Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TOÁN học VIỆT NAM THỜI kỳ CÁCH MẠNG từ năm 1945 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA KHOA HỌC – TỰ NHIÊN

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TOÁN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ CÁCH
MẠNG TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
4. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
6. Tầm quan trọng đối với khoa học thực tiễn...........................................3
7. Bố cục của tiểu luận..............................................................................3
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ CÁCH
MẠNG TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975..........................................................5
Chương 2: TOÁN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1975...............6
2.1. Những nét chính của Toán học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.........6
2.2. Một số nhân vật tiêu biểu của Toán học Việt Nam giai đoạn 19451975...................................................................................................................9
2.3. Một số ứng dụng Toán học trong thực tế..........................................17
2.3.1. Công trình "Về bài toán thấm qua hai lớp đất" - GS Lê Văn
Thiêm............................................................................................................17
2.3.2. Phương pháp nổ định hướng - GS Lê Văn Thiêm......................17
2.3.3. Bài toán “Vận trù học” – GS Hoàng Tụy...................................18
KẾT LUẬN...............................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................21



2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, có rất ít công trình nghiên cứu về lịch sử toán học Việt
Nam.Phần lớn các nghiên cứu đã công bố lại thuộc về các tác giả nước ngoài.Đã
đến lúc chúng ta cần đầu tư thích đáng cho việc tìm hiểu lịch sử toán học, cũng
như lịch sử khoa học tự nhiên Việt Nam.
Toán học Việt Nam ngày nay đã được thế giới biết đến với một đội ngũ các
nhà nghiên cứu và giảng dạy toán trong đại học ở các viện nghiên cứu và các
trường đại học có trình độ cao, với những tên tuổi lớn như Lê Văn Thiêm,
Hoàng Tụy, Ngô Bảo Châu, Vũ Hà Văn,...
Để có được những thành tựu toán học như ngày nay, Việt Nam chắc hẳn có
những truyền thống nghiên cứu, truyền bá và ứng dụng toán học ở trình độ nhất
định. Một câu hỏi đặt ra là: Quá trình phát triển của nền toán học Việt Nam
diễn ra như thế nào trong kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước,
trong điều kiện khó khăn của chiến tranh?
Với mong muốn tìm hiểu về toán học Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: "Tìm
hiểu về toán học Việt Nam thời kỳ Cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975" làm
đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong tiểu luận này, tôi nghiên cứu tổng quan về Quá trình phát triển của
toán học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975:
1.

Trình bày khái quát Bối cảnh lịch sử ảnh hưởng đến sự phát triển

toán học Việt Nam từ cách mạng Tháng tám năm 1945 đến năm 1975.

2.

Trình bày các sự kiện, quá trình phát triển, giới thiệu một số nhân

vật tiêu biểu của toán học Việt Nam thời kỳ Cách mạng 1945-1975.
3. Giới thiệu một số công trình nghiên cứu có ứng dụng trong thực tế ở
Việt Nam trong giai đoạn này.

3


3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Toán học Việt Nam thời kỳ Cách mạng từ năm
1945 đến năm 1975.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận này là bối cảnh lịch sử, những nét chính
của quá trình phát triển, một số nhân vật tiêu biểu và các ứng dụng trong thực tế
của toán học Việt Nam thời kỳ Cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đọc và nghiên cứu các tài liệu, giáo trình và các bài báo khoa học về lịch
sử toán học Việt Nam.
6. Tầm quan trọng đối với khoa học thực tiễn
Tiểu luận này có thể làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên có
mong muốn tiếp tục tìm hiểu về lịch sử toán học Việt Nam. Với bản thân tôi,
việc nghiên cứu sự phát triển của toán học Việt Nam qua các thời kỳ là cần thiết
và thú vị, bởi sự phát triển của toán học luôn gắn liền với Khoa học và Công
nghệ, liên quan tới các ngành khác như Thiên văn, Giáo dục,...
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận này
gồm hai chương:

Chương 1: Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Cách mạng năm 1945
đến năm 1975.
Trình bày khái quát Bối cảnh lịch sử ảnh hưởng đến sự phát triển toán học
Việt Nam từ cách mạng Tháng tám năm 1945 đến năm 1975.
Chương 2: Toán học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
Chương này trình bày về những sự kiện, quá trình phát triển, giới thiệu một
số nhân vật tiêu biểu và các công trình nghiên cứu có ứng dụng trong thực tế ở
Việt Nam trong giai đoạn này.
4


Chương 1:BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ CÁCH
MẠNG TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 là thời gian nước ta trải qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài suốt 30 năm.Nền toán
học Việt Nam thực chất mới bắt đầu hình thành từ sau cách mạng Tháng tám.Do
điều kiện khó khăn gây ra bởi chiến tranh, sự lạc hậu, chậm phát triển của nền
kinh tế nên nền toán học Việt Nam vẫn còn non trẻ. Cho đến ngày Thống nhất
đất nước, nền Toán học của ta còn rất yếu với tổng cộng chưa đến 300 công
trình được công bố.

5


Chương 2: TOÁN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1975
2.1. Những nét chính của Toán học Việt Nam giai đoạn 1945-1975
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã quyết định thành lập trường Đại học Khoa học và cử GS. Nguyễn Thúc
Hào làm Quyền giám đốc kiêm Tổng thư ký. Về Toán học, ngoài lớp Toán học
đại cương do GS. Nguyễn Thúc Hào giảng dạy, còn có các lớp Cơ học Lý

thuyết do GS. Hoàng Xuân Hãn giảng và Cơ học Thống kê do GS. Tạ Quang
Bửu phụ trách. Trường mới hoạt động được vài tháng thì cuộc Kháng chiến
chống Pháp bùng nổ. Trường phải tạm thời đình giảng và tản cư ra khỏi Hà Nội.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, GS. Nguyễn Thúc Hào tản cư về quê nhà
ở Nghệ An và được Bộ Giáo dục giao nhiệm vụ mở các lớp Toán học đại cương
ở đó. Các lớp này tiếp tục học cho đến năm1951 thì sát nhập vào Trường Dự bị
đại học và Trường Sư phạm cao cấp, hoạt động ở vùng Tự do khu IV cho đến
tận ngày hòa bình lập lại, năm 1954.
Ở Việt Bắc, vào các năm 1948-1949, GS. Nguyễn Xiển cũng mở một lớp
Toán đại cương và có khoảng 15 học viên tham dự. Thời gian đầu, các học viên
tự học lấy phần lý thuyết là chính, sau đó gửi bài làm về để thầy chấm. Lớp
được tập trung tại xã Đại Điền, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Yên, dưới chân núi
Tam Đảo. Năm 1949, khi Pháp tấn công lên Vĩnh Yên, học viên phải lánh vào
hang đá, rồi rút về nhà. Lớp học tạm thời đình giảng.
Cuối năm 1949, GS. Lê Văn Thiêm từ Paris bay về Bangkok, rồi xuyên
qua rừng Campuchia, về bưng biền Nam Bộ, tham gia kháng chiến ở Nam Bộ.
Giữa năm 1950, ông lặn lội đi bộ 6 tháng trời, theo giao liên vượt Trường Sơn
ra chiến khu Việt Bắc. Đầu năm 1951, Chính phủ kháng chiến quyết định thành
lập hai trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp và cử GS. Lê Văn Thiêm
làm hiệu trưởng cả hai trường này. Hai giáo sư Lê Văn Thiêm và Nguyễn Xiển
đã đạp xe vào tận khu IV để tuyển sinh. Hai trường này được chính thức thành
lập vào cuối năm 1951 ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Về sau cả hai trường đều
6


được chuyển sang khu Học xá Trung ương, đặt ở một xã gần thủ phủ Nam Ninh,
tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Về Toán, sinh viên hai trường học chung dưới sự
giảng dạy của các GS. Lê Văn Thiêm và Nguyễn Xiển (lý thuyết) và giáo viên
Nguyễn Cảnh Toàn (phụ trách phần bài tập).


BCH Hội Toán học Việt Nam khoá 1
Hàng đầu từ trái: Hoàng Tuỵ (thứ 3), Nguyễn Thúc Hào (thứ 4), Lê Văn
Thiêm (thứ 5), Nguyễn Cảnh Toàn (thứ 6), Nguyễn Đình Trí (thứ 7).
Nguồn: Internet
Trường Khoa học cơ bản hoạt động được 2 năm (1952 và 1953) thì dừng.
Còn trường Sư phạm cao cấp tiếp tục tuyển sinh khóa II và chuyển sang cơ sở
mới của khu học xá vừa được xây dựng xong. Khóa II bắt đầu học từ năm 1954.
Phụ trách dạy Toán có GS. Lê Văn Thiêm và các cán bộ giảng dạy Nguyễn
Cảnh Toàn và Ngô Thúc Lanh. Sau khi Hà Nội được giải phóng (10/10/1954),
trường Sư phạm cao cấp được chuyển về Hà Nội và tiếp quản cơ sở của trường
Cao đẳng Khoa học ở vùng tạm chiếm.

7


Cuối năm 1954, chính phủ ra quyết định thành lập trường Đại học Sư
phạm văn khoa do GS. Đặng Thai Mai làm hiệu trưởng và trường Đại học Sư
phạm khoa học do GS. Lê Văn Thiêm làm hiệu trưởng, trên cơ sở sát nhập các
trường: Sư phạm cao cấp ở Trung Quốc về, trường Sư phạm cao cấp và Dự bị
đại học ở khu IV ra và trường Cao đẳng khoa học ở vùng tạm chiếm. Cùng với
trường Đại học Y- Dược và trường Đại học Nông nghiệp, đó là những trường
đại học đầu tiên của nước ta sau ngày hòa bình lập lại. Phụ trách giảng Toán có
các GS. Lê Văn Thiêm và Nguyễn Thúc Hào cùng các cán bộ giảng dạy Nguyễn
Cảnh Toàn, Khúc Ngọc Khảm và Ngô Thúc Lanh.
Trường Đại học Sư phạm khoa học chỉ tồn tại có 2 năm (1955- 1956) và đã
đào tạo được 3 khóa. Khóa I gồm các sinh viên từ khu Học xá Trung ương về,
từ khu IV ra và các sinh viên ở lại Hà Nội. Khóa này học hết 1955 đến đầu năm
1956 thì tốt nghiệp. Khóa II tuyển sinh từ đầu năm 1955 và thi tốt nghiệp vào hè
năm 1956. Khóa III tuyển sinh vào hè năm 1955 và thi tốt nghiệp vào cuối năm
1956. Như vậy khóa I học hơn 2 năm, còn các khóa II và III chỉ học có 1 năm

rưỡi. Tuy thời gian học ngắn, nhưng chương trình vẫn là chương trình 3 năm
tinh giản, mỗi năm được học trong 6 tháng và không có nghỉ hè.
Sở dĩ phải đào tạo gấp rút như thế vì nhu cầu về cán bộ giảng dạy Toán,
Lý, Hóa, Sinh cho các trường đại học về khoa học và kỹ thuật sắp mở là rất lớn
và rất cấp bách. Trong khi đó, nguồn duy nhất cung cấp cán bộ giảng dạy cho
các trường này chỉ trông chờ vào các sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Sư
phạm khoa học. Vì thế vào thời gian này, những sinh viên tốt nghiệp trường Đại
học Sư phạm khoa học vào loại khá giỏi, đều được phân công về làm cán bộ
giảng dạy ở các trường đại học mới mở. Những người còn lại thì được phân
công về các trường phổ thông trung học, các trường bổ túc công nông và các
trường bổ túc của quân đội. Tiêu chuẩn duy nhất để chọn cán bộ giảng dạy đại
học lúc bấy giờ chỉ là năng lực của bản thân sinh viên đã tốt nghiệp.
Trong lịch sử phát triển của nền khoa học tự nhiên ở nước ta, trường Đại
học Sư phạm khoa học, tuy chỉ tồn tại có 2 năm, nhưng đã có một vị trí cực kỳ
8


quan trọng. Ngày nay nhìn lại, có thể thấy rằng tất cả các sinh viên tốt nghiệp
loại khá, giỏi và được bổ nhiệm làm cán bộ giảng dạy ở các trường đại học hồi
ấy đều đã trưởng thành. Nhiều người đã trở thành các cán bộ khoa học tài năng,
những cán bộ khoa học đầu ngành, những cán bộ quản lý khoa học có uy tín.
Đầu năm 1956, hai trường Đại học Sư phạm văn khoa và Đại học Sư phạm khoa
học đã nhập lại để rồi sau đó lại tách ra thành hai trường mới và hoàn chỉnh hơn
là trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Từ sau năm 1945, một số người đi học ở nước ngoài, cộng thêm việc mở
mang giáo dục đã nâng cao nghiên cứu toán học của Việt Nam. Các trường đại
học đã mở thêm các chuyên khoa toán. Viện Toán học Việt Nam thành lập năm
1969. Hội Toán học Việt Nam, các tạp chí toán học chuyên ngành như "Toán
học và Tuổi trẻ", Acta Mathematica Vietnamica" và "Vietnam Journal of
Mathematics", một số diễn đàn toán học online đã giúp cho việc trao đổi kiến

thức toán học phát triển mạnh mẽ.
2.2. Một số nhân vật tiêu biểu của Toán học Việt Nam giai đoạn 19451975
Như thường thấy, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có những người
"Anh hùng" của nó. Đối với giai đoạn sơ khai của nền toán học Việt Nam, đó là
những nhà toán học đi tiên phong và có nhiềuđóng góp cho sự hình thành và
phát triển của toán học ở nước ta mà mỗi khi nhắc đến giai đoạn này người ta
không thể không nhắc đến tên tuổi, công lao và sự cống hiến to lớn của họ. Có
thể kể ra ở đây các nhà toán học đi tiên phong, tiêu biểu trong giai đoạn này của
toán học Việt Nam:
Giáo sư Nguyễn Xiển (1907 - 1997): Nhà toán học ứng dụng đầu tiên
củaViệt Nam.
Ông sinh ngày 27 tháng 7 năm 1907 tại Thành phố Vinh, Nghệ An trong
một gia đình nho học lâu đời. Hồi nhỏ, ông học trường Quốc học Vinh. Sau khi
đậu bằng thành chung, ông ra Hà Nội và học ở trường Bưởi (nay là trường Chu
9


Văn

An).

Năm 1926, do tham gia bãi khóa để tang cụ Phan Chu
Trinh, ông bị đuổi học và bị cấm thi luôn kỳ thi tú tài
bản xứ. Cùng với một số bạn bãi khóa khác, ông quyết
chí tự học và đã đỗ đầu kỳ thi tú tài tây ở Hà Nội và
đoạt luôn cả xuất học bổng sang Pháp du học, do trường
Đại học Toulouse (Pháp) cấp.
Năm 1932, học xong về nước nhưng ông không ra
làm quan ở Huế mà ra Hà Nội dạy học. Năm 1941, ông
phụ trách đài khí tượng Phù Liễn, Kiến An. Thời gian này ông cộng tác với

Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông, Ngụy Như Kon Tum xuất bản báo Khoa
học bằng tiếng Việt với mục đích truyền bá ý tưởng và phương pháp khoa học,
góp

phần

xây

dựng

một

nền

khoa

học

mới

cho

đất

nước.

Ông đã dạy giáo trình Toán đại cương và Toán cao cấp cho các lớp Cao đẳng Sư
phạm trong nhiều năm tại trường Đại học Khoa học Hà Nội và trở thành nhà
toán ứng dụng đầu tiên của Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông đươc cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban

Hành chính Bắc Bộ. Từ sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) ông làm
công tác giáo dục và là một trong số những người đầu tiên có công xây dựng
ngành giáo dục Đại học Việt Nam. Ngoài làm khoa học ra, giáo sư Nguyễn Xiển
còn là một chính khách. Ông từng giữ chức Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam
(1956-1988), Phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam (1960 1987). Ông được nhà nước tặng thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm
1996 về Khoa học - Kỹ thuật. Ông mất ngày 9 tháng 11 năm 1997, hưởng thọ
90 tuổi.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908 -1996): Nhà toán - cơ Việt Nam đầu
tiên.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê ở làng Yên Hồ, huyện La
Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
10


Thuở nhỏ, ông học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại
quê nhà. Năm 1926, sau khi đậu bằng thành chung, ông
ra Hà Nội học. Lúc đầu ông học ở trường Bưởi. Về sau
theo thiên hướng yêu thích toán, ông chuyển sang học
ban Toán ở trường (Ly- cée) Albert Sarraut. Năm 1928
ông đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận
học bổng của chính quyền Đông Dương sang du học ở
Pháp, học lớp dự bị đại học để thi vào các trường "lớn"
của nước Pháp. Năm 1930, ông thi đỗ vào cả hai
trường lớn là trường Sư phạm cao cấp (École Normale Supérieure) và trường
Đại học Bách khoa (École Polytechnique) ở Paris. Ông đã chọn trường Bách
khoa Paris để học. Trong thời gian học ở đó, ông bắt đầu biên soạn cuốn sách
Danh từ khoa học. Trong khoảng thời gian 1932-1934, ông theo học trường Cầu
đường Paris (École Nationale des Ponts et Chaussées). Năm 1936 ông về nước
và dạy Toán ở trường Bưởi từ 1936 - 1939. Thời gian này ông hoàn tất cuốn
Danh từ khoa học. Năm 1945, trường Đại học Khoa học được thành lập ở Hà

Nội và ông được mời giảng dạy môn Cơ học. Năm 1951, ông trở lại Paris và
sống ở Pháp cho đến cuối đời. Thời gian này ông chuyên nghiên cứu về văn hóa
và lịch sử Việt Nam. Giáo sư Hoàng Xuân Hã mất ngày 10 tháng 3 năm 1996,
thọ 88 tuổi. Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh cho các công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hoá Việt Nam. Tháng
8 năm 2011, trường Đại học Cầu đường Paris trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày
thành lập đã lấy tên ông đặt cho một giảng đường của trường: Giảng đường
Hoàng Xuân Hãn.
Giáo sư Tạ Quang Bửu (1910 - 1986): Nhà đại số và vật lý lý thuyết
đầu tiên của Việt Nam.
Ông sinh ngày 23 tháng 7 năm 1910 trong một gia đình nhà giáo tại thôn
Hoành Sơn, xã Nam Hoành, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1922 ông thi
đỗ vào trường Quốc học Huế, ông học trường Quốc học Huế một thời gian, sau
11


chuyển ra Hà Nội, học trường Bưởi. Năm 1929, ông thi
một lúc cả hai hệ tú tài bản xứ và tú tài Tây và đỗ đầu
cả hai hệ. Ông nhận được học bổng của hội Như Tây
Du học của thượng thư Nguyễn Hữu Bài sang Pháp du
học với thời gian được cấp học bổng là 4 năm. Đến
Pháp năm 1929, ông xác định cho mình học sao cho
thu nhận được nhiều kiến thức nhất chứ không quan
tâm nhiều đến việc học để thi cử lấy bằng cấp như mọi
người. Do vậy ông đã đăng ký học lớp Toán đặc biệt của trường Louis le Grand
về Toán học và Vật lý lý thuyết, đăng ký học cử nhân toán ở viện Henri
Poincaré. Ông đã đến nghe giảng ở cả giảng đường Hermite (dành cho cử
nhân), tham dự các buổi séminar ở giảng đường Darboux (dành cho những
người trên đại học). Tại các nơi này, ông có dịp tiếp xúc với nhiều nhà toán học
trẻ của nước Pháp, trong đó có nhóm Nico- las Bourbaki. Từ năm 1930 cho đến

năm 1934, ông theo học chương trình cử nhân khoa học ở Đại học Sorbonne,
học toán tại Đại học Bordeaux, sang trao đổi một thời gian và học thêm vật lý
lượng tử tại Đại học Oxford (Anh).
Trở về nước năm 1934, ông không ra làm quan mà đi dạy tư để kiếm sống.
Ông dạy toán và tiếng Anh tại các trường tư, ban đầu là trường Phú Xuân, sau là
trường Thiên Hựu ở Huế. Bên cạnh đó, hoạt động trong phong trào Hướng đạo
sinh, ông chơi thể thao và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho các học sinh
như đánh bóng bàn theo kiểu của Barma (đương kim vô địch bóng bàn thế giới,
người Hungary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi sải kiểu
Crawl...
Tháng 8 năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa tại Hà Nội và lần lượt được giao
các trọng trách như Bộ trưởng bộ Quốc phòng, rồi Ủy viên Hội đồng Quốc
phòng tối cao... Tuy kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau, ông vẫn dành nhiều
thời gian để truyền thụ kiến thức của mình cho các thế hệ học trò. Ngay trong
những ngày Cách mạng mới thành công, ông vừa tham gia các công việc của
12


chính phủ, vừa đảm nhận giảng dạy môn Vật lý và Cơ học thống kê tại Đại học
Khoa học Hà Nội.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, giáo sư Tạ Quang Bửu là thứ trưởng
bộ Quốc phòng và là người thay mặt cho chính phủ Việt Nam ký Hiệp định
Genève.
Sau năm 1954, ông tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên
cứu khoa học. Ông được cử làm hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Hà Nội
(1956- 1961) đồng thời là phó chủ nhiệm kiêm tổng thư ký Ủy ban Khoa học
nhà nước. Trong khoảng thời gian 1965-1976, ông là bộ trưởng bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
Giáo sư Tạ Quang Bửu mất ngày 14 tháng 8 năm 1986 do tai biến mạch
máu não, hưởng thọ 76 tuổi. Năm 1996 ông được nhà nước truy tặng giải

thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật.
Giáo sư Nguyễn Thúc Hào (1912 -2009): Nhà hình học Việt Nam đầu
tiên.
Ông sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An, trong một dòng họ nhà nho nổi tiếng. Năm
1924, ông đỗ thủ khoa kỳ thi vào trường Quốc học Huế. Năm sau ông chuyển ra
Hà Nội, vào học trường Albert Sarraut. Năm 1929, ông sang Pháp, thi đỗ tú tài
Toán tại Aix-en-Provence. Ông theo học trường Đại học Khoa học Mar- seille.
Sau 4 năm học , ông có trong tay sáu chứng chỉ: Toán học đại cương, Giải tích
toán học, Vật lý đại cương, Cơ học lý thuyết, Cơ học chất lỏng và Thiên văn
học.
Năm 1935 ông trở về dạy toán tại trường Quốc học Huế.

13


Sau Cách mạng tháng 8, ông được cử làm giám đốc vụ Trung học Trung
Bộ. Một thời gian ngắn sau đó, ông được cử làm tổng thư ký kiêm giám đốc
trường Đại học Khoa học Hà Nội.
Sau khi Hà Nội được giải phóng, ông giữ chức phó hiệu trưởng trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, lúc đó giáo sư Phạm Huy Thông đang là hiệu trưởng của
trường. Sau đó là một thời gian dài 15 năm ông trở về quê hương, xây dựng
trường Đại học Sư phạm Vinh từ những ngày đấu cho đến khi ông nghỉ hưu.
Giáo sư Nguyễn Thúc Hào mất ngày 9 tháng 6 năm 2009 tại Hà Nội, hưởng thọ
97 tuổi.
Giáo sư Lê Văn Thiêm (1918 - 1991): Nhà giải tích phức và ứng dụng
toán đầu tiên của Việt Nam.
Ông sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh
Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Năm 1939 ông đứng
thứ nhì kỳ thi kết thúc lớp P. C. B. (Lý-Hóa-Sinh) và được cấp học bổng sang
Pháp du học tại trường Sư phạm cao cấp Paris (École Normale Supérieure). Ông

là người Việt Nam đầu tiên có bằng tiến sĩ toán học, không những thế lại bảo vệ

14


tại một trong những trung tâm toán học nổi tiếng nhất
vào thời gian bấy giờ là đại học Goettin- gen (Đức).
Giáo sư Lê Văn Thiêm là hiệu trưởng đầu tiên
của trường Đại học Sư phạm Hà Nội (khi đó có tên là
Đại học Sư phạm Khoa học) và trường Đại học Khoa
học Tự nhiên Hà Nội (khi đó có tên là Đại học Khoa
học Cơ bản). Ông cũng là viện trưởng đầu tiên của
Viện Toán học, viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam, và là chủ tịch đầu tiên của hội Toán học Việt
Nam.
GS Lê Văn Thiêm là tác giả của hơn 20 công trình nghiên cứu có giá trị, đã
công bố quốc tế và trong nước. Trong nghiên cứu cơ bản, ông đã giải quyết một
trường hợp quan trọng của bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna. Kết quả
này gây tiếng vang lớn.
Ông cũng đã lãnh đạo một nhóm các nhà Toán học ứng dụng phương pháp
nổ mìn định hướng phục vụ ngành giao thông thời chiến; phá núi làm kho xăng
dầu, lấy đá xây dựng khu gang thép Thái Nguyên; nghiên cứu xây dựng mô
hình toán để giải các bài toán dòng chảy, phục vụ thiết kế và thi công thủy điện
Hòa Bình và quy hoạch đồng bắng sông Cửu Long…
Giáo sư Lê Văn Thiêm được nhà nước Việt Nam truy tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh đợt 1, năm 1996, cho lĩnh vực khoa học công nghệ. Hiện nay hội
Toán học Việt Nam có một giải thưởng mang tên ông dành cho các thầy cô dạy
toán giỏi và các học sinh học giỏi toán ở bậc trung học phổ thông. Giải thưởng
này được trao hàng năm.
Giáo sư Lê Văn Thiêm mất ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại thành phố Hồ Chí

Minh, thọ 73 tuổi.
Giáo sư Hoàng Tụy (sinh năm 1927).
Giáo sư Hoàng Tụy, sinh ngày 17 tháng 12 năm 1927 tại Xuân Đài, Điện
Bàn, Quảng Nam. Cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm, ông là một trong hai người
15


tiên phong trong việc xây dựng ngành Toán học của
Việt Nam.
Tiểu sử Tháng 5 năm 1946, ông đỗ kỳ thi tú tài
phần một và bốn tháng sau đó, đỗ đầu tú tài toàn
phần ban toán tại Huế. Ông theo học Đại học Khoa
học ở Hà Nội nhưng bỏ dở. Sau đó ông được mời
dạy toán tại trường trung học Lê Khiết ở Liên khu
V.
Năm 1951, ông theo học Trường khoa học do Lê Văn Thiêm phụ trách.
Năm 1954, Hoàng Tụy bắt đầu dạy toán tại trường Đại học Khoa học, sau
là Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Tháng 3 năm 1959, Hoàng Tụy trở thành một trong hai người Việt Nam
đầu tiên bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học toán-lý tại Đại học
Lomonosov tại Moskva.
Từ năm 1961 đến 1968 ông là Chủ nhiệm Khoa Toán của Đại học Tổng
hợp Hà Nội; là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ năm 1980 đến 1989.
Năm 1964, ông đã phát minh ra phương pháp "lát cắt Tụy" (Tuy's cut) và
được coi là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự ra đời của một chuyên ngành toán học
mới: Lý thuyết tối ưu toàn cục (global optimization).
Vào tháng 8 năm 1997, Viện Công nghệ Linköping (Thụy Điển) đã tổ chức
một hội thảo quốc tế với chủ đề "Tìm tối ưu từ địa phương đến toàn cục", được
tổ chức để tôn vinh Giáo sư Hoàng Tụy, "người đã có công trình tiên phong
trong lĩnh vực tối ưu toàn cục và quy hoạch toán học tổng quát" và nhân dịp

giáo sư tròn 70 tuổi.
Tháng 12 năm 2007, một hội nghị quốc tế về "Quy hoạch không lồi" sẽ
được tổ chức ở Rouen, Pháp để ghi nhận những đóng góp tiên phong của GS
Hoàng Tuỵ cho lĩnh vực này nói riêng và cho ngành Tối ưu toàn cục nói chung
nhân dịp ông tròn 80 tuổi.

16


Trong những năm của thế kỉ 21, GS Hoàng Tuỵ đã dồn nhiều nỗ lực của
mình vào việc phê phán sự yếu kém, lạc hậu và tiêu cực trong ngành giáo dục
Việt Nam cũng như tham gia nhiều hội nghị tham luận về cải cách giáo dục.
2.3. Một số ứng dụng Toán học trong thực tế
2.3.1. Công trình "Về bài toán thấm qua hai lớp đất" - GS Lê Văn
Thiêm
Đối với trường hợp miền thấm không đồng chất, cho đến trước công trình
của Lê Văn Thiêm, người ta chỉ mới có các phương pháp giải gần đúng. Trong
công trình "Về bài toán thấm qua hai lớp đất" GS Lê Văn Thiêm đã
dùng Nguyên lý đối xứng trong giải tích phức để xây dựng được nghiệm tường
minh cho bài toán thấm qua hai lớp đất với hệ số thấm khác nhau. Đây là công
trình đầu tiên trong lĩnh vực lý thuyết nước thấm cho phép xây dựng nghiệm
giải tích của bài toán thấm không đồng chất. Điều đó đã được khẳng định trong
cuốn sách Lý thuyết chuyển động của nước ngầm của Palubarinova-Kochina
xuất bản ở Matxcơva năm 1977.
2.3.2. Phương pháp nổ định hướng - GS Lê Văn Thiêm
Do đường sắt và đường bộ bị hư hại nghiêm trọng, việc vận chuyển qua
kênh Nhà Lê trở nên rất quan trọng. Con kênh được đào từ thời Lê, đến nay đã
khá cạn. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nạo vét lòng kênh để các thuyền trọng
tải lớn có thể đi qua. Các đơn vị Thanh niên xung phong được giao nhiệm vụ
này. Tuy vậy, không thể tập trung một lực lượng lớn, vì máy bay Mỹ bắn phá

ngày đêm. Giáo sư Lê Văn Thiêm đề xuất dùng phương pháp nổ định hướng để
nạo vét lòng kênh. Mục tiêu đặt ra là làm thế nào để sau khi nổ, hầu hết đất đá
văng lên bờ, chứ không rơi lại xuống lòng kênh. Các vụ nổ được tiến hành vào
lúc thuỷ triều xuống thấp nhất để có hiệu quả cao nhất. Vì vậy, nhiều lúc phải nổ
vào những “giờ cao điểm”, tức là những giờ mà máy bay Mỹ bắn phá ác liệt
nhất.
17


Thực tế đã chứng tỏ, phương pháp nổ định hướng đã có tác dụng rất thiết
thực, góp phần tăng khả năng vận chuyển qua kênh Nhà Lê, giảm nhẹ tổn thất
về người và của. Phương pháp nổ định hướng đó cũng được áp dụng trong việc
xây dựng các con đường chiến lược trong rừng. Các đơn vị Thanh niên xung
phong đã cùng nhóm học trò nói trên của Giáo sư Lê Văn Thiêm áp dụng lý
thuyết nổ định hưởng trong việc phá đá, bạt ta-luy, hất những cây to chắn đường
xuống vực trong quá trình làm đường. Giáo sư Lê Văn Thiêm đã viết một tài
liệu hướng dẫn cho Thanh niên xung phong để họ tự làm lấy sau khi nhóm
nghiên cứu rút khỏi hiện trường. Tiếc rằng bản tài liệu đó ngày nay không tìm
lại được".
2.3.3. Bài toán “Vận trù học” – GS Hoàng Tụy
Vận trù học - bộ môn toán học, mà nói một cách nôm na, nghiên cứu các
phương pháp tiến hành công việc sao cho hiệu quả nhất: hoặc là để tiết kiệm
nhất (về thời gian, chi phí, đường đi,…), hoặc để đạt được nhiều sản phẩm
nhất. Thuật ngữ “vận trù học” hồi đó còn chưa có trong tiếng Việt. Chính Ông là
người đã đưa từ đó vào ngôn ngữ Việt Nam. Cho đến ngày nay thì không chỉ
các nhà toán học, mà hình như ai trong đời mình cũng đã từng có lần dùng chữ
“vận trù” trong khi bàn bạc công chuyện hàng ngày. Có lẽ đóng góp to lớn của
Ông không chỉ là những định lí, kết quả khoa học mà Ông đạt được trong lĩnh
vực này, mà quan trọng hơn là ở chỗ, Ông đã góp phần làm cho mọi người phải
nghĩ đến cách làm cho công việc của mình trở nên “vận trù” hơn! Từ một thuật

ngữ khó hiểu trong tiếng Hán, “vận trù” đã trở thành tiếng Việt. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong lần gặp Ông và giao cho Ông nhiệm vụ nghiên cứu cách tổ
chức bán hàng thế nào để thuận lợi hơn cho dân, đã bảo Ông tìm một từ nào đó
dễ hiểu hơn từ “vận trù”. Nhưng rồi Ông cũng không tìm được từ nào thích hợp
hơn. Bây giờ thì “vận trù” đã trở thành một từ dễ hiểu.
Công trình nghiên cứu về “quy hoạch lõm” của GS Hoàng Tụy năm 1964
đã trở thành kinh điển, và là công trình mở đầu cho một hướng nghiên cứu mới
18


trong vận trù học. Trước Ông, người ta chỉ nghiên cứu cực tiểu hoá các “hàm
lồi”, không phải vì trong thực tiễn chỉ gặp những hàm như vậy, mà chỉ vì, đối
với các hàm lồi, ta đã có những công cụ toán học để giải quyết. Khi bắt tay vào
nghiên cứu vận trù học, GS Hoàng Tụy nhận thấy rằng, thực ra, các bài toán cần
giải quyết trong cuộc sống thường lại không phải là hàm lồi, mà là hàm lõm.
KẾT LUẬN
Tiểu luận đã trình bày được những nội dung chính sau:
1. Trình bày được bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Cách mạng năm 1945
đến năm 1975.
2. Toán học Việt Nam giai đoạn năm 1945 đến 1975: Trình bày về những
sự kiện, quá trình phát triển, giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu và các công
trình nghiên cứu có ứng dụng trong thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn này.
Hướng mở rộng của tiểu luận: có thể nghiên cứu sâu hơn về các ứng
dụng trong thực tế của các công trình toán học.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Lịch sử toán học (2007), Phạm Gia Đức - Phạm Đức

Quang, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
[2] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, ( />[3] Tạp chí Pi, ().
[4] Diễn đàn Bigschool, ().

20



×