
viên của MSNBC, Velshi nói: “Các công ty thích tự do thương mại. Các công ty được
tăng thêm lợi nhuận, chính phủ có thêm thuế. Nhưng người lao động không được lợi”.
Derek Scissors, một chuyên gia ở Học viện Doanh nghiệp Mỹ nói: “Các hiệp định chỉ là
ngoại giao. Không có lợi ích. Không có lợi về kinh tế”. Hơn nữa, khi hiệp định hoạt động
thì các tập đoàn sẽ bắt đầu gây ảnh hưởng hậu trường. Evan Greer, giám đốc của một
chiến dịch chống TPP nói: “Hiệp định TPP gồm 5.000 trang giấy thật ra có rất ít điều liên
quan đến thương mại. Thay vào đó, các tập đoàn đều cố vận động hành lang để có chính
sách có lợi cho họ. Vì vậy có một phong trào rộng lớn chống lại TPP”.
Kết luận cuối cùng Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi TPP,
ngày 23/1/2017.Ông Donald Trump đã gọi quyết định rút khỏi TPP nêu trên là "điều tốt
đẹp dành cho người lao động Mỹ". “Điều chúng ta vừa mới làm là một điều vô cùng to
lớn cho người lao động Mỹ”, ông Trump nói khi đặt bút ký lệnh xóa bỏ sự tham gia của
Mỹ trong hiệp định này. Sắc lệnh của ông Trump mang tính biểu tượng lớn nhằm hiện
thực hoá cam kết tranh cử, đồng thời cho thấy vị tân Tổng thống hết sức nghiêm túc trong
việc chuyển đổi chính sách thương mại của Mỹ theo hướng bảo hộ sản xuất và việc làm
trong nước.


 Vì các doanh nghiệp Mỹ mong muốn sản xuất hàng hóa với chi phí thấp nhất để

thu được nhiều lợi nhuận khi bán sang những thị trường khác.
 TPP khiến người Mỹ cảm nhận phải đánh đổi lợi ích thực tế lấy lợi ích mơ hồ.
 Kỳ vọng quá lớn của Tổng thống Obama cùng những đối tác của mình đã tạo nên
một hiệp định thương mại tự do mang tầm thế kỷ. TPP được tiếp cận theo kiểu “đa
phương hoá, đa dạng hoá” khiến cho nó không còn tính chất của một hiệp định
thương mại thuần túy, từ lĩnh vực trao đổi thương mại đến đối tượng điều chỉnh, từ

nội dung bàn thảo đến hình thức văn bản thể hiện.
 Chính sự đồ sộ đã khiến khả năng hiện thực hoá của TPP giảm đi rất nhiều, thể

hiện qua ba vấn đề sau:
• Thứ nhất, có nhiều bất đồng khiến thời gian đàm phán kéo dài và buộc các bên
phải có nhiều nhượng bộ để kết thúc đàm phán. Như vậy, một số lợi ích quốc gia
đã bị mất đi ngay trên bàn đàm phán, trong khi quyền lợi từ TPP chưa biết khi nào
mới có được. Với tính thực dụng của người Mỹ thì việc đánh đổi lợi ích thực tế lấy
lợi ích kỳ vọng của TPP như thế là khó chấp nhận, dù lợi ích kỳ vọng có lớn như
thế nào đi chăng nữa. Là nền kinh tế lớn nhất nên lợi ích thực tế trước mắt của Mỹ
bị mất nhiều nhất, do vậy từ những nhà đàm phán đến giới phân tích đều cho rằng
TPP mang lại lợi ích cho các đối tác khác nhiều hơn là mang lại lợi ích cho nước
Mỹ. Điều đó bị người dân và doanh nghiệp Mỹ cảm nhận là họ phải “nhường cơm
xẻ áo” cho đối tác, chứ không phải hai bên cùng có lợi.
• Thứ hai, hạn chế khả năng tiếp cận của các đối tượng được hưởng lợi nhờ TPP,
bởi lĩnh vực tác động của hiệp định này quá lớn khiến cho người dân, doanh
nghiệp khó nhận diện được lợi ích của mình. Thậm chí dư luận cho rằng, TPP chỉ
mang lại công ăn việc làm và lợi ích rõ rệt nhất cho những chuyên gia phân tích,
những nhà tư vấn và những đơn vị dịch vụ. Bởi lẽ, sự khó tiếp cận của TPP khiến
cho những đối tượng được hưởng lợi phải nhờ tới những lực lượng chuyên nghiệp
“nói cho rõ” để biết mình là ai, được lợi gì từ TPP. Điều này khiến cho hiệu ứng xã
hội cần phải có của một hiệp định giảm đi rất nhiều đối với TPP, nghĩa là cộng
đồng không thích, không quan tâm.
• Thứ ba, cơ chế của TPP từ kích hoạt, khởi động đến vận hành đều quá phức tạp.
Chính sự đồ sộ của TPP khiến cho cơ chế của nó thiếu linh hoạt mà cứ bó gọn


trong sự phức tạp kỹ thuật. Trong thời buổi khó khăn và cạnh tranh khốc liệt thì sự
phức tạp sẽ khiến TPP kém hiệu quả so với hiệp định thương mại kiểu “mì ăn
liền”, khai thác ngay lợi ích từ lợi thế đang có sẵn.

 Chỉ mới có 12 thành viên, nhưng sự đa dạng về kinh tế - chính trị đã quá phong

phú, phủ rộng khắp Bắc Mỹ - Nam Mỹ - Úc Châu – Đông Nam Á – Đông Bắc Á.
Do vậy để các thành viên có thể hưởng lợi thì phải có một cơ chế thống nhất, song
sự đa dạng khiến cho tính thống nhất trở nên phức tạp, rồi trở thành rào cản cho
các đối tượng có thể khai thác lợi ích.
2. TPP không có Hoa Kỳ thì ảnh hưởng như thế nào đến VN?
Việt Nam tham gia vào TPP với 2 mục đích :
 Một là thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
 Hai là giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.

Với phiên bản TPP không có Mỹ, Việt Nam mất đi nhiều lợi ích kỳ vọng trước đó, do
Việt Nam và Mỹ chưa có hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong khi đó, Việt Nam đã
ký kết hiệp định thương mại đa phương và song phương với hầu hết các quốc gia thành
viên của CPTPP.
Theo thống kê của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch Đầu tư), với TPP, GDP có thể tăng thêm 6,7%, góp thêm 15-17% tăng trưởng về xuất
khẩu. Còn khi TPP không có Mỹ, GDP tăng thêm chỉ đạt 1,32%, tăng trưởng về xuất
khẩu chỉ thêm 4%. CPTPP giúp tăng nhập khẩu 3,8%, còn TPP tăng nhập khẩu 10,5%.
CPTPP giúp Việt Nam phát triển hoạt động thương mại với các nước như Canada,
Mexico hay Peru – các nước chưa ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) với nước ta.
Vì vậy khi Hoa Kỳ rút ra khỏi TPP ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến Việt Nam vì những
mục tiêu của Việt Nam đề ra ban đầu khi tham gia vào TPP không đạt được. Nhưng Việt
Nam vẫn tham gia vào CPTPP vì lý do sau :


 Lý do đó là Nhật Bản, quốc gia có quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, đã phê chuẩn

TPP 11. Nhật Bản là nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức lớn nhất của Việt
Nam và là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ hai sau Hàn Quốc. Ngoài ra,
Nhật Bản và Việt Nam đã tăng cường quan hệ song phương. Ví dụ, tàu của hải

quânNhật Bản đã mở chuyến thăm đầu tiên tại Vịnh Cam Ranh, cảng quan trọng
của Việt Nam, vào tháng 4 năm 2016. Nhật Hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko
đã đến thăm Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 03/2017.
 Mặc dù Việt Nam không mong đợi nhiều lợi ích từ TPP 11, nhưng Việt Nam dự

định dùng hiệp định này để hỗ trợ cho các cuộc đàm phán trong tương lai với Hoa
Kỳ và Trung Quốc, tạo ra ấn tượng rằng Việt Nam đang đi theo phe Nhật Bản.
Chiến lược này sẽ được thử nghiệm trong các cuộc đàm phán sắp tới với Hoa Kỳ
 Mặc dù Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng nước này đã

chứng tỏ là một đối tác thương mại khó khăn. Khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá
tra, cá nuôi ở trại, sang Mỹ vào năm 2002, Washington tuyên bố rằng loại cá này
không thể được bán là như là "catfish". Hơn nữa, Washington đã tăng thuế nhập
khẩu cá tra lên 1,2 đôla/ kg vào năm 2014 và bắt buộc nông dân nuôi cá tra năm
2016 phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt của Hoa Kỳ. Các biện pháp
của Mỹ, có vẻ như mang tính bảo hộ mậu dịch đối với Việt Nam, được cho là
nhằm bảo vệ người nuôi cá Mỹ.
 Một mình Việt Nam thì không thể đối đầu với Hoa Kỳ trên thế mạnh, nhưng có thể

giành được những điều khoản thuận lợi bằng cách lưu ý đến mối quan hệ gần gũi
với Nhật Bản.
 Một lý do khác thúc đẩy Việt Nam tham gia với TPP 11 có lẽ là do hiệp định Đối

tác Kinh tế Toàn diện Vùng ( RCEP ). Hiệp định thương mại tự do ở châu Á này
có thể hấp dẫn như TPP vì nó bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ. Nhưng Việt Nam


đang cảnh giác với ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc đối với các thành viên
khác nếu RCEP được thực hiện.
 Đến năm 2016, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc với 28,7% lượng hàng


nhập khẩu, lớn nhất so với bất kỳ quốc gia nào khác. Mặc dù có mối quan hệ
thương mại chặt chẽ, hai nước đang tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Việt Nam sẽ càng cảm thấy không thoải mái nếu sự
phụ thuộc nào Trung Quốc tăng lên.
III.

Những lợi ích kinh tế và phi kinh tế đối với VN đến từ CPTPP? Liệu tham
gia vào CPTPP có phải là quyết định đúng đắn?

1. Lợi ích kinh tế.

Thứ nhất, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường xuất khẩu nông sản.
Gia nhập CPTPP, Việt Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào các nền kinh tế lớn nhất thế
giới. Với mức lương trung bình vẫn còn thấp so với một số nước khác trong CPTPP, Việt
Nam có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm xuất khẩu. Thuế nhập khẩu nhiều loại
hàng hóa sẽ được giảm xuống 0% sẽ là cú hích mạnh cho xuất khẩu, tác động tích cực
đến thu nhập của người dân, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng cao
kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam là nước có thế mạnh trong nông nghiệp với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, có
thể sản xuất nông nghiệp quanh năm. Ký kết CPTPP sẽ thúc đẩy đầu tư của các nước
trong khối vào Việt Nam, tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác lợi thế, tiềm năng về nông
nghiệp.
Thứ hai, hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới và cơ hội mở rộng đầu
tư. Mức độ mở cửa của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam hiện còn thấp. Tham gia
CPTPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các luồng


vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân
hàng tăng cường thanh khoản và tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.

Thứ ba, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Tham gia
CPTPP, các doanh nghiệp nhà nước sẽ không còn được hưởng các ưu đãi hay đặc quyền
về điều kiện tiếp cận vốn và quyền được bảo hộ. Điều này sẽ tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp tư nhân phát triển và cạnh tranh bình đẳng, đồng thời tạo sức ép thúc đẩy các
doanh nghiệp nhà nước chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, phạm vi áp
dụng các quy tắc đối với doanh nghiệp nhà nước chỉ ở lĩnh vực hàng hóa mà không áp
dụng đối với lĩnh vực dịch vụ, nghĩa là chính phủ các nước CPTPP không bị hạn chế
trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ tại thị trường nội địa. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động tại các lĩnh vực có nguồn vốn lớn, được kỳ
vọng cao trong việc cơ cấu lại (tài chính, viễn thông, y tế, giáo dục, phân phối,...) của
Việt Nam không bị tác động chi phối của CPTPP nên áp lực đổi mới không cao. Việc gia
nhập CPTPP sẽ giúp Việt Nam giao dịch thương mại tự do hơn, giảm sự tham gia của nhà
nước trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế minh bạch hơn.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Thỏa thuận CPTPP sẽ giảm
đáng kể thuế nhập khẩu áp dụng cho các hàng may mặc Việt Nam vào thị trường các
quốc gia thành viên, qua đó gia tăng cạnh tranh với hàng hóa tương tự từ các nước khác
như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia hay Thái Lan. Ngoài ra, CPTPP cũng quy định các
hàng hóa Việt Nam phải sử dụng nguyên liệu tự sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ
các thành viên TPP. Tuy nhiên, thời gian qua Việt Nam phần lớn phụ thuộc nhập khẩu
nguyên vật liệu từ các nước và vùng lãnh thổ nằm ngoài CPTPP (Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan và một số nước trong khu vực ASEAN). Điều này sẽ thúc đẩy phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ cũng như mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đồng thời, giúp giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, hiện đang cung cấp rất nhiều nguyên
vật liệu trong ngành dệt may Việt Nam.


Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may của Việt Nam yếu, nên nguyên phụ liệu, thậm chí
một số loại vải phải nhập từ nước ngoài, phần lớn từ các nước ngoài CPTPP, như Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan... Nguồn thay thế từ các nước tham gia Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương gần như không có. Vì vậy, yêu cầu điều kiện xuất xứ "từ sợi trở

đi" áp dụng trong CPTPP sẽ vừa tạo thuận lợi cho công nghiệp hỗ trợ phát triển nhưng
cũng gây khó khăn ban đầu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
2. Lợi ích phi kinh tế.

Thứ nhất, lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi
hỏi chung của CPTPP: CPTPP bao trùm cả những cam kết về những vấn đề xuyên suốt
như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển… Đây là những lợi ích lâu
dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với
nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa) và do đó là rất
đáng kể
Thứ hai, lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường: Mặc dù
về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn cho Việt Nam (đặc biệt
là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp) nhưng
xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ hội tốt
để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các nước đối
tác CPTPP) và bảo vệ người lao động nội địa.
Thứ ba, lợi ích về pháp luật – chính trị : thực hiện các cam kết trong CPTPP sẽ thúc
đẩy hơn nữa minh bạch hóa và xây dựng thể chế hiện đại tại Việt Nam. Thúc đẩy chính
phủ Việt Nam sẽ có những cải cách, sửa đổi, bổ sung và thay đổi các văn bản pháp lý
trong luật kinh tế Việt Nam để bảo vệ các doanh nhiệp Việt Nam.
Thứ tư, lợi ích về giáo dục : chúng ta có thể mong đợi một nền giáo dục cao hơn, có
chất lượng hơn. Khi Việt Nam tham gia CPTPP, cơ hội được học tập ở các nước có nền


giáo dục tiên tiến hơn. Điều này cực kỳ quan trọng, Việt Nam sẻ được công nhận là quốc
ta có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ năm, lợi ích về môi trường : luật môi trường là một đạo luật hay quy định của một
bên, hoặc điều khoản trong đó, bao gồm bất kỳ nội dung nào về việc thực hiện nghĩa vụ
của bên đó theo một thỏa thuận môi trường đa phương, với mục đích chính là bảo vệ môi

trường, hoặc ngăn ngừa một mối nguy hiểm cho đời sống hoặc sức khỏe con người,
thông qua.
3. Liệu tham gia vào CPTPP có phải là quyết định đúng đắn?

Mối lợi chính mà CPTPP đem lại cho Việt Nam là có được quyền tiếp cận thị trường tốt
hơn với thuế suất thấp hơn và tiếp cận thị trường Canada, Mexico, Chile, Peru mà Việt
Nam không có hiệp định thương mại tự do. CPTPP mang tính mở, các nước và vùng lãnh
thổ khác có thể gia nhập, trong đó có Hàn Quốc, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan và
Philippines. Điều này sẽ giúp Việt Nam tiếp cận thị trường tốt hơn, thúc đẩy xuất khẩu và
tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, lợi ích tổng thể mà Việt Nam nhận được từ CPTPP nhỏ hơn rất nhiều so với
TPP gốc. Việt Nam sẽ không có quyền tiếp cận đặc biệt đối với thị trường Mỹ. Giờ đây,
các thành viên CPTPP có quyền tiếp cận ưu đãi đối với thị trường Việt Nam và điều này
có nghĩa rằng các doanh nghiệp, nhà sản xuất Việt Nam đối mặt cạnh tranh gay gắt hơn.
Để tận dụng được CPTPP, Việt Nam cần tăng tính cạnh tranh các ngành của mình bằng
cách tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Quan trọng hơn, Việt Nam cần đẩy
mạnh cải cách hành chính và cải cách lao động. Việt Nam phải tiến hành những cải cách
này để được công nhận nền kinh tế thị trường đầy đủ để một số nước không còn chèn ép
Việt Nam.
Vì vậy vẫn chưa thể khẳng định được Việt Nam gia nhập vào CPTPP có phải là
quyết định đúng đắn. Nếu Việt Nam có những chính sách, cải cách tốt thì việc tham gia
vào CPTPP là một quyết định tích cực và ngược lại. Và thêm một điều nữa hiện nay,


không ai có thể dự đoán chính xác hành động của Mỹ về chính sách thương mại. Tuy
nhiên, có hai thực tế đáng lưu ý là các nước CPTPP giữ TPP nguyên vẹn ngoại trừ hơn 20
điều khoản mà Mỹ thực sự muốn có và các nước CPTPP chỉ tạm hoãn các điều khoản
này, chứ không phải là hủy hoặc loại bỏ. Điều này có nghĩa họ để ngỏ cánh cửa để Mỹ
quay lại ngay sau khi Mỹ đổi ý. Nếu Mỹ đổi ý quay lại CPTPP thì quyết định tham gia
vào CPTPP của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

IV.

Đánh giá cơ hội / thách thức đối với 1 nghành cụ thể trong CPTPP; từ đó
rút ra những lưu ý cho DNXK tận dụng được tối đa lợi ích của FTA này.

1. Cơ hội của ngành dệt may khi tham gia CPTPP.
 CPTPP tạo ra một thị trường, trong đó có những nước mình chưa có FTA song







2.




phương như Canada, New Zealand, Australia…, mở ra cơ hội xuất khẩu hàng dệt
may rất lớn cho DN. Bởi đây là những thị trường DN dệt may Việt Nam rất cần,
đặc biệt đây là FTA thế hệ mới, với các cam kết toàn diện hơn về loại bỏ hàng rào
thuế quan.
CPTPP sẽ là động lực để ngành dệt may phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất
nguyên phụ liệu cho ngành. Điều này xuất phát từ các yêu cầu của CPTPP đòi hỏi
xuất xứ hàng hóa từ nguyên liệu đầu vào, sẽ là lực hút với các DN công nghiệp
phụ trợ dệt may trong và ngoài nước.
CPTPP mang lại là cải thiện giá trị gia tăng trong xuất khẩu. Bởi các cam kết
CPTPP đòi hỏi xuất xứ hàng hóa từ nguyên phụ liệu, là động lực để DN xuất khẩu
làm hàng ODM (hàng hóa từ gốc), cải thiện giá trị thặng dư hàng hóa dệt may xuất

khẩu so với làm hàng gia công.
CPTPP tao cơ hội cho doanh nghiệp tự thay đổi bằng cách đầu tư vào hệ thống cơ
sở sản xuất, đào tạo nhân viên nhằm từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp
ứng tiêu chuẩn khắt khe của những thị trường khó tính trên thế giới. Bởi, mỗi
khách hàng tại các thị trường khác nhau đều có tiêu chuẩn riêng, doanh nghiệp
phải tuân thủ đúng tiêu chuẩn chất lượng của thị trường thì mới có thể bán được
hàng.
Thách thức của ngành dệt may khi tham gia CPTPP.
DN dệt may xuất khẩu phải có tầm nhìn chiến lược trong đầu tư phát triển, đáp
ứng yêu cầu của các nhà mua, đại lý nhập khẩu, phân phối và khả năng đáp ứng
các cam kết trong CPTPP.
DN dệt may xuất khẩu phải có đội ngũ làm công tác thị trường am hiểu luật
thương mại, đủ năng lực hiểu và vận dụng tối đa các điều khoản cam kết để tìm
kiếm được phần lợi ích CPTPP mang lại. Đây là yếu tố con người, đội ngũ nguồn








3.

lực làm thị trường để có thể bán hàng trực tiếp vào các nước nhập khẩu, không thể
làm qua khâu trung gian, thông qua nước thứ 3 như đang làm.
DN dệt may xuất khẩu phải hình thành chuỗi cung ứng dệt may, đặc biệt trong
khâu cung ứng nguyên phụ liệu tại chỗ. Cần tạo chuỗi liên kết dựa trên lợi ích của
tất cả nhà sản xuất như sợi, dệt, nhuộm, may, các nguyên phụ liệu khác. Đây là
yếu tố hết sức quan trọng.

Bên cạnh đó, tầm nhìn của các nhà đầu tư, sản xuất dệt may Việt Nam phải dài
hạn, đầu tư đúng chuẩn, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trườn, đầu tư xây dựng hệ
thống xử lý môi trường theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, đầu tư hệ thống điện mặt trời,
giảm dùng nguồn điện gây ô nhiễm.
Khi thuế suất được giảm, các mặt hàng dệt may các nước vào thị trường Việt Nam
sẽ ngày càng nhiều, sẽ tạo sức cạnh tranh giữa các thương hiệu Việt và thương
hiệu ngoại nhập
Những lưu ý cho DNXK để tận dụng tối đa lợi ích khi Việt Nam tham gia

CPTPP.
 Khó khăn nghành Dệt may của Việt Nam hiện nay.
 Trình độ máy móc thiết bị của các nhà máy cơ khí trong ngành quá lạc hậu, không
được đổi mới, nên không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các doanh
nghiệp về chất lượng và thời gian giao hàng.
 Phụ tùng, cơ kiện phục vụ cho ngành dệt may đang nhập lậu vào Việt Nam từ
Trung Quốc với số lượng lớn, giá rẻ. Bên cạnh đó, tâm lý các doanh nghiệp không
muốn đổi mới thiết bị cơ khí để sản xuất phụ tùng, vì sợ không cạnh tranh nổi với
sản phẩm của Trung Quốc cũng là điều dễ hiểu, nhất là cơ chế thị trường hiện nay.
 Phụ tùng cơ kiện của ngành dệt rất phức tạp, yêu cầu khắt khe về chất lượng, đòi
hỏi phải có tay nghề cao và trang thiết bị hiện đại, điều này các doanh nghiệp cơ
khí trong ngành chưa đủ vốn để đầu tư.
 Tình hình cung cấp nguyên phụ liệu chưa được cải thiện. Nguyên phụ liệu cũng
đang là vấn đề nan giải của ngành dệt may. Hiện nay, 70% sản phẩm xuất khẩu từ
Việt Nam thực hiện theo phương thức gia công, 30% còn lại là bán gia công. Vì
phụ thuộc tới 80% nguyên, phụ liệu nước ngoài, hàng dệt may Việt Nam bị đội giá
tới 20 – 30%. Đặc biệt đối với bông xơ thì tỷ lệ này còn cao hơn. Mỗi năm ngành
dệt cần khoảng 60.000 tấn bông xơ, nhưng nguồn bông trong nước chỉ mới sản
xuất được từ 13.000 tấn đến 16.000 tấn, một con số nhỏ bé so với nhu cầu.



 Mặc dù trong những năm qua, chính phủ rất quan tâm đến phát triển diện tích

trồng bông, nhưng do khí hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp, nên diện tích
và sản lượng bông trong những năm qua tuy có tăng nhưng không đáng kể. Đặc
biệt, vụ bông vừa qua diện tích trồng bị thu hẹp, làm sản lượng giảm 20% so với
những vụ trước. Nguyên nhân là do người nông dân chuyển sang trồng các cây
khác, hạn hán kéo dài đã làm nhiều vùng trồng bông mất trắng hàng nghìn hecta,
không cho thu hoạch.
 Về phụ liệu, mặc dù thời gian qua có một số nhà máy như: Công ty cổ phần phụ
liệu may Nha Trang, Công ty may Việt Tiến, Công ty dệt vải công nghiệp và các
công ty tư nhân đã sản xuất được phụ liệu khoá kéo, tấm lót, cúc, chỉ… nhưng sản
lượng cũng rất nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 20 – 25% nhu cầu của ngành.
 Một số giải pháp.
 Doanh nghiệp không chỉ tăng cường kết nối với nhau về nguyên liệu và sản xuất,

mà phải kết nối tùy theo từng chủng loại mặt hàng và xác định hướng đi nào cho
phù hợp; tập trung đầu tư tái cơ cấu cho doanh nghiệp, áp dụng công nghệ tiên tiến
để tự cân đối dần các khâu, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; tăng cường
hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp dệt may trong nước với nhau, doanh nghiệp
trong nước với đầu tư nước ngoài; khai thác thị trường truyền thống song song
khai thác thị trường mới.
 Tăng cường quảng bá, giới thiệu mặt hàng cho các khách hàng nhưng phải bảo

đảm tính chính xác và giá cả phù hợp để khách hàng yên tâm. Cuộc cạnh tranh nào
cũng có thắng - bại, nếu làm tốt thì thắng, làm dở thì bại đó là quy luật cạnh tranh
kinh tế thị trường.
 Đầu tư đúng công nghệ của giai đoạn hiện nay, nâng cao năng suất không chỉ

thông qua tay nghề của người lao động mà còn qua hệ thống sản xuất, quản lý, tin
học hóa trong quản trị và tự động hóa từng bước từng khâu trong sản xuất của

ngành Dệt May Việt Nam.


 Cắt giảm được các chi phí ngoài sản xuất của doanh nghiệp như logistic, trên

đường đi, hải quan, kiểm tra…
 Sự nỗ lực chuẩn bị được thể hiện rõ nhất đó là các doanh nghiệp có sự kết nối với

nhau mạnh mẽ hơn. Các doanh nghiệp tìm hiểu và cố gắng hoàn chỉnh hệ thống
quản lý chẳng hạn như các quy định, quy chế về an toàn, chất lượng, lao động.
Bởi, muốn khai thác lợi thế của CPTPP phải thực hiện tốt các quy định của Hiệp
định. Các doanh nghiệp cũng đang lên kế hoạch, nghiên cứu các thị trường của các
nước trong CPTPP nhằm tìm kiếm những khách hàng phù hợp với nguồn hàng và
thế mạnh của mình.
 Đồng hành với các doanh nghiệp, các Hiệp hội Dệt May Việt Nam đã nỗ lực xây

dựng các chương trình xúc tiến thương mại, đào tạo nghiệp vụ, tập huấn, chia sẻ
kinh nghiệm nâng cao năng suất, áp dụng các mô hình sản xuất thông minh theo
xu hướng cách mạng 4.0 hướng tới phát triển bền vững trong ngành. Từ nay đến
tháng 4 tới đây, sẽ có nhiều cuộc hội thảo để các chuyên gia trao đổi, hướng dẫn
cụ thể từng vấn đề để áp dụng CPTPP như làm thủ tục ra sao, nguyên phụ liệu thế
nào, thành lập công đoàn…



×