Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người việt nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.21 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC TRÂM

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC TRÂM

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Dung.

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của học viên,
có sự hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là do học viên tìm hiểu, phân
tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và
có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của học viên. Nếu phát hiện
có bất cứ sự gian lận nào, học viên xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội
đồng cũng như kết quả luận văn của học viên.
Hà Nội, ngày 12 tháng 07 năm 2016.
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn
Học viên

TS. Nguyễn Thị Dung

Nguyễn Ngọc Trâm


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sỹ Luật học,
học viên xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung, người
đã hướng dẫn cho học viên đầy nhiệt tình, tận tâm và khoa học.
Học viên cũng vô cùng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo ở Trường Đại
học Luật Hà Nội trong suốt khóa học vừa qua đã truyền đạt cho học viên nói
riêng và các học viên khác nói chung những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết

và quý báu.
Cuối cùng, học viên xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ học viên trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 12 tháng 07 năm 2016.
Học viên

Nguyễn Ngọc Trâm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
4
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
4
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
4
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6
7. Bố cục của luận văn
7
Chương 1
8
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ
Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
8
1.1. Lý luận về người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam 8
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài
8
1.1.2. Nguồn gốc hình thành cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài 10
1.1.3. Vai trò của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với sự phát triển đất
nước Việt Nam
12
1.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
16
1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
16
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
22
1.2.3. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
26
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
30
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993
30
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003
32
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013
34
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
36
1.4. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về quyền và nghĩa vụ của công
dân định cư ở nước ngoài trong quan hệ sử dụng đất
37
Kết luận chương 1
41
Chương 2
42
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
42
2.1. Các quy đinh của pháp luật về các hình thức sử dụng đất của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
42


2.2. Các quy định của pháp luật về thời hạn sử dụng đất của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
46
2.3. Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ chung của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam

49
2.3.1. Các quy định của pháp luật về quyền chung của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
49
2.3.2. Các quy định của pháp luật về nghĩa vụ chung của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
53
2.4. Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam 55
2.4.1. Quy định trong trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất
56
2.4.2. Quy định trong trường hợp cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm
57
2.4.3. Quy định trong trường hợp cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời
gian thuê
58
2.4.4. Quy định trong trường hợp được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất 59
2.5. Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghệ, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế
60
2.5.1. Quy định trong trường hợp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất 61
2.5.2. Quy định trong trường hợp thuê đất, thuê lại đất
62
2.6. Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người Việt Nam định
cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam
64
2.6.1. Quy định trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở

hữu nhà ở tại Việt Nam
64
2.6.2. Quy định trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài không
thuộc đối tượng mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
66
2.7. Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuê đất để xây dựng công trình ngầm
69
2.7.1. Quy định trong trường hợp thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê
70
2.7.2. Quy định trong trường hợp thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm
71
Kết luận chương 2
72
Chương 3
73
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
73
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
73
3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
74
Kết luận chương 3
79



KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80
82


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta từ những ngày đầu đổi mới đã luôn nhận thức
được rõ ràng vai trò quan trọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài với
tư cách là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc. Công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước hướng trọng tâm vào xây dựng kinh tế với việc xác định
lợi ích của người lao động nói chung, của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài nói riêng là động lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Nhằm mục tiêu giải phóng được mọi năng lực sản xuất, phát huy tối đa tính
năng động, sáng tạo của lực lượng lao động, Đảng và Nhà nước đã có những
khâu đột phá trong chính sách kinh tế nói chung, chính sách trong lĩnh vực đất
đai nói riêng. Những đổi mới căn bản về chính sách, pháp luật của nước ta
trong quy định về sở hữu và quản lý đất đai đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đã góp phần tạo ra những thay đổi to lớn của nền kinh tế quốc
dân. Nhà nước ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và từng bước trao cho họ những quyền và nghĩa vụ cơ
bản như một công dân Việt Nam trong quá trình sử dụng đất ở Việt Nam.
Những chế độ, chính sách này đã được thể chế hóa trong quy định của pháp
luật từ những năm 1993 và một loạt những văn bản pháp luật khác có liên
quan.

Mặc dù các chính sách và pháp luật đất đai trong lĩnh vực quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có rất nhiều những
bước tiến so với những ngày đầu hình thành. Từ việc quy định cho họ chỉ có
quyền được thuê đất ở Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư theo trong quy
định của pháp luật đất đai năm 1993. Đến nay, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đã có thể thực hiện rất nhiều quyền khác và tiến tới bình đẳng với
các chủ thể sử dụng đất khác trong nước. Nhưng thực tế phát triển của đất
nước cho thấy vẫn còn có những thiếu sót trong việc đảm bảo cho người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được thực hiện đầy đủ các quyền cũng như nghĩa
vụ của mình trong các giao dịch đất đai là rất có ý nghĩa.
Có thể thấy, việc xây dựng được các cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện
tốt các quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng


9

đất ở Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về việc người
Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp nhằm khác phục những bất cập, tồn tại cũng như đẩy
mạnh, phát huy những điểm hợp lý trong lĩnh vực này, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của nhóm đối tượng này. Qua đó tạo động lực lòng tin và tiếp
tục thu hút nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về
Việt Nam sinh sống đầu tư, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đề tài
“Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
sử dụng đất ở Việt Nam” với mong muốn góp một phần vào việc giải quyết
các vấn đề lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực sử dụng đất ở Việt Nam của
cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng

đất ở Việt Nam luôn thu hút được sự quan tâm không chỉ của cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà còn cả người dân trong nước cũng
như giới nghiên cứu khoa học pháp lý. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có
một số công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề quyền
và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt
Nam như:
- Bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ Tư pháp), số 10 năm
2004 của TS . Nguyễn Quang Tuyến, Quyền sử dụng đất và nghĩa vụ của
người nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của Đinh Nữ Thủy Chinh (2004), Chính sách và
pháp luật đất đai đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Lý (2005), Các vấn đề pháp lý về
quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Ngọc Hoàn (2007), Hoàn thiện
pháp luật về quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất
thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam.


10

- Luận văn thạc sỹ luật học của Đặng Thị Hằng (2010), Những vấn đề
pháp lý về sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt
Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của Lưu Công Thành (2012), Hoàn thiện pháp
luật về quyền của tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của Lê Hưng Tứ (2016), Pháp luật về quyền của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
- Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Ngọc Ánh (2016), Pháp luật về

quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam để
thực hiện các dự án đầu tư.
- Chuyên đề 11 của Đề tài khoa học cấp trường của Đỗ Xuân Trọng,
Hoàn thiện pháp luật về quyền dân sự về nhà ở của tổ chức, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài khi được phép mua nhà ở tại Việt Nam.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp
phần tạo ra những cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho
việc quy định về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài sử dụng đất ở Việt Nam. Nhưng mỗi một công trình nghiên cứu lại
được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau cũng như trên các khía cạnh khác
nhau và chủ yếu nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam – một
mảng trong tổng thể quyền và nghĩa vụ của họ khi sử dụng đất ở Việt Nam.
Một số công trình khác tuy đã trực tiếp nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi sử dụng đất ở Việt Nam nhưng lại
trước thời điểm Luật Đất đai Việt Nam năm 2013 ra đời nên đến thời điểm
hiện tại không còn phù hợp. Bởi vậy việc nghiên cứu pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
vào thời điểm này được xem là một công việc có ý nghĩa cấp bách khi Việt
Nam ngày càng mở cửa hội nhập sâu rộng với thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn


11

Với tư cách là một công trình nghiên cứu luật học, đối tượng nghiên
cứu của đề tài luận văn được xác định là các quy định pháp luật nói chung và
quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài sử dụng đất ở Việt Nam nói riêng; các tình huống thực tiễn phát sinh

trong quá trình áp dụng pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng
đất ở Việt Nam là vấn đề rất nhạy cảm, có quan hệ mật thiết với nhiều lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu trong khuôn khổ một số mảng của pháp luật kinh tế có ảnh hưởng
trực tiếp đến vấn đề này như: sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư; sử dụng
đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu kinh tế; sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất; và sử dụng đất
để xây dựng công trình ngầm. Song để có cơ sở vững chắc cho lập luận của
mình thì luận văn cũng có so sánh với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác
trong cùng mảng pháp luật như vậy. Có thể thấy, dù chỉ phân tích quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
nhưng cũng không thể tách bạch theo từng loại chủ thể được mà cần có cách
nhìn bao quát trên mối quan hệ giữa các chủ thể.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường, từ thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật đất
đai trong thời gian qua, với tư cách là một công trình nghiên cứu cơ bản về
quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở
Việt Nam, việc nghiên cứu đề tài của luận văn nhằm các mục đích sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài với tư cách là một chủ thể sử dụng đất
ở Việt Nam.


12


- Làm rõ thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài cũng như thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ
của họ trong hoạt động sử dụng đất ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đáp ứng có hiệu quả các
yêu cầu do thực tế cuộc sống đặt ra và phù hợp với xu thế chung của thế giới.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu kể trên, đề tài luận văn có nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về người Việt Nam định cư ở nước
ngoài với tư cách là một chủ thể đặc biệt nhưng lại bình đẳng với các chủ thể
khác trong nước về hoạt động sử dụng đất; cơ sở lý luận của việc quy định
quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong lĩnh vực
này.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng quyền và nghĩa
vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các quy định pháp luật có liên
quan để làm rõ cơ sở thực tiễn của việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về lĩnh vực này.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật đất đai nói
chung và các quy định về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài nói riêng trên định hướng xóa bỏ sự phân biệt giữa người Việt
Nam định cư ở nước ngoài và người Việt Nam ở trong nước khi sử dụng đất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên
cơ sở vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách và pháp luật đất đai trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây
dựng và phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi
tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên

cạnh đó, luận văn còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể
như:


13

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải và lịch sử được
sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Phương pháp phân tích, đối chiếu, quy nạp, diễn giải được sử dụng ở
Chương 2 để nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử đụng đất ở Việt Nam.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp, quy nạp được sử dụng ở Chương 3
khi đề cập đến một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu
trước đây về vấn đề này, luận văn đã có một số những đóng góp trên cả mặt lý
luận khoa học và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam như sau:
- Luận văn đã tập hợp, hệ thống hóa và phân tích cơ bản về vai trò của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thông qua đó trình bày được sự cần
thiết của việc hình thành các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
nhóm đối tượng này. Bên cạnh đó, luận văn cũng trình bày được quá trình
hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.
- Luận văn đã tổng hợp, thống kê được các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở
Việt Nam, trên cơ sở đó chỉ ra được những điểm hợp lý cũng như những hạn
chế, bất cập của pháp luật hiện hành có liên quan đến lĩnh vực này; đồng thời

khẳng định nhu cầu cấp bách của việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự
phát triển của hoạt động đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài về
Việt Nam.
- Luận văn đã đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các
quy định về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
trong hoạt động sử dụng đất trước bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta và xu thế hội nhập thế giới.


14

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam.

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ lại có những định nghĩa khác
nhau về người Việt Nam định cư ở nước ngoài.



15

Trước năm 1982, các cụm từ như “Việt kiều”, “người Việt Nam sinh
sống ở nước ngoài” hay được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật
ở nước ta khi nhắc đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (ví dụ như:
Nghị định 209-CP ngày 14/07/1979 của Hội đồng Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của ban Việt kiều Trung ương; Quyết định
225-CP ngày 17/07/1980 của Hội đồng Chính phủ v/v thành lập Vụ công tác
người Việt Nam ở nước ngoài). Nhưng đến ngày 28/07/1983, khi Nghị quyết
số 84/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Ban Việt kiều Trung ương thì cụm từ “người Việt Nam sinh
sống ở nước ngoài” đã được thay bằng cụm từ “người Việt Nam định cư ở
nước ngoài”.
Đến Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đã được nhắc đến nhưng chưa có định nghĩa nào cụ thể.
Nhưng trong Nghị định số 07/1998/NĐ-CP của Chính ngày 15/01/1998 quy
định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có quy
định tại Điều 5: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là
người Việt Nam ở nước ngoài) bao gồm người có quốc tịch Việt Nam định cư
ở nước ngoài và người gốc Việt Nam có quốc tịch nước khác.”. Tới Luật
khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi năm 1998 tại khoản 6 Điều 2 đã đưa
ra định nghĩa: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam
và người gốc Việt Nam làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”. Và Nghị
định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 quy định chi tiết thi hành Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) quy định tại khoản 1 Điều 3:
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư theo Luật khuyến khích đầu tư
trong nước bao gồm người có quốc tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam cư
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”.
Có thể thấy các định nghĩa trên mới chỉ đề cập đến người Việt Nam

định cư ở nước ngoài bao gồm: người có quốc tịch Việt Nam nhưng sinh sống
ở nước ngoài và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước
ngoài, chứ chưa phân biệt được rõ định nghĩa về “người Việt Nam định cư ở
nước ngoài” và định nghĩa về “người Việt Nam ở nước ngoài”. Cho đến Luật


16

Quốc tịch năm 1998 thay thế cho Luật Quốc tịch năm 1988 thì định nghĩa về
những chủ thể này đã được đưa ra, cụ thể tại khoản 3 và khoản 4 Điều 2:
“- Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc
Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”.
Như vậy, theo quy định của Luật Quốc tịch năm 1998 thì để xác định
một người là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hay người Việt Nam ở
nước ngoài căn cứ vào việc người này cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước
ngoài hay chỉ là đang thường trú, tạm trú ở nước ngoài. Trong pháp luật đất
đai, khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhắc tới tại Điều 2
Nghị định số 81/2001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 của Chính phủ v/v người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: “Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài quy định tại Nghị định này là công dân Việt Nam và người gốc
Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài đã được quy định tại
Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 01/01/1999”, những người này về đầu tư, hoạt
động văn hóa, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại
Việt Nam.
Tới Luật Quốc tịch năm 2008, định nghĩa về người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vẫn được kế thừa theo quy định tại khoản 3 Điều 3. Bên cạnh đó,
pháp luật quốc tịch năm 2008 còn quy định về người gốc Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại khoản 4 Điều 3, cụ thể: “Người gốc Việt Nam định cư ở nước

ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc
tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ
đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.”. Việc đưa ra định nghĩa này
giúp góp phần hoàn thiện hoàn thiện hơn các quy định về người Việt Nam
định cư ở nước ngoài. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch
năm 2014 vẫn giữ nguyên các quy định như vậy. Pháp luật đất đai theo Luật
Đất đai Việt Nam năm 2013 (sau đây gọi tắt là Luật Đất đai năm 2013) quy
định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người sử dụng đất tại khoản
6 Điều 5, cụ thể là: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của


17

pháp luật về quốc tịch”. Do đó, pháp luật đất đai ghi nhận định nghĩa về
người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo pháp luật quốc tịch.
Từ những phân tích kể trên, có thể khẳng định, theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể hiểu
theo hai khía cạnh. Trước hết, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể là
công dân Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, chưa mang quốc tịch nước ngoài,
không từ bỏ quốc tịch Việt Nam, hiện đang sinh sống làm việc ổn định lâu dài
ở nước ngoài. Bên cạnh đó, người gốc Việt Nam không có quốc tịch Việt
Nam, có thể có quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch mà khi sinh ra
quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của
họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài cũng là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Có thể thấy, định nghĩa về người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được hiểu rất rộng, một mặt thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối
với cộng đồng bà con xa Tổ quốc, mặt khác cũng nhằm mở rộng thu hút đầu
tư của họ đối với quê hương.
1.1.2. Nguồn gốc hình thành cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài1

Năm 1954, Hiệp định Genevơ được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến
tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương, chấm dứt sự hiện diện của quân đổi
Pháp và chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Một trong những nội dung
thỏa thuận trong Hiệp định Genevơ đã tạm thời phân chia đất nước thành hai
miền Bắc – Nam, lấy ranh giới là vĩ tuyến mười bảy. Tại thời điểm đó, chính
quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc Việt
Nam, chính quyền và quân đổi khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam
Việt Nam (sau này lấy tên là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa). Ngay sau thời
khắc chia Việt Nam ra làm hai vùng tập trung quân sự, một cuộc di cư lớn của
gần 900.000 người dân miền Bắc, đa số là người Công giáo, đã vào miền
Nam với niềm tin tôn giáo của họ.
Từ năm 1955 đến năm 1975, chính quyền ở miền Nam Việt Nam đã cố
gắng xây dựng một nhà nước mới từ sự viện trợ chủ yếu là của Hoa Kỳ và cả
1 Andrew T. Pham (2010), “The Returning Diaspora: Analyzing oversea Vietnamese (Viet Kieu)
Contributions toward Vietnam’s Economic Growth”, Depocen.


18

của Pháp. Trong giai đoạn này, mọi mặt kinh tế, chính trị và xã hội của người
dân đều chịu ảnh hưởng từ các nước phương Tây này làm cho sự khác biệt
giữa miền Bắc và miền Nam càng lớn. Và đến tháng 04/1975, chương trình
“Frequent Wind” của Chính phủ Hoa Kỳ đã di tản quân nhân, nhân viên dân
sự Hoa Kỳ và một số người Viêt Nam đã từng công tác hay có liên hệ với
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Có 50.493 người đã
được di tản từ sân bay Tân Sơn Nhất vào thời điểm đó, và tính đến năm 1977,
gần 210.000 người Việt Nam đã di cư chủ yếu sang các nước Hoa Kỳ, Pháp,
Canada và Úc. Đây cũng chính là cuộc di cư lớn đầu tiên của người Việt Nam
ra nước ngoài.
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, làn sóng di cư lớn thứ hai của

người Việt Nam ra nước ngoài bắt đầu vào năm 1977 và được biết đến với tên
“thuyền nhân Việt Nam”. Và làn sóng di cư lớn cuối cùng của Việt Nam là
vào thời điểm cuối những năm 1980, gắn liền với Kế hoạch hoạt động toàn
diện (Comprehensive Plan of Action – CPA) được thông qua tại Hội nghị
quốc tế về tị nạn Đông Dương năm 1989 giải quyết chung về vấn đề tị nạn.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, người Việt Nam di cư ra nước ngoài thuộc rất
nhiều tầng lớp, từ nông dân cho đến trí thức.
Có thể thấy, với những cuộc di cư lớn của người Việt Nam như đã nêu
trên thì đã hình thành một số lượng lớn người Việt Nam sinh sống tại nước
ngoài mà hiện nay là cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
1.1.3. Vai trò của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với sự phát
triển đất nước Việt Nam
Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã và đang có những
đóng góp ngày càng to lớn, thiết thực, và đa dạng hơn vào công cuộc công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc và cải thiện vị thế đất nước. Mặc dù sống xa quê hương nhưng
cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn luôn có tinh thần yêu
nước, tự hào dân tộc, có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đồng bào định cư ở nước
ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc
Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu


19

nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật nước sở
tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin
trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về tình hình trong
nước và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Có chính sách khuyến

khích người Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương,
góp phần xây dựng đất nước; khen thưởng nhiều người có thành tích đóng
góp cho Tổ quốc”2. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng ghi nhận tại Điều
18: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ qan hệ gắn bó với gia
đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương.”. Luật Quốc tịch năm
2014 cũng đã quy định rõ tại Điều 7: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người gốc
Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê
hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước…”.
Với những chủ trương, chính sách ngày càng mở rộng của Nhà nước, tư
tưởng hướng về cội nguồn của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã có những bước phát triển tích cực trong những năm gần đây. Sự
tham gia của kiều bào vào các hoạt động xã hội trong nước ngày càng sâu
rộng. Số lượng người về thăm gia đình, quê hương ngày một tăng, nếu như
năm 1987 chỉ có khoảng 8.000 lượt người về thăm Việt Nam, thì năm 1992 đã
lên tới 97.000 lượt người; các năm 2000-2004, trung bình mỗi năm có khoảng
350.000 lượt kiều bào về Việt Nam thăm thân nhân, du lịch, tìm hiểu cơ hội
đầu tư kinh doanh. Năm 2004 đạt kỷ lục với 430.000 lượt người. Theo báo
cáo của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, trong giai đoạn 5
năm (từ năm 2005 đến năm 2010) trung bình mỗi năm có khoảng 500.000
Việt kiều về thăm quê hương, theo đó một lượng kiều hối rất lớn được chuyển
2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.


20


về nước, không chỉ để chuyển cho thân nhân, mà còn thực hiện rất nhiều dự
án đầu tư3.
Thông qua các dự án đầu tư của Việt kiều tại Việt Nam, nhiều nguồn
lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên được sử dụng và phát huy có
hiệu quả. Sự đóng góp của kiều bào nước ngoài đã giúp mở rộng thị trường,
thúc đẩy các hoạt động dịch vụ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước
xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới, góp phần giới thiệu,
chuyển giao phương pháp quản lý và phương thức kinh doanh hiện đại cho
các doanh nghiệp trong nước. Có thể thấy đây chính là một trong những nhân
tố thúc đẩy doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh; lao động trong nước có thêm cơ hội được đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao tay nghề, tiếp thu công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong
công nghiệp. Những đầu tư của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã góp phần bổ sung nguồn vốn, tạo thế và lực phát triển mới cho nền
kinh tế đất nước khi đã gia nhập WTO, và nay là sau khi ký kết Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài,
tại thời điểm năm 2010 có trên 3.200 dự án của cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài với số vốn lên đến 5,7 tỷ USD đang được đầu tư tại Việt
Nam, trong đó khoảng 60% số dự án hoạt động có hiệu quả. Một báo cáo của
Ngân hàng Thế giới năm 2010 đã xếp Việt Nam ở vị trí thứ 16 trong số 20
quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất thế giới năm 2010, mức kiều hối được đánh
giá là rất đáng kể so với các nguồn vốn khác (lượng vốn đầu tư từ kiều hối
năm 2010 là 8,26 tỷ USD; vốn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là 9,6 tỷ
USD; vốn từ hỗ trợ phát triển chính thức ODA là 2,6 tỷ USD). Lượng kiều
hối gửi về Việt Nam mỗi năm tăng trung bình 10-15%/năm, từ mức 1,34 tỷ
USD năm 2000 tăng lên đến 13,2 tỷ USD năm 20154. Nguồn tài chính này
chủ yếu đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, bù đắp vào thâm hụt cán cân thương
3 Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao (2011), Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước
ngoài.

4 />ngày truy cập 24/09/2015.


21

mại, giúp giảm thiểu rủi ro trong việc huy động vốn, góp phần giải quyết việc
làm cho người lao động.

Dòng vốn kiều hối giai đoạn 2000 - 2015
14
12

(Tỷ USD)

10
8
6
4
2
0

Nguồn: Viện Chính sách di dân,“Dữ liệu chuyển tiền hàng năm”
(cập nhật tháng 04/2016)5
Bên cạnh đó, tiềm lực về chất xám, trí tuệ của cộng đồng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là tương đối lớn và có chất lượng, do có một bộ
phận lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài tập trung ở các khu vực Bắc
Hoa Kỳ, Tây Âu, Nga và Đông Âu – những nước phát triển trên thế giới.
Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài thông qua các hoạt động
của các hội, đoàn dưới nhiều hình thức phong phú, chất lượng, đã góp phần
gắn kết cộng đồng, giúp đỡ nhau làm ăn, hướng về đất nước và thực sự trở

thành cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam với bạn bè thế giới. Nhiều trí thức, nhà
khoa học, doanh nhân được đào tạo ở những nước phát triển, có trình độ khoa
học – công nghệ tiên tiến đã về đóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước.
Từ năm 1990, Chương trình chuyển giao trí thức của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đã được khởi động nhưng chưa diễn ra mạnh, cho tới năm 2002
mới chỉ có 150 chuyên gia là Việt kiều (trong các lĩnh vực công nghệ thông,
công nghiệp, kỹ thuật, y tế, quản lý và tài chính) được ghi nhận trong danh
5 Migration Policy Institute tabulations of data from the World Bank Prospects Group, “Annual Remittance
Data”.


22

sách là về đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tính đến năm 2010, trung
bình mỗi năm có khoảng 300 chuyên gia, trí thức về nước hợp tác, đóng góp
chuyên môn chủ yếu trên các lĩnh vực; tư vấn trong hoạch định chính sách
phát triển đất nước, nhất là trong các ngành kinh tế, khoa học, chuyển giao
công nghệ, giáo dục, đào tạo; làm cầu nối hợp tác, tìm kiếm nguồn đầu tư
quốc tế cho lĩnh vực khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực trong
nước…6 Đến nay thì số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt
Nam chung tay xây dựng đất nước vẫn ngày càng tăng.
Như vậy, có thể thấy cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài
có những đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn mình”.
1.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt
Nam
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Luật Đất đai năm 2013 ghi

nhận các chủ thể là người sử dụng đất ở Việt Nam tại Điều 5, các chủ thể này
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất. Và người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo
quy định của pháp luật về quốc tịch cũng là một trong số những chủ thể được
Nhà nước công nhận là người sử dụng đất (khoản 6 Điều 5 Luật Đất đai năm
2013).
* Cơ sở lý luận của việc xây dựng pháp luật quyền và nghĩa vụ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam
- Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về đại đoàn kết dân tộc.
Bắt đầu từ Đại hội VII, Đảng ta đã xác định: “Đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc
Việc Nam, Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo hộ quyền lợi chính đáng,
giúp đỡ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết tương trợ, giữ gìn
6 Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao (2011), Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước
ngoài.


23

bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X
cũng nêu rõ “Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng
tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước”. Qua đó có thể thấy, từ sau khi đất nước đổi mới, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài luôn được coi là một bộ phận không tách rời của dân tộc Việt
Nam, luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm tạo điều kiện quay về Việt Nam
làm ăn, sinh sống.
Bên cạnh đó, một bài học lớn trong quá trình cách mạng ở Việt Nam
mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tổng kết là bài học phát huy sức mạnh
đoàn kết dân tộc. Đảng ta xác định đại đoàn kết dân tộc “là vấn đề chiến lược

nhất quán của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo về thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”7. Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, nhờ
biết phát huy truyền thống đoàn kết này, dân tộc ta đã chiến thắng được nhiều
kẻ thù xâm lược có tiềm lực cả về kinh tế lẫn quân sự để trường tồn và phát
triển. Đến nay, khi đất nước đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
để phát triển kịp với các nước tiên tiến trên thế giới thì việc đoàn kết dân tộc
để đưa đất nước đi lên là một nhu cầu bức thiết đối với từng công dân. Vì vậy
mà Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách mới, mở rộng hành lang pháp
lý nhằm khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về quê hương,
đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Và việc quy định các vấn đề
pháp lý đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt
Nam là một trong những chính sách cần thiết để họ có thể chung tay xây dựng
đất nước.
- Thứ hai, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chủ động từng bước
hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Nhà nước ta.
Trong đường lối của Đảng và Nhà nước ta từ những năm đổi mới đã
xác định nền kinh tế nước ta là nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 41.


24

nghĩa. Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương v/v
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự
chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa”. Công cuộc đổi mới hiện nay yêu cầu phải

hoàn thiện về thể chế này mà trước hết phải hình thành được các thị trường
mang tính “đầu vào” của hoạt động sản xuất – kinh doanh; đó là thị trường
vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản và thị trường khoa học công
nghệ. Đối với các thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường khoa học
công nghệ, nước ta đã có nhiều đổi mới, giao lưu với các nước trên thế giới để
phát triển những thị trường này. Tuy nhiên, với đặc thù là đất đai thuộc sở
hữu toàn dân thì thị trường bất động sản Việt Nam những năm trước vẫn còn
khá “đóng” đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XI đã ghi nhận “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường
hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”8 nên Việt Nam đã nỗ
lực và đạt được thành quả là thiết lập được quan hệ ngoại giao trên 150 quốc
gia và vùng lãnh thổ, trở thành thành viên chính thức của các tổ chức, diễn
đàn quốc tế quan trọng trong khu vực và trên thế giới như Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hơp tác kinh tế Châu Á (APEC), Khu
vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Liên Hiệp Quốc (UN), Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO)… Kể từ khi gia nhập WTO, để thực hiện các
cam kết của mình, Việt Nam đã bắt đầu “mở cửa” với thế giới, mở cửa thị
trường bất động sản để các nhà đầu tư trong và ngoài nước có cơ hội bình
đẳng như nhau. Và với sức hấp dẫn từ lợi nhuận cao thu được từ hoạt động
đầu tư, kinh doanh bất động sản đem lại thì một lượng ngoại tệ lớn đã được
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia,
tr. 83, 84.


25

người Việt Nam định cư ở nước ngoài đưa về Việt Nam, đóng góp vào sự

phát triển kinh tế của đất nước.
- Thứ ba, chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong thời kỳ nên kinh tế được quản lý bởi cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, kế hoạch hóa cao độ, Nhà nước quản lý đất đai theo cơ chế hiện vậy:
đất đai được xác định là một dạng phúc lợi xã hội, người sử dụng đất được
cấp đất không phải trả tiền sử dụng đất9. Chính bởi vậy mà Nhà nước thời kỳ
đó nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai, phát canh thu tô dưới
bất kỳ hình thức nào. Đến giai đoạn đổi mới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần, quan hệ đất đai cũng chuyển đổi từ quan hệ hiện
vật sang quan hệ giá trị, tức là đất đai được thừa nhận có giá và quyền sử
dụng đất có thể dùng để trao đổi trên thị trường. Bởi vậy, Nhà nước giao đất
có thu tiền sử dụng đất, cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất sử dụng ổn
định lâu dài.
Đảng ta còn luôn xác định “Phát triển kinh tế là nghiệm vụ trung
tâm”10 cùng với thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực
hiện mục tiêu này, nhiều biện pháp, chủ trương nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam đã được đề ra. Cụ thể là cho ra đời Luật đầu tư nước
ngoài năm 1988, sửa đổi năm 1990, 1993; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996, sửa đổi năm 2000; và đặc biệt đến năm 2005 là sự ra đời của
Luật đầu tư. Với sự ra đời của các luật này, một hành lang pháp lý tương đối
thống nhất và bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước
ngoài đã được hình thành, tăng thêm sự hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại
Việt Nam, tạo đà cho cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về
đầu tư bất động sản ở Việt Nam.
- Thứ tư, chính sách đất đai.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI ghi nhận “Hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm hài hòa các lợi ích của
9 Đặng Thị Hằng (2010), Những vấn đề pháp lý về sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 15.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc

gia, tr. 75.


×