Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.05 KB, 40 trang )

Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay ngôn ngữ luôn đóng vai trò quan trọng và cần thiết đối với
con người việt nam. Dân tộc ta từ ngàn năm xưa đã xây dựng cho mình một nền
văn hóa riêng đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò quan
trọng trong cuộc sống của con người trong sự hình thành và phát triển của loài
người.
Thật vậy, một nhà văn người Pháp có nói rằng: “Ngôn ngữ là chiếc gương
để ta soi mình trong đó”. Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy. Nó đóng vai
trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ của con người việt nam. vì vậy mà giáo
viên cần đưa ra các biện pháp giúp trẻ hiểu hơn và xích lại hơn về ngôn ngữ của
dân tộc ta.
Ngôn ngữ tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nhờ ngôn ngữ mà con người có sự hiểu biết và phát triển vượt bậc, Nó có vai
trò quan trọng đối với con người, đối với những kho tàng văn hóa, những tri
thức, những kinh nghiệm lịch sử đều được chứa đựng trong ngôn ngữ. Đặc biệt,
đối với trẻ sự phát triển ngôn ngữ trong những năm tháng đầu đời có vai trò
rất quan trọng với khả năng hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Đời sống của con người ngày càng phong phú và phát triển nhờ vào ngôn
ngữ.
Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là rất quan trọng, đặc biệt
ở độ tuổi 4 – 5 tuổi đây là giai đoạn trẻ rất thích học nói vì luôn mong
muốn mình được hòa nhập vào xã hội của người lớn. Với tần số nói ngày một
tăng đáng kể, trẻ sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ nói để làm phương tiện giao tiếp
cho mình. Đôi khi cũng chính vì điều đó mà trẻ dễ mắc phải một số lỗi sai về
ngôn ngữ nên cần đưa ra các giải pháp giúp trẻ phát triển toàn diện về ngôn ngữ.
Đây là thời điểm tốt để rèn luyện phát âm chuẩn và phát triển ngôn ngữ cho trẻ
nhằm hoàn thiện hơn cho trẻ.


1


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

Trẻ em với hai từ ngắn ngủi nhưng dường như đã nói lên hết đặc điểm của
cả lứa tuổi này,ở giai đoạn này giáo viên cần phải có sợ kết hợp giữa thể lực và
ngôn ngữ để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Không chơi, trẻ không phát
triển được.
Không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang sống. Đó là một thực
tế mang tính quy luật. Trẻ chơi với niềm đam mê, hứng thú của mình, chơi
một cách vô tư không đắn đo, toan tính,… bởi “trẻ em như búp trên cành”.
Có thể nói rằng những hiểu biết về đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ nói trên
là cơ sở lí luận để người viết nghiên cứu những phương pháp, biện pháp phát
triển ngôn ngữ ở trẻ qua hoạt động vui chơi, cụ thể ở đây là những
trò chơi dân gian.
Mặt khác, trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khoẻ, được học tập,
mà quan trọng nhất trẻ cần phải được thoả mãn nhu cầu vui chơi. Chính trò chơi
đã giúp cho sự phát triển của trẻ được toàn diện, cân bằng và nhịp nhàng, đó
là phương tiện hiệu quả nhất giúp trẻ phát triển. Tôi thấy việc tổ chức cho trẻ
chơi các trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Trò chơi dân gian cũng là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Trò chơi
dân gian là những trò chơi được sáng tạo, lưu truyền tự nhiên, rộng rãi từ thế hệ
này sang thế hệ khác, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. nó giúp phát triển về
cả thể lực và ngôn ngữ của trẻ.
Đối với trẻ em, trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã
mang lại cho thế giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu
cầu giải trí, vui chơi. Nó làm cho thế giới xung quanh của trẻ có nhiều màu sắc
hơn,Chính vì vậy trò chơi dân gian rất cần thiết đối với trẻ.
Trò chơi dân gian nó chứa đựng cả nền văn hoá dân tộc Việt Nam độc đáo

và giàu bản sắc. Những tâm hồn được chắp thêm đôi cánh, giúp trẻ phát triển tư
duy và sáng tạo những cái mới và cho trẻ sự khéo léo. Không chỉ có vậy mà trẻ
còn hiểu thêm về tình bạn,gia đình, quê hương đất nước”. nhưng đất nước đang
trên đà hội nhập cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa hiện đại hóa, những
2


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

trò chơi dân gian dần bị mai một và lãng quên dần thay thế bởi những trò chơi
điện tử, những khoảng đất giờ cũng được thay vào đó là những nhà máy, những
công rình lớn. Đó là sự thiệt thòi lớn với trẻ khi không được làm quen và chơi
với những trò chơi dân gian như thiếu nhi ngày trước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại thì có biết
bao trò chơi của trẻ dần được thay thế bằng những cỗ máy hiện đại, công phu,
với đầy đủ các chức năng, màu sắc sặc sỡ,… Chính vì lẽ đó mà trò chơi dân gian
ngày dần bị mai một theo sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, tiên tiến.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân gian là một vấn đề hết
sức thiết thực giúp trẻ tăng vốn từ ngữ lên rất nhanh chóng. Ngôn ngữ có vai trò
quan trọng trong cuộc sống của con người. Cho nên ngôn ngữ là tải sản quý báu
của nhân loại. Nó là cả kho tàng trí tuệ của con người. Nó tồn tại và phát triển
cùng với sự thay đổi và phát triển của con người. Cũng chính vì lẽ đó mà có biết
bao công trình nghiên cứu được tỏa sáng nhờ có ngôn ngữ. Và ngôn ngữ cũng
chính là vấn đề mà có rất nhiều các nhà khoa học từ các lĩnh vực khác nhau như:
Tâm lí học, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, giáo dục học,… đi sâu, tìm
tòi, nghiên cứu và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đáng kể. Đã có nhiểu công
trình

nghiên


cứu

về sự

phát

triển

của

trẻ,

tiêu

biểu là

công

trình nghiên cứu của: L.X.Vugôtxky, V.X. Mukhina, F.D. Usinxky, R.O.Shor,
O.B.Encônhin, Piegie, M.M.Konxova, M.I.Lixinna, L.I.Bozovich, A.Z. Ruxkai,

Ví dụ:
- V.X. Mukhina với Tâm lí học mẫu giáo: Mukhina đi nghiên cứu về tâm
lí của trẻ em trong độ tuổi Mẫu giáo. - Winhem Preyer với Trí óc của trẻ em:
Một tác phẩm miêu tả chi tiết về sự phát triển của trẻ em, phát triển về vận động,
hình thành ngôn ngữ và trí nhớ cụ thể thông qua cậu bé Alex. - Erik Erickson
với Trẻ em và xã hội: Ông nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em, cách đối xử
và giáo dục trẻ. - John. B. Watson với Chăm sóc về tâm lí cho trẻ sơ sinh và trẻ
3



Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

nhỏ: Nghiên cứu về tâm lí của trẻ ngay từ khi mới sinh và cách chăm sóc
chúng. - A. B. Zaporojets với Cơ sở tâm lí học của giáo dục mẫu giáo: Những
nghiên cứu chuyên biệt về trẻ nhỏ từ lúc mới sinh đến 6 tuổi. - M.M.Konxova
với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học: Các hình thức, biện pháp để nhằm dạy nói
cho trẻ trước khi vào tuổi đi học.
- A.N.Xookolop với Lời nói bên trong và tư duy: Tác giả nghiên cứu
những vấn đề lí luận về ngôn ngữ và tư duy của trẻ em. Ở Việt Nam, vấn đề phát
triển ngôn ngữ cho trẻ cũng được đông đảo các nhà giáo dục quan tâm và đi vào
nghiên cứu như: - Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim tuyến, Lưu Thị
Lan, Nguyễn Thanh Hồng với: Tiếng việt và phương pháp phát triển lời nói cho
trẻ. Dựa vào đó tác giả xây dựng các phương pháp nhằm phát triển và hoàn thiện
lời nói cho trẻ. - Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với: Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo dưới 6 tuổi, đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ, vốn từ của mình. - Tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị
Việt, Nguyễn Kim Đức với Phương pháp phát triển ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra
các phương pháp để giúp trẻ tăng vốn từ của trẻ. - Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết,
Phạm Hoàng Gia, Đoàn thị Tâm với: Tâm lí trẻ em lứa tuổi mầm non đã tiến
hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ mầm non qua các giai đoạn lứa
tuổi. - Luận án Phó tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ
của trẻ từ 1 – 6 tuổi, nội dung luận án nói về các bước, giai đoạn hình thành
phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi từ 1 đến 6 tuổi. - Luận án Phó tiến sĩ
Tâm lý học: Đặc trưng tâm lý của trẻ có năng khiếu thơ. Tác giả nghiên cứu tâm
lí của trẻ em có chứa năng khiếu cảm thụ các tác phẩm thơ ca. - Nghiên cứu của
Nguyễn Xuân Khoa về: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 0
– 6 tuổi, đã nghiên cứu về sự phát triển vốn từ ngữ của trẻ ở các độ tuổi và đưa
ra các phương pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ em ở độ tuổi mầm non. Luận án Tiến sĩ Nguyễn Thị Oanh: Cơ sở của việc tác động sư phạm đến sự

phát triển ngôn ngữ tuổi Mầm non. Dựa trên cơ sở của ngành sư phạm tác giả

4


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

đã nghiên cứu tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em mầm non.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua các trò chơi dân gian.
Giúp trẻ phát triển hoàn thiện về cả trí tuệ và cả thể lực
tạo điều kiện phát phát triển về sau của trẻ. Không chỉ vậy mà đối với trẻ, ngôn
ngữ còn là qua những hiểu biết về đặc điểm trò chơi dân gian với sự phát triển ở
trẻ 4 – 5 tuổi, về đặc điểm tâm lí của trẻ Mầm non tác giả đã mạnh dạn đưa
ra một số biện pháp, quy trình tổ chức các trò chơi dân gian nhằm nâng cao
hiệu quả việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.với những trò chơi
dân gian đó có thể một phần nào phát triển hết khả năng nhận thức của trẻ ở lứa
tuổi mầm non
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non thông qua một số trò chơi dân gian
nhằm giúp trẻ hoàn thiện hơn về khả năng ngôn ngữ.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Trẻ 4 – 5 tuổi (60 trẻ), giáo viên (23 giáo viên) ở ba trường Mầm non.
Trường Mầm non Quyết Thắng – thành phố Sơn La – Sơn La
Trường Mầm non Liên Cơ – Lương Sơn – Hòa Bình
Trường Mầm non Long Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu và khảo sát thực trạng trẻ 4 – 5 tuổi ở trường Mầm non.

- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non trong độ tuổi
từ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
- Tổ chức thể nghiệm để ứng dụng đề xuất tính khả thi của các biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non (4 – 5 tuổi) thông qua trò chơi dân gian mà
đề tài nghiên cứu.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
5


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách, báo và các tài liệu có liên quan tới vấn đề đang nghiên cứu. Từ đó
chọn lọc để xây dựng nên cơ sở lí luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dùng phiếu Anket điều tra kết hợp với việc trao đổi những thông tin có liên
quan về vấn đề nghiên cứu với các giáo viên ở trường mầm non, nhằm phát
triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non từ 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
6.3 Phương pháp quan sát:
-Quan sát những hoạt động của trẻ để đưa
ra các phương pháp hợp lí với tâm sinh lí của trẻ 4 – 5 tuổi.
- Ngoài ra, dùng phương pháp nghiên cứu sản phẩm để xác định mục
đích nghiên cứu.
-Giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 – 5 tuổi qua trò chơi dân gian.
7.3. Phương pháp thể nghiệm sư phạm
- Sử dụng các phương pháp tác động đến một nhóm trẻ được chọn để thực
nghiệm.
- Xử lí kết quả nghiên cứu bằng phương pháp thống kê toán học.

7.4 Phương pháp phân tích tổng hợp
Là phương pháp phân tích những mặt,những bộ phận những mối quan hệ
theo từng khía cạnh khác nhau từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết để đưa
ra các giải pháp giúp trẻ phát triển hơn về ngôn ngữ
7.5 Phương pháp so sánh
Khi muốn tìm hiểu sự tương đồng khác biệt của các vấn đề trong đề tài thì
phương pháp so sánh giúp đề tài thêm phần hấp dẫn hơn.
8. Đóng góp của đề tài
Qua việc khảo sát sơ bộ trên thực tế kết hợp với việc nghiên cứu lí luận trong
thời gian qua
6


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

chúng tôi thấy rằng mức độ phát triển ngôn ngữ thông qua các trò chơi dân gian
cho trẻ mầm non từ 4 – 5 tuổi ở các trường mầm non hiện nay ngày càng bị hạn
chế đi rất nhiều và chưa phát huy hết năng lực của trẻ ở lứa tuổi này hoặc nếu có
thì chưa gây được hứng thú thực sự đối với
trẻ, eo hẹp về cách bố trí thời gian tổ chức trò chơi nên chưa đạt được hiệu quả
cao.
Do vậy, nếu các biện pháp trong đề tài mang tính khả thi thì sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân gian,
góp phần vào phong trào đổi mới giáo dục phát triển mầm móng tương lai của
đất nước ta sau này.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người do đó
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là vô cùng cần thiết.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu Chương này chúng
tôi đề cập tới những cơ sở lí luận về ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo, cụ thể là trẻ
MGN (4 - 5 tuổi), đặc biệt phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân
gian.
Chương 2: Một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ MGN (4 - 5
tuổi) thông qua trò chơi dân gian. Chương này, khóa luận đã xây dựng một số
biện pháp, quy trình vận dụng phương pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức
các trò chơi dân gian và thiết kế một số mẫu giáo án theo phương pháp mới về
trò chơi dân gian.
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm một số trò chơi dân gian cho trẻ MGN (4 5 tuổi) Khóa luận thiết kế một số biện pháp để ứng dụng nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ thông qua một số trò chơi dân gian nhằm để chứng minh tính khả thi
của các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

7


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.2.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt gồm các âm, các từ, các quy tắc
kết hợp từ một cộng đồng dân tộc dùng làm phương tiện giao tiếp cơ bản và
quan trọng nhất của các thành viên trọng một cộng đồng người; đồng thời ngôn
ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy, truyền đạt đời sống văn hóa - lịch
sử từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng có khái niệm khác về ngôn ngữ theo E.
L. Tikhêeva - Nhà giáo dục học Liên Xô cũ đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là
công cụ để tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng

kiến thức của dân tộc, của nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan
trọng trong đời sống con người…”,
Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn
ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách
của con người, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình.
Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để đến với thế giới của nhân loại. Ngôn ngữ
trở thành công cụ để trẻ bày tỏ suy nghĩ, những tâm tư, tình cảm, những mong
muốn của cá nhân mình. Bởi lẽ, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế
giới xung quanh, mong muốn hòa nhập với xã hội của loài người.
1.1.2.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
a. Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về
thế giới xung quanh Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ
của tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh.
Trong quá trình nhận thức những sự vật và hiện tượng, các em phải sử dụng từ
ngữ để phân biệt được vật này với vật khác, biết được tên gọi, màu sắc, hình
dáng, công dụng và những thuộc tính cơ bản của vật

8


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi trường xung quanh thông qua khả năng phân
tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái quát về vật.
Ví dụ: Trẻ nhận xét về xe đạp:
+ Trẻ nhìn thì biết được màu đỏ (xanh).
+ Trẻ quay bàn đạp thì bánh xe quay.
+ Trẻ sờ vào sườn xe thì biết nó láng, bóng. Trẻ nhận biết các sự vật hiện
tượng xung quanh gần gũi, tìm hiểu những sự vật hiện tượng không xuất hiện
trực tiếp trước mắt trẻ, những sự vật xảy ra trong quá khứ, tương lai. Như vậy,

ngôn ngữ không chỉ giúp cho trẻ củng cố kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết về
thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu về chính mình, về con người và
khám phá các sự vật xung quanh cũng như những biến cố đang xảy ra trong đời
sống, hay các hiện tượng xung quanh như nắng, mưa, nóng, lạnh,… qua đó trẻ
có thể nhận thức về môi trường xung quanh. Thật vậy, hầu hết trẻ thơ đều có
một tâm hồn nhạy cảm. Đối với các em, thế giới xung quanh chứa đựng biết bao
nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn. Ngay trong những cái tưởng chừng như bình thường
và giản dị thì các em cũng phát hiện ra những điều lí thú. Chẳng vậy mà
Pauxtopxky có nhận xét rằng: “Thời thơ ấu không còn mãi,… Trong thời thơ ấu
tất cả đều khác. Trẻ em đã nhìn thế giới bằng đôi mắt trong sáng và đối với tất cả
với chúng đều rực rỡ hơn nhiều. Mặt trời chói lọi hơn, đồng ruộng được cày sâu
hơn, tiếng sấm vang rền hơn, mưa to hơn, cỏ mọc cao hơn và cả lòng người
cũng mở rộng hơn. Nỗi đau thương cũng sâu sắc hơn và mảnh đất quê hương
cũng chứa đầy bí ẩn, nhiều hơn gấp hàng nghìn lần”. Khi người lớn đưa ra các
câu hỏi, câu trả lời hay khi đàm thoại trực tiếp với trẻ thì cũng đồng thời ngay
lúc đó trẻ làm quen được với các sự vật, hiện tượng có ở môi trường xung
quanh, và trẻ hiểu được những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật
cùng với các từ tương ứng với nó thông qua các từ ngữ đó. Trẻ thường nhìn sự
vật trong tính toàn vẹn của nó mà chưa hề bị chia cắt ra từng mảng, từng bộ
phận rạch ròi khô cứng. Những thuộc tính cụ thể - cảm tính sinh động như màu
sắc, âm thanh … có tác động mạnh mẽ lên giác quan và ghi dấu ấn sâu đậm
9


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

trong tâm trí của trẻ. Từ ngữ và hình ảnh trực quan của các sự vật cùng đi vào
nhận thức của trẻ. Nhờ có ngôn ngữ, trẻ nhận biết được ngày càng nhiều các sự
vật, hiện tượng từ đơn giản dần tới phức tạp mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc
sống hàng ngày, giúp trẻ hình thành, phát triển phong phú các biểu tượng về thế

giới xung quanh.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai cùng song
song tồn tại và phát triển với nhau,. Những ý tưởng của trẻ được bộc lộ bằng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hình thành và phát triển tư duy.
Ngôn ngữ của trẻ được phát triển dần theo lứa tuổi, điều đó sẽ giúp trẻ không chỉ
tìm hiểu những hiện tượng, sự vật gần gũi xung quanh, mà còn có thể tìm hiểu
cả những sự vật không xuất hiện trước mắt trẻ, những sự việc xảy ra trong quá
khứ và tương lai. Trẻ hiểu được những lời giải thích, sự gợi ý của người lớn, biết
so sánh, khái quát và dần dần hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng, hình
thành những khái niệm sơ đẳng. Sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh
ngày càng rộng lớn hơn. Nhận thức của trẻ được rõ ràng, chính xác và trí tuệ của
trẻ không ngừng được phát triển. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoạt động vui
chơi và nhận thức thế giới xung quanh một cách phong phú hơn. Bởi chơi là
phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa biểu tượng của trẻ về cuộc sống
xung quanh. Nội dung chủ yếu của chơi là phản ánh thế giới xung quanh trẻ, nên
khi tham gia vào hoạt động này trẻ càng hiểu sâu hơn về cuộc sống xung quanh
mình. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội trước lúc chơi dưới nhiều hình thức hoạt
động khác nhau sẽ được chính xác hơn, phong phú hơn. Khi tham gia vào trò
chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi, phân vai trong trò
chơi: Chọn vai nào, chơi như thế nào,.. và quá trình thỏa thuận này không thể
thiếu vai trò của ngôn ngữ. Trẻ bộc lộ những suy nghĩ của mình với các bạn và
nghe ý kiến của các bạn để đi đến thỏa thuận trong khi chơi,… Sử dụng ngôn
ngữ để suy nghĩ thực hiện hành động chơi, giao lưu với các bạn trong nhóm và
các bạn chơi khác nhóm, đánh giá, nhận xét, tuyên dương,.. Không chỉ khi tham
gia hoạt động vui chơi cùng với các bạn mà ngay cả khi trẻ chơi tưởng tượng với
10


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian


một đồ vật thì ngôn ngữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình chơi của trẻ.
Qua đó, ngôn ngữ của trẻ được phát triển, trẻ giao lưu tình cảm trong lúc chơi,
phát triển khả năng tư duy và trí tưởng tượng của trẻ. b. Ngôn ngữ là phương
tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất
mà người ta mới phát hiện ra, họ cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau.
Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những
người xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ dùng để diễn
đạt, để trình bày ý tưởng, nguyện vọng của mình cho người khác biết.
Đặc biệt, ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành
vi và việc làm của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua truyện kể, ca dao,
đồng dao, nhất là trong các trò chơi dân gian,… trẻ cảm nhận được cái hay cái
đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong cuộc sống. Đặc
biệt là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ ca dân tộc để con
biết yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu bà con làng xóm,
truyền cho con những ý niệm cơ bản về thiện ác để hun đúc ở đứa con lòng nhân
ái. Ngay cả những lúc nựng con thì đây là cuộc trò chuyện đằm thắm nhất, đầy
tình yêu thương và lòng tin cậy, trong đó người mẹ đã nói với con bằng cả tấm
lòng và đứa con đã nghe mẹ với tất cả sự sung sướng và niềm say mê. Dù có ý
thức hay chưa có ý thức rõ ràng, người mẹ cũng đã dạy con học ăn, học nói, học
gói, học mở - học làm người bằng những phương thức nghệ thuật đó khiến cho
việc tiếp thu của đứa con vừa rất tự nhiên lại có hiệu quả cao giúp cho trẻ tiếp
cận dễ dàng hơn với văn hoá của dân tộc. Khi giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp
nhận được những sắc thái tình cảm khác nhau. Qua nét mặt, giọng nói, ngữ điệu,
ngữ nghĩa chứa đựng trong các từ, các câu nói, dần dần trẻ cũng biết thể hiện
những cảm xúc khác nhau của mình. Người lớn như là chiếc gương để trẻ soi
mình vào trong đó. Trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn
nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ cười, giúp trẻ có thể nhận ra được
hành vi của mình là đúng hay là sai. Bằng cách đó, ở trẻ dần dần hình thành
những thói quen tốt và học được những cách ửng xử đúng đắn. Người lớn có thể
11



Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

khen trẻ khi chúng làm đúng và tốt, cổ vũ, động viên kịp thời cho những hành vi
đúng đắn hay có những ý tưởng hay của trẻ. Khi trẻ làm sai hay nói sai, người
lớn tỏ vẻ không bằng lòng bằng ánh mắt, nét mặt nghiêm nghị kèm theo lời nói
với giọng điệu nghiêm túc thì trẻ sẽ nhận thức được cái sai của mình và sửa sai.
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Nó
tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái
đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ
thuật. Các sự vật, hiện tượng mà trẻ quan sát được trong môi trường sống được
in hằn trong trí não của trẻ. Nhưng để trẻ biết cái lá có màu xanh, bông hoa có
màu đỏ, con cá vàng bơi trong nước, con chim bay trên bầu trời,… nó trở nên
đẹp như thế nào thì thông qua ngôn ngữ trẻ sẽ nhận thức được cái hay, cái đẹp
đó trong cuộc sống xung quanh mình. Từ đó hình thành ở trẻ thái độ tôn trọng
cái đẹp và đồng thời kích thích sự sáng tạo ra cái đẹp ở trẻ. Những hình ảnh
tưởng tượng vừa ngây thơ, đôi khi phi lý này không chỉ đem lại cho tuổi thơ
niềm hạnh phúc mà còn cần cho mỗi người sau này lớn lên, dù đó là người lao
động chân tay, nhà khoa học hay người nghệ sĩ,… phương tiện có hiệu quả nhất
để nuôi dưỡng sự tưởng tượng đó là trò chơi. Điều đó giúp trẻ có nhiều ấn tượng
đẹp và tâm hồn trẻ sẽ càng thêm phong phú. Từ đó, trẻ sẽ biết yêu quý và có ý
thức giữ gìn những cái hay cái đẹp trong cuộc sống. Khi trẻ được tiếp xúc
thường xuyên với ngôn ngữ văn học như thơ, truyện, ca dao, đồng dao,… trẻ sẽ
được chìm vào với thế giới đa dạng màu sắc. Bao nhiêu loại người khác nhau,
loại người tốt sao gần gũi, mến thương; loại người xấu sao vừa ghét lại vừa sợ…
Những phong cảnh xa lạ từ những khu rừng rậm rạp bí hiểm, đến biển cả mênh
mông, những lâu đài tráng lệ, những con thú chưa hề thấy,… tất cả đã nhập vào
tâm hồn của các em bé với những màu sắc lung linh kì ảo. Tâm hồn các em
được rộng mở, trí tưởng được kích thích mạnh mẽ, thôi thúc các em muốn khám

phá những điều kì lạ và lí thú trong các câu chuyện hết sức hấp dẫn. Những câu
thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, những bài đồng dao ngộ nghĩnh có đoạn điệp khúc
nhắc đi nhắc lại dễ nhớ… khiến trẻ muốn đọc theo và sẽ nhớ rất lâu. Đây chính
12


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

là thời cơ thuận lợi để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, đặc biệt là văn học dân
gian. Điều đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, nó giúp trẻ sáng tạo ra những
cái mới, hình thành những ước mơ táo bạo, những hoài bão về cuộc sống tương
lai.
c. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành
viên của cộng đồng Những kinh nghiệm lịch sử xã hội được chứa đựng trong
các công cụ lao động, đối tượng lao động, trong các chuẩn mực hành vi các mối
quan hệ qua lại giữa con người với nhau,… nhưng hầu hết được ghi lại để truyền
bá cho thế hệ sau nhờ ngôn ngữ. Ngay từ lúc mới đầu, đứa trẻ không thể nhận
thức được những gì đang tồn tại xung quanh nó. Để thỏa mãn sự hiểu biết đó mà
nó thường đặt ra hàng vạn câu hỏi cho bố mẹ và người xung quanh chúng. Vì
thế, người lớn trở thành chiếc cầu nối trẻ với cộng đồng, với thế giới thông qua
ngôn ngữ. Người lớn đã dẫn dắt trẻ hình thành tình cảm, thái độ, nhận thức về
con người, đồ vật gần gũi xung quanh. Nhờ sự biết đi, biết nói mà trẻ ngày càng
mở rộng phạm vi tiếp xúc, phát triển nhận thức đối với thế giới xung quanh và
hình thành “ý thức bản ngã”. Trẻ muốn tự lập hơn, thể hiện các hành vi theo ý
nghĩ riêng của mình trong các trò chơi. Qua những lời chỉ dẫn của người lớn mà
trẻ dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi 12 thành viên
trong cộng đồng đều phải thực hiện. Trước tiên, là những nề nếp sinh hoạt của
gia đình, nhóm trẻ, trường mầm non. Sau đó, là những quy định ngoài xã hội,
những gì trẻ được phép làm và không được phép làm. Mặt khác, để bày tỏ
những những nhu cầu mong muốn của mình với những thành viên trong cộng

đồng, trẻ sử dụng ngôn ngữ để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mình. Điều đó
giúp trẻ hòa nhập hơn với mọi người xung quanh mình.
d. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ Giáo dục thể
lực đối với trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể của trẻ, việc vận
động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo
vệ và làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hòa, cân đối, sức khỏe tăng cường đạt đến
trạng thái hoàn thiện về mặt thể chất. Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo
13


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

và người lớn đã dùng chính ngôn ngữ của mình để nhằm hướng dẫn, chỉ bảo trẻ
thực hiện tốt các yêu cầu do mình đề ra góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển.
Đặc biệt, trong giờ thể dục, giáo viên đã tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện chính
xác các động tác làm cho cơ thể phát triển được cân đối bằng chính lời nói của
mình. Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần phải được ăn ngon, ăn đủ chất
thì cơ thể của trẻ mới phát triển hoàn thiện được. Để động viên, khích lệ trẻ ăn
được thì người lớn đóng một vai trò rất quan trọng.
1.1.2.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ MGN (4 - 5 tuổi) Sự phát
triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ đối với thế giới xung
quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên. Việc mở rộng phạm vi tiếp xúc
và các mối quan hệ xã hội giúp cho khả năng tri giác của trẻ nhanh nhạy hơn.
Khả năng nhận thức và ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn MGN (4 - 5 tuổi) này có
những bước tiến mới đáng kể. Ở thời kì này, trẻ hoàn thiện dần về mặt ngữ âm,
các phụ âm đầu, âm cuối, âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ phát âm tốt
hơn, ít ê, a, ậm ừ hơn so với thời kì trước. Đặc biệt, đã xuất hiện ở lời nói của trẻ
những khái quát, kết luận đơn giản một cách mạch lạc, song một số trẻ vẫn phát
âm sai thanh ngã, âm đệm và âm cuối. Trẻ từ 4 - 5, tuổi khả năng nhận thức vốn
từ tăng lên một cách đáng kể. Theo nghiên cứu của yy. Y pratuxevich: 4 tuổi trẻ

có 1900 từ và 5 tuổi là 2.500 từ. Với sự nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về
ngôn ngữ của trẻ nội thành thì vốn từ của trẻ là: 4 tuổi từ 1900 từ đến 2000 từ và
5 tuổi trẻ có từ 2500 từ đến 2600 từ. Trẻ học từ mới nhanh hơn, phát âm các từ
tốt hơn so với các giai đoạn lứa tuổi trước. Chính vì lẽ đó mà vốn từ của trẻ ở
giai đoạn này phong 13 phú, bao gồm nhiều từ loại. Số lượng các từ loại: danh
từ, tính từ, đại từ, trạng từ được tăng lên một cách đáng kể, trẻ hiểu được ý nghĩa
của nhiều từ loại khác nhau và biết sử dụng chúng để thể hiện mối liên hệ đa
dạng giữa các sự vật và hiện tượng về thơi gian, định hướng không gian, số
lượng, nguyên nhân và kết quả. Trẻ có khả năng tri giác âm thanh nhanh nhạy và
khả năng phát âm mềm dẻo tự nhiên. Trẻ ham học hỏi, thích tìm hiểu về xã hội
và tự nhiên. Trẻ chủ động giao tiếp ngôn ngữ với những người xung quanh và
14


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

hay đặt các câu hỏi như: “như thế nào?”; “làm gì?”; “bao giờ?”; “tại sao?”…
Những câu hỏi, câu trả lời hay những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn thiện
hơn. Số lượng các câu nói đúng ngữ pháp cũng được tăng lên một cách rõ rệt,
các thành phần trong câu nói được phát triển. Bởi trẻ biết lắng nghe các câu trả
lời, câu nói của người khác. Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thích tham gia, hòa nhập
với tập thể. Trẻ hứng thú đặc biệt với việc rèn luyện những kĩ năng vận động
mới học được và sử dụng những kĩ năng đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử
dụng vốn ngôn ngữ của mình để tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè, cô giáo
một cách say sưa, nhiệt tình và giao tiếp khéo léo hơn. Trẻ có thể diễn tả những
hành động phức tạp và hăng hái kể về những điều xảy ra với nó. Khả năng tiếp
thu và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ ngày càng tốt hơn.
Trẻ rất thích tưởng tượng, chúng đã biết yêu cái thiện, ghét cái ác. Chính vì vậy,
trẻ rất thích nghe những câu chuyện về động vật dễ thương, thiện ác phân minh,
kết thúc có hậu. Trẻ không những tự mình xây dựng cốt truyện mà còn có thể

thuật lại những câu chuyện nó đã nghe người khác kể. 1.1.2. Trò chơi dân gian
với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 1.1.3.1. Khái niệm trò chơi dân gian Trò
chơi dân gian trẻ em là một loại hoạt động văn hóa dân gian dành cho trẻ em,
được lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác nhằm
thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí và giáo dục trẻ em một cách tinh tế nhẹ
nhàng. Những trò chơi này được tổ chức nhằm tạo cho trẻ những cảm giác hứng
thú, thoải mái, phát triển vận động kết hợp với lời nói. 1.1.3.2. Đặc điểm của
trò chơi dân gian trẻ em Trò chơi dân gian
là một loại hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc của mỗi dân tộc. Không có
dân tộc nào lại không có những trò chơi riêng cho trẻ em. Bởi trò chơi dân gian
thường đơn giản, dễ chơi, dễ hòa nhập. Ở bất cứ đâu, trong gia đình, trong lớp
học hay ở thôn xóm, trong các bản làng đều có thể tổ chức trò được trò chơi dân
gian phù hợp: ở sân nhỏ thì có thể chơi “ô ăn quan”, “đá cầu”, … rộng hơn thì
chơi “bịt mắt bắt dê”, “rồng rắn lên mây”, “trốn tìm”, “mèo đuổi chuột”,… Vật
liệu để chơi trò chơi dân gian cũng thật đơn giản, không cầu kỳ, tốn kém, dễ
15


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

kiếm, dễ tìm, có sẵn trong thiên nhiên như: nắm sỏi, cọng cỏ, lá hay những mẩu
gỗ,… chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng. Song, hầu hết các trò chơi dân
gian của trẻ em đều gắn liền với những bài đồng dao với đặc điểm ngôn ngữ của
đồng dao mang tính giản dị, mộc mạc, vô tư, hồn nhiên, vui tươi và ngộ nghĩnh.
Có thể đó là những câu vè ngắn gọn, có nhịp điệu, âm thanh dễ thuộc, dễ nhớ
thường được sử dụng trong khi chơi các trò chơi như là: “dung dăng dung dẻ”,
“thả đỉa ba ba”, “chi chi chành chành”, hay “rồng rắn lên mây” là trò chơi gắn
với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn
kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp: “Rồng rắn lên mây Có cây lúc lắc Có
nhà khiển binh Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không?...” Logic của đồng dao

chính là logic của trò chơi, nhưng cũng không thể bắt nó phải theo cái logic của
hiện thực mà mang tính nhảy cóc. Ta có thể hiểu rằng không ai có thể giải thích
được: “Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa” Là cái gì? Tại sao lại: “Cái cống
nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Phật ngồi phật khóc Con cóc
nhảy ra….” Cũng bởi cái lối nhảy cóc đó lại là yếu tố gắn bó với trò chơi để đưa
các em vào với thế giới của trò chơi, khác với thế giới ở bên ngoài lại tạo nên
tính hấp dẫn cho đứa trẻ. Ta dễ nhận thấy một biện pháp tu từ học rất tiêu biểu
cho đòng dao là biện pháp nói ngược, trái hẳn với cái logic thực tế, logic của
cuộc đời, chính vì nó đảo như vậy mới tạo sự hấp dẫn. Chẳng hạn như: 15 “Trời
làm một trận mưa rào Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô Thóc giống đuổi chuột
trong bồ Đong đong càn cấn đuổi cò ngoài ao” Hay là: “Bao giờ cho đến tháng
ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả
hồng nuốt lão tám mươi Nắm xôi nuốt trẻ lên mười Chân giò, chai rượu nuốt
người lao đao. Lúa mạ nhảy lên ăn bò Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu Gà con
đuổi bắt diều hâu Chim ri đánh đuổi vỡ đầu bồ nông”. Hoặc: “Bao giờ cho chuối
có cành Cho sung có nụ, cho hành có hoa Bao giờ cho khỉ đeo hoa Cho voi đánh
sáp, cho gà nhuộm răng”. Biện pháp nói ngược ngộ nghĩnh này rất phù hợp với
không khí của trò chơi, vì nó làm cho trẻ vui thích, kích thích tính tò mò, ham
tìm hiểu của chúng. Mặt khác, nội dung của những bài đồng dao chứa đựng nội
16


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

dung giáo dục cho trẻ nhiều mặt. Bởi lẽ đồng dao có chứa đựng những lời mộc
mạc, hồn nhiên có vần có điệu. Đồng dao là của trẻ em nên đồng dao có tính
chất vui chơi phù hợp với tâm sinh lí của trẻ. Đồng dao gợi lên tình yêu hồn
nhiên của trẻ đối với con ong, cái kiến, con cò, con vạc, con trâu, con nghé,…
Khi trực tiếp tham gia vào trò chơi, trẻ hát đồng dao và qua đó trẻ tiếp thu được
những điều hay lẽ phải một cách tinh tế, nhẹ nhàng, thoải mái. Trò chơi dân gian

gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Trong trò chơi, con người (đặc biệt là trẻ) và
thiên nhiên hòa quyện vào với nhau, thiên nhiên trở nên có hồn và gần gũi với
trẻ từ lúc nào. “cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả mơ có
hạt...” là bài đồng dao thường hát để chơi chuyền 16 dụng cụ là một quả bóng
(có thể được thay bằng một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót
tròn. Trò chơi dân gian được sáng tác dựa trên mô phỏng bắt chước hoạt động
của người lớn trong xã hội nhưng không phụ thuộc vào nghiêm ngặt vào sự thay
đổi của cuộc sống đang diễn ra hằng ngày mà phát triển theo những quy luật
riêng, ít nhiều mang tính chất ổn định. Chúng vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi
cuộc sống đã thay đổi. Ví dụ: Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay ngày
một phát triển cao, những trò chơi: “bịt mắt bắt dê”, “kéo co”, “trốn tìm”, “ô ăn
quan”, “thả diều”,… vẫn còn tồn tại và được trẻ em đón nhận một cách thích thú
say mê. Nhưng chính nó vì được sáng tác dựa trên hiện thực cuộc sống lao động
và sinh hoạt của con người, nên khó có thể tìm ra được ai là tác giả của những
trò chơi này, và cũng khó xác định được ngày, tháng, năm ra đời của chúng. Trò
chơi dân gian của trẻ em được chia thành bốn loại:
a. Loại trò chơi vận động: Gồm các trò chơi cho trẻ em vận động chân tay,
chạy nhảy, lộn vòng, gây không khí vui nhộn và sinh động như “tập tầm vông”;
“dung dăng dung dẻ”; “lộn cầu vồng”; “lò cò”; “bịt mắt bắt dê”;… Những trò
chơi này thường được chơi ở ngoài trời để tiếp xúc với thiên nhiên, với cảnh vật
xung quanh, nhằm tăng cường sức khoẻ và các tố chất về thể lực cho trẻ em.
b. Loại trò chơi học tập: Đó là trò chơi nhằm phát huy trí tuệ của trẻ em,
dạy cho các em biết quan sát, tính toán. Có khi chỉ là một bài đồng dao, trẻ em
17


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

ngồi quây quần với nhau cùng hát, cùng đối thoại để giới thiệu các sự vật xung
quanh mình, tiếp thu tri thức về cuộc sống. Có khi là trò chơi bày cách tính toán

hẳn hoi, như trò chơi: “ô ăn quan”, tập cho trẻ em biết cách làm phép trừ, phép
cộng, hoặc như trò chơi “chuyền thẻ”, rõ ràng đây là một bài học đếm từ 1 đến
10, giúp phát triển trí tuệ cho trẻ.
c. Loại trò chơi mô phỏng: Đây là những trò chơi mà trẻ mô phỏng, bắt
chước cách sinh hoạt của người lớn như làm nhà, cấy ruộng, nấu ăn,… Trong
khi chơi trẻ em thi nhau xem ai làm đẹp, làm đúng, làm nhanh hơn. Đặc biệt
những trò chơi này có tác dụng phát huy trí tưởng tượng của trẻ em, mẩu lá cũng
được xem là món ăn ngon, vỏ sò, vỏ hến cũng được xem là những cái nồi niêu,
bát đũa, cái mo cau biến thành con ngựa. Trong trò chơi này, các em hoá thân,
nhập vai thành những người lớn mà các em thích. Nhờ đó trẻ nhập vào các mối
quan hệ xã hội, học được cách ứng xử giữa người lớn với nhau, qua đó mà trẻ
học làm người. Loại trò chơi sáng tạo: Đây là những trò chơi trong đó trẻ em tự
tay làm nên những đồ vật bằng vật liệu trong thiên nhiên, như xếp lá dứa thành
cái chong chóng, xếp lá đa thành con trâu, xếp lá chuối thành con cào cào, kết
hoa thành vòng vàng xuyến bạc, tết những cọng rơm, cọng rạ thành những hình
người. Những trò chơi này giúp các em khéo tay, phát huy sáng kiến, khơi dậy
khiếu thẩm mĩ cần cho cuộc sống và lao động sau này.
1.1.3.3. Vai trò của trò chơi dân gian trong việc giáo dục trẻ
Có thể nói rằng, trò chơi dân gian là một hoạt động có tác động mạnh mẽ
đến trẻ em, nó là phương tiện giáo dục nhân cách toàn diện cho trẻ em. Trước
hết, trò chơi dân gian cung cấp cho trẻ những kiến thức xã hội cần thiết cho cuộc
sống của trẻ: Trẻ tập đi mua bán, tập làm nhà cửa, tập cưỡi trâu, cưỡi ngựa trong
tưởng tượng, trẻ tập làm quen với các nghề nghiệp trong xã hội… Trong khi
chơi, trẻ tiếp thu được những điều hay lẽ phải, biết yêu cái đẹp và nhìn nhận
cuộc sống một cách phong phú hơn, hơn nữa trẻ còn rèn luyện được những thói
quen cần thiết cho cuộc sống hiện thực. Khi trẻ hòa mình vào thế giới trò chơi,
trẻ sẽ được trải nghiệm với các mối quan hệ giữa con người và con người, giữa
18



Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

con người với thiên nhiên. Vai trò giáo dục nhân cách văn hoá cho trẻ em của trò
chơi dân gian là rất có hiệu quả. Khôi phục và tổ chức trò chơi dân gian, một di
sản văn hoá dân tộc cho trẻ em chúng ta ngày hôm nay nhằm để lại một “nét hoa
văn” mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong tâm hồn của thế hệ mầm non đang
trong thế kỷ XXI. Thật vậy, trò chơi dân gian rất giàu yếu tố tưởng tượng, phù
hợp với đặc điểm phát triển tâm lí của các em. Đối với trẻ em mọi vật đều như
có hồn. Chúng có thể trò chuyện với cỏ cây, hoa lá, các loài vật, đồ vật xung
quanh và hình dung rất hồn nhiên, chân thực rằng đó là những cuộc đối thoại hết
sức thú vị như được trò chuyện với những người bạn thân thiết của mình. Trong
khi chơi, trẻ biết sử dụng vật này để thay thế cho vật kia, biết đóng các vai khác
nhau khi thì vai người mẹ, khi thì vai người bác sĩ, học sinh, người bán hàng, có
thể trẻ sẽ tưởng tượng ra các điều khác nhau mà đối với trẻ cũng trở nên thú vị
hơn,… Với đầu óc giàu sức tưởng tượng, trẻ thấy được con sên biết lên công
chúa, con cua biết cắp giỏ theo hầu và ông trăng biết xuống chơi cho có bầu, có
bạn… Hơn nữa, trò chơi dân gian còn là phương tiện để phát triển ngôn ngữ
mạch lạc, chính xác và có hiệu quả. Bởi khi tham gia vào trò chơi, trẻ được ca
hát, nhảy múa, đối đáp, hay phải sáng tạo từ ngữ,… mục đích phát huy tính tích
cực chủ động của trẻ Qua đó, vốn từ của trẻ trở nên phong phú, ngôn ngữ mạch
lạc hơn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Một số trò chơi dân gian thường sử dụng cho trẻ MGN (4 - 5
tuổi)
1.2.1.1. Nội dung Kho tàng các trò chơi dân gian
Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Với mỗi lứa tuổi lại có những trò
chơi phù hợp với đặc điểm hình thành và phát triển của trẻ. Ở độ tuổi 4 - 5 tuổi
là giai đoạn trẻ đang phát triển mạnh về ngôn ngữ, trí tuệ, trẻ đã nhận thức rõ rệt
hơn, khả năng chú ý của trẻ cũng cao hơn. Do vậy, những trò chơi dân gian dành
cho trẻ trong giai đoạn này có phức tạp, dài và khó hơn so với lứa tuổi mẫu giáo

bé, lớp nhà trẻ.

1.2.1.2. Định hướng chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
19


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là trẻ vừa chơi vừa hát hay đọc
các bài đồng dao đi kèm với trò chơi. Chính vì thế mà chúng ta nên sử dụng các
các bài hát, các bài đồng dao đó để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Với sự phát triển
về trí tuệ của trẻ, nhận thức của trẻ đã nhanh hơn trước. Do đó, ta nên cho trẻ
đọc và thuộc những bài hát và những bài đồng dao để trẻ củng cố vốn từ, khả
năng diễn đạt và phát âm chính xác của trẻ. Hơn nữa, việc cho trẻ giao tiếp trong
khi chơi là rất quan trọng, bởi như vậy phát triển khả năng nói mạch lạc của trẻ.
1.2.2. Khảo sát thực trạng tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ MGN
(4 - 5 tuổi) ở trường mầm non
1.2.2.1. Mục đích khảo sát Quá trình khảo sát nhằm tìm hiểu:
- Thực trạng về trình độ giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trẻ MGN (4 - 5
tuổi). - Thực trạng của giáo viên về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ MGN (4 - 5
tuổi) thông qua trò chơi dân gian. - Thực trạng mức độ phát triển ngôn ngữ của
trẻ MGN (4 - 5 tuổi) thông qua trò chơi dân gian.
1.2.2.2. Nội dung khảo sát
- Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về việc dạy trẻ MGN (4 - 5 tuổi) qua trò
chơi dân gian nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dự giờ quan sát giáo viên tổ chức dạy trẻ MGN (4 - 5 tuổi) chơi trò chơi
dân gian, ghi chép các biện pháp giáo viên sử dụng.
- Nghiên cứu giáo án (kế hoạch) hướng dẫn trẻ MGN (4 - 5 tuổi) chơi trò
chơi dân gian.
- Đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ MGN (4 - 5 tuổi) thông

qua trò chơi dân gian.
1.2.2.3. Đối tượng khảo sát
- Giáo viên dạy lớp MGN (4-5 tuổi): 8 giáo viên
- Trẻ lớp MGN (4 - 5 tuổi): 60 trẻ
1.2.2.4. Địa bàn khảo sát - Ba điểm trường mầm non Sao Mai - huyện
Mai Sơn - tỉnh Sơn la.

20


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

1.2.2.5. Thời gian khảo sát Từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 05 năm
2015 20
1.2.2.6. Phương pháp khảo sát
* Phương pháp khảo sát bằng phiếu Anket
+ Đối với giáo viên:
- Mục đích: Tiến hành khảo sát để thu thập ý kiến của các giáo viên mầm
non nhằm tìm hiểu về nhận thức về tác động của trò chơi dân gian tới sự phát
triển của trẻ đặc biệt là sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, nhận thức của giáo viên
trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua trò chơi dân gian - Các bước
tiến hành:
- Bước 1: Phát phiếu khảo sát cho giáo viên
- Bước 2: Tiến hành phân tích, tổng hợp kết quả theo nội dung khảo sát
- Bước 3: Nhận xét thực trạng, phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
- + Đối với trẻ
- - Mục đích: Sử dụng các phiếu đánh giá thực trạng ngôn ngữ của trẻ
MGN (4 - 5 tuổi) nhằm tìm hiểu mức độ ngôn ngữ của trẻ.
- 1.2.2.7. Kết quả khảo sát đối với trẻ
- Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng ngôn ngữ của trẻ MGN (4 - 5 tuổi)

thông qua các trò chơi dân gian theo phiếu đánh giá. Đánh giá 60 trẻ tại trường
mầm non Sao Mai - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La. Chúng tôi đã xây dựng những
tiêu chí đánh giá như sau:
Bảng 1.1. Các tiêu chí đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ
thông qua một số trò chơi dân gian.
T T Các tiêu chí Mức độ
Xếp loại 1
1 Khả năng phát âm
+ Diễn đạt dễ dàng
+ Diễn đạt bình thường
+ Diễn đạt khó khăn
21


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

+ Không diễn đạt được Tốt Khá Trung bình Yếu
2 Khả năng hiểu từ
+ Nhanh + Bình thường
+ Chậm
+ Không hiểu Tốt Khá Trung bình Yếu
3 Khả năng hiểu nội dung trò chơi
+ Nhanh
+ Bình thường
+ Chậm
+ Không hiểu Tốt Khá Trung bình Yếu
1.2.2.8. Kết quả khảo sát đối với giáo viên Thực trạng trình độ đào tạo
của giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ MGN (4 - 5 tuổi) trường mầm non Sao
Mai được điều tra.
+ Trình độ đào tạo:

- Giáo viên có trình độ ĐHSP mầm non là:
6 giáo viên - Giáo viên có trình độ CĐSP mầm non là: 1 giáo viên - Giáo
viên có trình độ TCSP mầm non là: 1 giáo viên - Giáo viên có trình độ SCSP
mầm non: 0 - Giáo viên chưa qua đào tạo: 0
+ Thâm niên công tác:
- Dưới 5 năm: 0 giáo viên
- Từ 10 - 15 năm:
2 giáo viên - Từ 15 năm trở lên: 6 giáo viên Qua số liệu điều tra trên, ta
thấy tại trường mầm non mà tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên có trình độ từ
trung cấp trở lên đến đại học và đa số các giáo viên đều có thâm niên công tác
lâu năm tại các các lớp MGN (4-5 tuổi). Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho
việc chăm sóc và giáo dục trẻ MGN (4-5 tuổi).
+ Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc nâng cao chất lượng hoạt
động cho trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi dân gian. Tôi điều tra
8 giáo viên của trường mầm non Sao Mai, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Sau khi
22


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

điều tra, tôi thấy nhận thức của giáo viên về việc nâng cao chất lượng hoạt động
cho trẻ như sau:
- Khi hỏi về: “Tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ có tác động như thế nào
đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ?” Tất cả các giáo viên được điều tra đều
cho rằng trò chơi dân gian tác động mạnh đến sự phát triển vốn từ, khả năng
phát âm, hiểu nghĩa của từ và khả năng nói mạch lạc của trẻ. - Khi hỏi về: “Vận
dụng quan điểm tích hợp vào trò chơi dân gian hay không?” 100% các giáo viên
đều trả lời có và giải thích về tác dụng của việc tích hợp vào trò chơi dân gian và
cách lựa chọn nội dung phù hợp để tích hợp. Bởi vì chỉ có vận dụng quan điểm
tích hợp vào trò chơi mới đem lại sự nhận thức đầy đủ cho trẻ. Trẻ được trải

nghiệm, khám phá trên thực tế cũng như trên lý thuyết của bài dạy. Kiến thức
được gắn kết với nhau và tạo một thể thống nhất trong quá trình nhận thức của
trẻ.
Kết quả trên cho thấy, phần lớn các giáo viên đã xác định được tác động
lớn của trò chơi dân gian đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ và cách tích hợp
các nội dung phù hợp vào trò chơi.
Tổng kết chương 1
Trong chương này, tôi đã đề cập đến những cơ sở lý luận và thực tiễn về
ngôn ngữ của trẻ MGN (4- 5 tuổi) và khả năng tiếp nhận trò chơi dân gian của
trẻ. Đặc biệt, khóa luận đi nghiên cứu về đặc điểm và vai trò của trò chơi dân
gian; bởi trò chơi dân gian là một loại hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc của
dân tộc, nó có tác động mạnh mẽ tới trẻ. Thông qua các trò chơi dân gian mà trẻ
thu nhận được các biểu tượng một cách chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Vì với trẻ
em ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời đã có nhu cầu dùng ngôn ngữ để
giao tiếp, để khám phá môi trường xung quanh. Trong đó việc sử dụng trò chơi
dân gian để nhằm giúp trẻ giao tiếp, tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh
được coi là vấn đề hết sức quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Hơn nữa, qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri thức mà trẻ đã tiếp thu,

23


Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

lĩnh hội được vào trò chơi. Nhờ đó trẻ nhớ được ngôn ngữ, đồng thời tạo ra các
tình huống nhằm giúp trẻ sử dụng vốn từ đã tích lũy được một cách triệt để.

24



Tên đề tài:Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua một số trò chơi dân gian

CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU
GIÁO NHỠ (4 - 5 TUỔI) THÔNG QUA MỘT SỐ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
2.1. Khái niệm biện pháp Biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ là các cách làm, cách giải quyết các vấn đề cụ thể, đưa ra những
cách thức cụ thể nhằm áp dụng vào giải quyết các vấn đề về ngôn ngữ cho trẻ
mầm non, giúp trẻ phát triển số lượng vốn từ, cấu trúc ngữ pháp và khả năng nói
mạch lạc.
2.2. Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
2.2.1. Biện pháp trình chiếu video mẫu trò chơi
2.2.1.1. Mục tiêu và ý nghĩa Sử dụng video
nhằm truyền đạt nội dung của trò chơi đến với trẻ giúp trẻ hiểu rõ ràng và
chơi thành thạo thông qua việc khai thác những điểm mạnh của kỹ thuật hiện
đại. Qua video mà trẻ được xem, trẻ không chỉ tiếp nhận được trò chơi một cách
đẩy đủ mà còn giúp trẻ tiếp cận được với cái mới mà công nghệ thông tin đem
lại. Hơn nữa vừa tiện lợi lại tiết kiệm được nhiều thời gian hơn. Mục tiêu của
việc trình chiếu video trong trò chơi dân gian không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ
được tên trò chơi, cách chơi mà trẻ còn phải biết lựa chọn, sử dụng những từ
ngữ để áp dụng vào trò chơi. Qua đó trẻ sẽ biết bộc lộ, thể hiện những suy nghĩ,
cảm nhận của mình về cái hay của trò chơi.
2.2.1.2. Yêu cầu Video được trình chiếu phải đảm bảo tính thẩm mỹ,
màu sắc, kích cỡ.
Video phải thích hợp với góc nhìn của trẻ và tạo được sức hấp dẫn cho trẻ,
âm thanh phù hợp và thu hút trẻ. Trong video phải có đầy đủ quy trình của trò
chơi, đảm bảo chính xác về nội dung của trò chơi. Ngôn ngữ trong sáng, mang
màu sắc dân gian và phù hợp với lứa tuổi mầm non. Sử dụng video để truyền đạt
tới trẻ, sẽ giúp trẻ bắt chước cách chơi một cách nhanh hơn. Hình ảnh kết hợp
với âm thanh tạo sự hứng thú cuốn hút đối với trẻ. Tuy nhiên, ngôn ngữ trong
các video cho trẻ xem có tác động tới trẻ rất lớn khiến cho trẻ nhập tâm hơn, từ

đó hình thành thái độ, tình cảm cho trẻ một cách sâu sắc.
25


×