Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Một số vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.83 KB, 95 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 04 tháng 8 năm 2016
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Phượng


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được Luận văn thạc sĩ, lời đầu tiên, em xin chân
thành cảm ơn tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học và thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội
đã tạo điều kiện giúp cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa Luật quốc tế nói
chung và các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Tư pháp quốc tế nói riêng, những
người đã giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Đặc biệt, em xin cảm ơn TS. Trần Minh Ngọc, người đã tận tình hướng
dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 04 tháng 8 năm 201
6
Học viên

Nguyễn Thanh Phượng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADR

: Phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn

TTTM 2010

: Trọng tài Thương mại 2010

PLTTTM 2003

: Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

UNCITRAL

: Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế

VIAC

: Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

Nghị quyết số 01/2014 : Nghị quyết số 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

8

1.1. Khái quát về trọng tài thương mại quốc tế

8

1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế

9

1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại quốc tế

16

1.1.3. Các loại trọng tài thương mại quốc tế

17

1.2. Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

20

1.2.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế


20

1.2.2. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

23

1.2.3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

28

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA
THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

29
29

2.1.1. Đối tượng của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

29

2.1.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

33

2.1.3. Nội dung của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế


36

2.1.4. Năng lực chủ thể của các bên ký kết thỏa thuận trọng tài thương
mại quốc tế

45

2.1.5. Ý chí của các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài thương mại quốc
tế

49

2.1.6. Phân định thẩm quyền giữa Trọng tài và Tòa án

49

2.2. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được

52

2.3. Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

57

2.4. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu

62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


65


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

66

3.1. Tình hình hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam

66

3.1.1. Thực trạng hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam

66

3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng hoạt động trọng tài thương mại ở Việt
Nam hiện nay

72

3.2. Thực tiễn hoạt động xây dựng thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế của các Doanh nghiệp ở Việt Nam

75

3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định của pháp
luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế


77

3.3.1 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả thi hành các quy định của pháp luật
Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế

77

3.3.2 Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.

78

3.3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về
thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.

80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

84

KẾT LUẬN..

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..

86



6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay, giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế đang là một vấn đề “nổi cộm” đặt ra đối
với các quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong các phương thức giải quyết
tranh chấp lựa chọn (ADR) như trung gian, hòa giải và trọng tài thì trọng tài
thương mại với những ưu thế nổi bật của mình là một sự lựa chọn hấp dẫn đối
với các nước có nền kinh tế phát triển. Tác động quốc tế đã có ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động trọng tài tại Việt Nam, những công ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia hiện đang giữ một vai trò quan trọng trong việc góp phần
phát triển hoạt động trọng tài tại Việt Nam. Việt Nam là thành viên của Công
ước New York 1958 từ năm 1995 và hiện đang là thành viên của 50 Hiệp định
đầu tư song phương và 11 Hiệp định thương mại tự do đa phần trong đó đều
có điều khoản giải quyết tranh chấp đầu tư bằng trọng tài. Đáng chú ý, Việt
Nam đã và đang tích cực đàm phán các Hiệp định thương mại tự do quan
trọng khác, trong đó mới nhất năm 2016, Việt Nam đã chính thức ký kết Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm củng cố và mở rộng các
mối liên kết cùng có lợi giữa 12 nền kinh tế thành viên, tăng cường năng lực
cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu. Bên cạnh những đóng góp trong sự
tăng trưởng nền kinh tế, những công ước, hiệp định này đảm bảo rằng các
doanh nghiệp trong nước sẽ phải làm quen với “văn hóa” sử dụng trọng tài
như là phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu của đối tác, nhà đầu tư nước
ngoài. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với rất nhiều
nền tài phán xây dựng luật trọng tài của mình trên Luật Mẫu UNCITRAL,
đồng thời cũng là khu vực có nhu cầu sử dụng dịch vụ trọng tài ngày càng
tăng như là một hệ quả của việc tăng cường đầu tư và các hoạt động thương
mại. Do đó, với nền tảng là một cơ sở pháp lý về trọng tài có nhiều điểm

tưởng đồng về nguyên tắc với các nước trong khu vực, trọng tài Việt Nam,
nếu có thể đảm bảo thực hiện ổn định Luật TTTM 2010 và Công ước New


7

York 1958, đang có điều kiện khách quan hết sức thuận lợi để bắt kịp sự phát
triển của trọng tài quốc tế.
Tuy vậy, thời gian vừa qua, các doanh nghệp vẫn còn e ngại khi chọn
trọng tài thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, một
mặt do hiểu biết còn hạn chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài
thương mại Việt Nam còn một số bất cập làm giảm tính hấp dẫn của phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế. Nhiều doanh
nghiệp còn chưa đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế nên trong quá trình soạn thảo, ký kết thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế còn nhiều thiếu sót dẫn đến những tranh chấp không đáng có sau này.
Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế là yếu tố cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài thương mại quốc tế kể từ lúc khởi đầu
trọng tài cho đến khi công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài thương
mại quốc tế. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài thương mại quốc tế phụ
thuộc một phần không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài trọng tài thương mại quốc
tế. Sự cần thiết hoàn thiện các chế định pháp lý về thỏa thuận trọng tài thương
mại quốc tế theo đó cũng là một yếu tố tất yếu và là hạt nhân quan trọng trong
việc hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài thương mại quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế, tác giả thấy cần phải có một công trình nghiên cứu về vấn đề trọng tài
thương mại quốc tế trong đó tập chung chủ yếu vào chuyên đề thỏa thuận
trọng tài thương mại quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Trong điều kiện đó, tác giả chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý
về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế theo pháp luật Việt Nam” làm

đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn có sự phân tích, đánh giá, so sánh
với pháp luật một số quốc gia về cùng vấn đề để thấy được mặt tích cực, hạn
chế của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, qua
đó có sự điều chỉnh, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành các quy
định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế và hướng
hoàn thiện.


8

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế là vấn đề pháp lý đã được
nghiên cứu trong một thời gian dài và được đề cập trong một số công trình
nghiên cứu khoa học cũng như bài đăng trên tạp chí. Từ khi Pháp lệnh TTTM
2003 có hiệu lực đến Luật TTTM 2010, đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học liên quan đến Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế được công
bố, tiêu biểu như:
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2004), Luận văn thạc sĩ:“Thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế”;
Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Thơ (2006) “Một số vấn đề về thỏa
thuận trọng tài”, tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2006, tr 15-20;
Nguyễn Đình Thơ (2007) Luận án tiến sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật
về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”;
Bài viết của GS-TSKH Đào Trí Úc viết về “Những vấn đề cơ bản của
Luật Trọng tài” đăng trong tài liệu hội thảo “Góp ý dự thảo Luật trọng tài” do
Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam tổ chức tháng 11/2008 tại Hà Nội;
Vũ Quỳnh Anh (2008), Khóa luận tốt nghiệp:“Những vấn đề pháp lý cơ
bản về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam”;
Trần Minh Ngọc (2009), Luận án tiến sỹ luật học “Giải quyết tranh chấp

thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế”;
Hoàng Linh (2009), Khóa luận tốt nghiệp: “Tìm hiểu một số vấn đề pháp
lý về thỏa thuận trọng tài”;
Trần Thị Ngọc Anh (2011), Khóa luận tốt nghiệp: “Thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng
tài ở Việt Nam”;
Nguyễn Thùy Linh (2014), Luận văn thạc sĩ luật học: “Thỏa thuận trọng
tài theo quy định của pháp luật Việt Nam”;


9

Trần Thị Kim Ngân (2015), Khóa luận tốt nghiệp:“Quy định hiện hành
về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng”.
Như vậy, các công trình trên đây đã nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài
thương mại ở mỗi góc độ nhất định nhưng đã góp phần tạo dựng nên hệ thống
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, thỏa thuận
trọng tài thương mại quốc tế là thỏa thuận trọng tài thương mại mang yếu tố
quốc tế, vượt qua biên giới quốc gia, thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp
quốc tế. Do đó, để so sánh với các công trình nghiên cứu khoa học đã được
liệt kê trên thì có rất ít các công trình nghiên cứu thật sự đây đủ, toàn diện và
chi tiết về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế. Chỉ có luận văn thạc sỹ
của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng (2004) là đề cập cụ thể về thỏa thuận
trọng tài thương mại quốc tế. Trong bối cảnh Pháp luật về trọng tài thương
mại quốc tế đã có sự thay đổi, Luật TTTM 2010 đã có hiệu lực được gần 5
năm đã tồn tại một số hạn chế qua thực tiễn thi hành. Luận văn này, tác giả
nghiên cứu, đánh giá chi tiết về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế trên
cơ sở tìm hiểu, so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới nhằm thấy
được những điểm tích cực cũng như hạn chế các quy định pháp luật Việt Nam

hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế, đề xuất giải pháp hoàn
thiện nhằm nâng cao việc thực thi pháp luật trọng tài thương mại nói chung,
pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế là một phạm trù rất rộng bao
gồm nhiều vấn đề khác nhau như thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền trọng tài,
tố tụng trọng tài, luật áp dụng trong trọng tài... Mỗi khía cạnh của pháp luật
trọng tài thương mại quốc tế có thể là một đề tài để học giả lựa chọn nghiên
cứu. Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế cũng là một khía cạnh của pháp
luật trọng tài thương mại quốc tế. Trong phạm vi của luận văn, tác giả nghiên
cứu, phân tích, đánh giá:


10

Thứ nhất, những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc
tế như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa…
Thứ hai, quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng
tài thương mại quốc tế liên quan đến: hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương
mại quốc tế, luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế,
phân định thẩm quyền giữa trọng tài và Tòa án, thỏa thuận trọng tài vô hiệu…
trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu quy định của pháp luật một số quốc gia trên
thế giới và trong khu vực Châu Á về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.....) so sánh với pháp luật Việt Nam để
thấy được những ưu điểm, bất cập và tồn tại trong các quy định của pháp luật
Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiểu quả thi hành pháp
luật trọng tài Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy định của

pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế đã giới hạn trong
phần phạm vi nghiên cứu để từ đó nêu ra những thực trạng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thi hành, hoàn thiện những quy định này trong thời gian
tới. Để đạt được mục đích này cần hoàn thành những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tổng quát những vấn đề lý luận chung về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan
đến khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá quy đinh của pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam về thỏa thuận trong tài thương mại quốc tế bao gồm hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế, thỏa thuận trong tài không thực hiện được,
phân định thẩm quyền giữa tòa án và trọng tài, luật áp dụng trong thỏa thuận
trọng tài thương mại quốc tế, thỏa thuận trọng tài vô hiệu…so sánh với pháp luật
trọng tài thương mại của một số quốc gia trên thế giới qua đó thấy được những
ưu điểm, tồn tại, bất cập của pháp luật liên quan đến vấn đề này.


11

Thứ ba, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trọng tài
Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
a) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế.
b) Phân tích đánh giá những quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam
về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế trên cơ sở so sánh với các Điều
ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia trên thế giới về vấn đề này.
c) Nêu nguyên nhân, yêu cầu, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và
thực thi có hiệu quả các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
theo pháp luật trọng tài Việt Nam hiện hành.
Có thể nói Luận văn là một công trình mới, nghiên cứu chuyên sâu, bóc

tách riêng về vấn đề thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế trên cơ sở so
sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
6. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng
và phương pháp duy vật lịch sử của nghiên cứu Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quán triệt đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật luật đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế. Các phương pháp cụ thể bao gồm: phương pháp thu
thập, phân tích, liệt kê, tổng hợp các tài liệu, phương pháp diễn giải, quy nạp
và phương pháp so sánh.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
a) Thông qua việc nghiên cứu lý luận, thực tiễn quy định Việt Nam và
pháp luật một số quốc gia trên thế giới về thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế, kết quả nghiên cứu và những ý kiến đề xuất của luận văn có ý nghĩa
trong việc nang cao hiệu quả thực thi các quy định của Việt Nam về thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế, phù hợp với thông lệ quốc tế.


12

b) Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, giảng dạy về
khoa học pháp lý nói chung, pháp luật quốc tế về trọng tài nói riêng…cho các
cán bộ, giảng viên công tác trong cơ quan pháp luật, cho các sinh viên nghiên
cứu, học tập.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại quốc tế.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy
định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế.


13

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Khái quát về trọng tài thương mại quốc tế
Trên thế giới cũng như Việt Nam tồn tại bốn phương thức cơ bản giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế, bao gồm: thương lượng, trung gian hòa
giải, trọng tài và tòa án. Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa
nhất để giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia.
Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài ngày càng trở nên phổ biến ở các
nước, nhất là trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn giải quyết
tranh chấp trên thế giới cho thấy trọng tài ngày càng “đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên”.
Quy định sơ khai về trọng tài ở Hy Lạp trong luật mua bán hàng hóa cho
phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can
thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh
chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao
đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể
đến Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là
một phương thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa
ra vào năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống
luật Common law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp
nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán quyết của trọng tài nếu thấy phán
quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật năm 1697.

Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn
đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài.
Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành
công. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua
các đạo luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện
tụng ở tòa án vốn được cho là kém hiệu quả hơn.


14

Trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của thương mại thế giới,
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng phát triển dẫn tới
việc hình thành những tổ chức trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong các hợp đồng thương mại quốc tế. Tầm quan trọng của
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được thừa nhận rộng
rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần đây. Các quốc gia sửa đổi luật pháp về
trọng tài cho phù hợp với tình hình thực tế; các điều ước quốc tế về trọng
tài đang có thêm nhiều thành viên mới; trọng tài trở thành một môn học
trong chương trình đào tạo ngành luật; các doanh nghiệp ngày càng tin
tưởng vào một phương thức giải quyết tranh chấp linh hoạt, công bằng, với
phán quyết được công nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới.
Ngày nay, ở tất cả các nước trên thế giới, trọng tài là một cơ chế giải
quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn
xét xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế
Trọng tài thương mại quốc tế là một trong những hình thức giải quyết
tranh chấp phổ biến hiện nay trên thế giới. Trọng tài thương mại quốc tế trước
hết nó mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Để tìm hiểu trọng tài
thương mại quốc tế là gì, trước hết cần nắm được khái niệm về trọng tài?
Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái niệm “Trọng tài”

được đề cập nhiều trong luật quốc tế, được nghiên cứu trên rất nhiều bình diện
khác nhau cũng như nhiều cách tiếp cận trong khoa học pháp lý.
Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công ước La-Hay năm
1899, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết những bất đồng giữa các bên
thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn trên cơ sở tôn trọng
luật pháp”.
Công ước La-Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối tượng giải
quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng
tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng
luật pháp”.


15

Trong tác phẩm kinh điển của một số học giả nổi tiếng, theo Okezie
Chukwumerije: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên với
nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên lựa chọn hoặc bởi việc
dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa chọn bởi chính
các bên”1. Tương tự như vậy, James and Nicholas cho rằng: “Trọng tài được
coi như là một tiến trình tư được mở ra theo sự thỏa thuận của các bên nhằm
giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một hội đồng
trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên”2.
Luật mẫu của UNCITRAL – Một văn bản được nhiều nước tiếp nhận khi
xây dựng luật trọng tài, Điểm a, khoản 2, Luật Mẫu định nghĩa : “trọng tài
nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức
trọng tài thường trực”3.
Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ lại cho rằng: “trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các
bên tranh chấp thi hành”.

Điều 3, Luật trọng tài Hàn Quốc cho rằng “trọng tài” có nghĩa là một thủ
tục để giải quyết bất kỳ tranh chấp luật riêng, không phải bởi việc xét xử của
tòa án, nhưng bằng việc trao các trọng tài viên hoặc các trọng tài theo thỏa
thuận của các bên 4.
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm trọng tài theo
các học giả cũng như của một vài quốc gia trên thế giới, tuy nhiên có thể hiểu
rằng: Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
một bên thứ ba trung lập do các bên thỏa thuận chọn để giải quyết tranh chấp
giữa họ và quyết định của bên thứ ba này có giá trị bắt buộc thi hàn5.
1 Okezie Chukwumerije (1994), Choice of law in international commercial arbitration,
Quorum Books westport, conecticut law, tr 2.
2 Markhuleatt – James and Nicolas gouldv (1996), International commercial arbitration:
A hand book, LLP London – New York – Hong Kong, tr 3.
3 Liên Hợp quốc (1985), Đạo luật mẫu về thương mại quốc tế về Luật thương mại quốc tế
4 Arbitration act of Korea.
5 Trần Phương Chi (2014), Luận văn thạc sĩ: “Luật áp dụng trong trọng tài thương mại
quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành”, tr 5.


16

Từ những định nghĩa trên, có thể thấy được một vài đặc điểm cơ bản của
trọng tài như sau:
Thứ nhất: Quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài diễn ra trên cơ
sở thỏa thuận trọng tài được thiết lập bởi các bên tranh chấp.
Thứ hai: Thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên và thường là một thủ
tục xét xử kín được điều khiển bởi Hội đồng trọng tài ba người hoặc một người.
Thứ ba: Quyết định của trọng tài về vụ tranh chấp có giá trị bắt buộc các
bên phải thực hiện6.
Vậy “Trọng tài thương mại quốc tế” được hiểu như thế nào? Trọng tài

thương mại quốc tế mang những đặc điểm chung của một trọng tài. Nhưng
một trọng tài chỉ được coi là trọng tài thương mại quốc tế nếu nó chứa đựng
cả hai yếu tố “thương mại” và yếu tố “quốc tế”.
Ở Việt Nam, hiện chưa có văn bản nào quy định rõ ràng thế nào là trọng
tài thương mại quốc tế. Từ định nghĩa của Luật Thương mại 2005 về trọng tài
thương mại có thể hiểu: Trọng tài thương mại quốc tế phải chứa đựng cả hai
yếu tố “thương mại” và yếu tố “quốc tế”.
a) Về tính “thương mại”
Yếu tố “thương mại” là yếu tố quan trọng khi tìm hiểu về khái niệm
trọng tài thương mại quốc tế bởi trọng tài thương mại quốc tế chỉ giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Thực tế hiện nay, trên
bình diện quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất về “thương mại, thuật
ngữ này trở thành một từ loại trong ngôn ngữ học, nó được dùng để phân biệt
các vụ trọng tài quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh doanh hoặc thương mại
với các vụ trọng tài quốc tế giữa các quốc gia về các vấn đề tranh chấp biên
giới và các vấn đề chính trị khác…, nó cũng dùng để phân biệt các vụ trọng
tài quốc tế liên quan đến tranh chấp kinh doanh hoặc thương mại với các vụ

6
[Wipo
arbitration
and
mediation
center

arbitration
rules,
2004-07-13]

at:



17

trọng tài liên quan đến các vấn đề như sự chiếm hữu tài sản, lao động và vấn
đề tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình.7
Mặc dù Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định
trọng tài nước ngoài đã nỗ lực ghi nhận một sự giải thích về thuật ngữ
“thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành viên quyền bảo lưu đối với
khái niệm này (Điều 5 Công ước).
Luật Mẫu của UNCITRAL không nêu định nghĩa chính thức về khái
niệm “thương mại” mà chỉ giải thích thuật ngữ thương mại tại phần chú thích
Điều I với phạm vi “các vấn đề phát sinh từ tất cả các mối quan hệ có bản
chất thương mại dù là có hợp đồng hay không”. Những quan hệ mang tính
chất thương mại bao gồm các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa
thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, thuê mua xây dựng công
trình; tư vấn kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài chính ngân hàng; bảo hiểm; hợp
đồng thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác kinh doanh; vận
tải hành khách, hàng hóa bằng đường hàng không, đường sắt, đường bộ hoặc
đường biển.
Bên cạnh đó, các quốc gia cũng có những định nghĩa khác nhau về
“thương mại”. Bộ luật thương mại Cộng hòa Pháp hiện hành không đưa ra bất
kỳ định nghĩa nào về “thương mại” nhưng tại Điều L110-1 đã liệt kê khá
nhiều hành vi thương mại được thể hiện bởi các thương nhân, bao gồm: mua
bán hàng hóa để bán lại, mua bán bất động sản để bán lại, mọi hoạt động
trung gian về mua, thuê hoặc bán công trình xây dựng, cho thuê tài sản….Bộ
luật thương mại số 48 của Nhật Bản năm 1899 quy định thuật ngữ thương mại
được đùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm mục đích lợi nhuận và hầu
hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay khí đốt,
ủy thác, bảo hiểm, ngân hàng8…


7 Alan Redfern và Martin Hunter (2004), Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc
tế, Trung tâm thương mại và công nghiệp Việt Nam (dịch và hiệu đính), Trung tâm trọng
tài quốc tế Việt Nam.
8 Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2012), Khóa luận tốt nghiệp: “Luật áp dụng trong trọng tài
thương mại quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”, tr 9.


18

Hiện nay, ngày càng có nhiều quốc gia mở rộng phạm vi giải quyết của
trọng tài không chỉ đối với các tranh chấp thương mại mà còn đối với các
quan hệ có tính chất dân sự. Một số quốc gia như Anh, Mỹ, Nhật, Thụy Điển,
Trung Quốc….khi ban hành đạo luật trọng tài mới đã mở rộng thẩm quyền
của trọng tài, theo đó trọng tài không chỉ giải quyết các tranh chấp thương
mại truyền thống mà còn có thể giải quyết các tranh chấp về lao động và dân
sự khác trừ các tranh chấp bắt nguồn từ những quan hệ liên quan đến lợi ích
công và trật tự công9.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 giải thích hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3).
b) Về tính “quốc tế”
Thuật ngữ “quốc tế” được sử dụng để phân biệt sự khác nhau giữa các
vụ trọng tài thuần túy quốc gia hoặc trong nước với các vụ trọng tài, ở một
phương diện nào đó, vượt qua biên giới quốc gia và được gọi là quốc tế hoặc
theo thuật ngữ được dùng bởi thẩm phán Jessup, “vượt qua phạm vi quốc
gia”10. Yếu tố quốc tế của trọng tài được xác định phụ thuộc vào bản chất của
tranh chấp và đặc điểm chủ thể tham gia tranh chấp11.
- Về căn cứ dựa vào bản chất của tranh chấp:

Theo giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản
năm 2006 thì “Trọng tài quốc tế là một phương pháp giải quyết tranh chấp có
yếu tố nước ngoài, mà trong đó các bên tranh chấp thỏa thuận, lập ra hoặc

9 Trường đại học Luật Hà Nội (2008) Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr 351.
10 Alan Redfern và Martin Hunter (2004), Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại
quốc tế, Trung tâm thương mại và công nghiệp Việt Nam (dịch và hiệu đính), Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, tr 14.
11 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005,
tr 44.


19

chỉ định một bên thứ ba và giao cho bên thứ ba đó quyền được phán xét tranh
chấp của họ, phán xét này buộc các bên phải thực hiện”.
Theo Từ điển Luật học, nhà xuất bản Tư pháp năm 2006 định nghĩa:
“Trọng tài quốc tế là cơ quan hoặc phương thức giải quyết tranh chấp phát
sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế
mà pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài”.
Một sự giải thích cho thuật ngữ “trọng tài quốc tế” cũng được tìm thấy
tại Điều 1492 của Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp (có hiệu lực từ ngày
14/5/1981), theo đó, trọng tài quốc tế được hiểu đơn giản là trọng tài giải
quyết tranh chấp quyền lợi trong thương mại quốc tế.
Những định nghĩa trên đều đề cập đến bản chất quốc tế của tranh chấp,
tuy nhiên nó mang nghĩa khá rộng, nhưng có thể hiểu những tranh chấp sẽ
mang bản chất quốc tế nếu liên quan tới bất kì yếu tố nước ngoài nào như: nơi
giao kết hợp đồng ở nước ngoài, nơi thực hiện hợp đồng ở nước ngoài, đối
tượng hợp đồng nằm ở nước ngoài…

- Về căn cứ vào đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp:
Yếu tố này thường được xác định dựa vào hai dấu hiệu chính, đó là quốc
tịch của chủ thể hoặc trụ sở thương mại của các chủ thể hay nơi cư trú thường
xuyên của họ. Cách tiếp cận này đã được ghi nhận trong Điều I.1(a) Công ước
Châu Âu 1961 về Trọng tài thương mại quốc tế:
“Công ước này sẽ được áp dụng với:
(a) Thỏa thuận trọng tài được kí kết với mục đích giải quyết tranh chấp
phát sinh từ thương mại quốc tế giữa các cá nhân hoặc pháp nhân có nơi cư
trú thường xuyên hoặc trụ sở ở các nước ký kết khác nhau…”
Pháp luật Thụy Sĩ cũng có quy định về việc xác định quốc tịch của các
bên chủ thể tham gia tranh chấp có phải là “quốc tế ” hay không được quy
định tại Điều 176(1) Đạo luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sĩ. Theo
đó thì trọng tài là “quốc tế” khi vào thời điểm thỏa thuận trọng tài được xác
lập, ít nhất có một bên trong thỏa thuận không thường trú hoặc sinh sống
thường xuyên ở Thụy Sĩ.


20

Với vai trò là văn bản được xây dựng để áp dụng đối với trọng tài
thương mại quốc tế, định nghĩa về thuật ngữ “quốc tế” có ý nghĩa quan trọng
trong Luật mẫu của UNCITRAL. Ngoài việc sử dụng riêng lẻ từng yếu tố
hoặc là bản chất của tranh chấp, hoặc là đặc điểm của chủ thể tranh chấp thì
Luật Mẫu đã sử dụng cả hai yếu tố trên để định nghĩa trọng tài là “quốc tế”
khi nào? Cụ thể: Điều 1.3 Luật Mẫu định nghĩa trọng tài là “quốc tế” nếu:
- Các bên tham gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận
trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc
- Một trong những địa điểm mà các bên có trụ sở kinh doanh được đặt
ở ngoài quốc gia gồm: Nơi xét xử trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo
thoả thuận trọng tài; Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ

thương mại được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật
thiết nhất;
- Các bên đã thoả thuận rõ ràng rằng đối tượng của thoả thuận trọng tài
liên quan đến hơn một quốc gia.
Quy định trên của Luật mẫu còn cho thấy ngoài hai yếu tố về bản chất
tranh chấp và đặc điểm của chủ thể tham gia tranh chấp thì còn một yếu tố
được sử dụng trong định nghĩa đó là về địa điểm mà đối tượng của tranh chấp
có mối quan hệ gần gũi nhất có thể là nước ngoài đối với các bên. Đây là một
sự giải thích khá rộng về tính “quốc tế” của trọng tài thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là sự tìm hiểu những góc độ tiếp cận khác nhau của
thuật ngữ “quốc tế”. Còn để xác định một vụ trọng tài cụ thể nào đó có phải là
“quốc tế” hay không lại phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia liên quan.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng: Trọng tài thương mại
quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các
bên tham gia tranh chấp nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ thương mại có yếu tố yếu tố quốc tế giữa các bên chủ thể (chủ yếu là
giữa các thương nhân) với nhau bởi một hội đồng trọng tài gồm một hoặc số
lẻ trọng tài viên, theo một quy trình tố tụng mà các bên lựa chọn và nó kết thúc
với một phán quyết có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các bên.


21

1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại quốc tế
So với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng,
trung gian hòa giải, tòa án thì trọng tài thương mại quốc tế có những đặc trưng
cơ bản sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại quốc tế là một cơ quan tài phán tư:
Mặc dù Tòa án và trọng tài có điểm giống là cùng mang tính chất tài phán tuy
nhiên điểm khác biệt cơ bản là trọng tài mang tính chất “quyền lực tư”.

Trọng tài chỉ có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có sự thỏa thuận của các
bên tranh chấp còn xét xử của Tòa án là đại diện cho quyền lực công. Tòa án
có thẩm quyền giải quyết đương nhiên theo luật định đối với các vụ tranh
chấp phát sinh trong các lĩnh vực nếu các bên không có thỏa thuận khác12.
Thứ hai, hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại quốc
tế mang tính chất tài phán, có nghĩa là trọng tài được quyền đưa ra phán xét
cuối cùng để giải quyết tranh chấp và phán quyết này có giá trị bắt buộc đối
với các bên; trường hợp các bên không tự nguyện thì hành phán quyết trọng
tài thì sẽ bị cưỡng chế thi hành. Điều này làm cho trọng tài hoàn toàn khác với
phương thức thương lượng hay trung gian hòa giải. Trong phương thức
thương lượng hay trung gian hòa giải, các bên tranh chấp phải tự bàn bạc,
thỏa thuận để thống nhất phương án giải quyết tranh chấp bất đồng giữa họ và
tự nguyện thực hiện phương án đó.
Thứ ba, lựa chọn trọng tài thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế nhằm đảm bảo bí mật cho các nhà kinh doanh tham gia
vào tranh chấp. Các nhà kinh doanh luôn mong muốn rằng tranh chấp liên
quan đến bí mật thương mại cũng như công việc kinh doanh của họ được giữ
bí mật bởi nếu những yếu tố đó của họ nếu bị xét xử dưới sự theo dõi của
công luận sẽ ảnh hưởng tới công việc kinh doanh tương lai của họ. Nếu như
12 Phạm Chí Dũng (2012), Luận văn thạc sĩ luật học: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài theo pháp luật một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với
Việt Nam”, tr 22.


22

với Tòa án chỉ dựa vào trình tự tố tụng đã được quy định trong pháp luật quốc
gia, xét xử và đưa phán quyết về vụ việc một cách công khai thì với phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài thì tại phiên tòa
xét xử chỉ tiến hành với sự có mặt của các bên, thực hiện theo phương thức

xét xử kín, tách rời khỏi sự chú ý của công luận. Do đó, khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các vụ tranh chấp liên quan đến bí
mật kinh doanh, khiếm khuyết của hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm
sẽ được bảo đảm giữ bí mật.
Thứ tư, các phán quyết trọng tài thương mại quốc tế có giá trị chung
thẩm. Về nguyên tắc, phán quyết trọng tài là chung thẩm, nó buộc các bên phải
thi hành. Đa số các phán quyết trọng tài đều được thi hành với sự trợ giúp của
nhà nước trừ những trường hợp phán quyết bị hủy bởi Tòa án do chủ yếu vi
phạm các thủ tục tố tụng trọng tài. Tòa án không thể xét xử lại vụ tranh chấp
nếu đã có phán quyết của trọng tài mà chỉ có thể hủy phán quyết trọng tài trên
cơ sở xem xét các thủ tục tố tụng trọng tài có được chấp hành đầy đủ hay
không? Trong khi đó, các quyết định của Tòa án thường bị kháng cáo lên nhiều
cấp xét xử và hậu quả có thể phán quyết mới của Tòa án cấp cao hơn có nội
dung khác với phán quyết ban đầu đã được đưa ra.
1.1.3. Các loại trọng tài thương mại quốc tế
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam
hiện nay đều công nhận trọng tài thương mại quốc tế có hai loại chủ yếu: Trọng
tài vụ việc (Ad-hoc) và Trọng tài thường trực (hay trọng tài quy chế)13. Mỗi
loại trọng tài đều có ưu, nhược điểm riêng vốn bắt nguồn từ chính bản chất của
nó. Tùy từng vụ việc, hoàn cảnh cụ thể mà các bên tham gia tranh chấp sẽ
quyết định hình thức trọng tài nào là phù hợp hơn với tranh chấp thực tế đang
tồn tại giữa họ. Cụ thể:
13 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.


23

* Trọng tài vụ việc (ad hoc arbitration)
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài do các bên tranh chấp tự thành

lập để giải quyết vấn đề họ yêu cầu, sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì
hội đồng trọng tài tự giải tán (ad-hoc tiếng Latin có nghĩa là dùng cho việc
này, cho thời gian này). Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài vụ
việc có thể được tiến hành theo quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế
hoặc không theo quy tắc của tổ chức trọng tài nào mà thủ tục tố tụng do các
bên tự quy ước với nhau. Đặc điểm của hình thức trọng tài này là không có
trụ sở cố định, không lệ thuộc vào bất kì quy tắc nào.
Về ưu điểm: ưu điểm của trọng tài Ad-hoc là thủ tục giải quyết rất gọn
nhẹ và linh hoạt, thời gian xét xử ngắn, hai bên dễ dàng đi đến thỏa thuận
chung, ít chi phí. Hơn nữa, quy trình giải quyết bí mật là điều được các
thương nhân quan tâm.
Về nhược điểm: nhược điểm của trọng tài Ad-hoc đó là nó phụ thuộc rất
lớn vào sự hợp tác của các bên, vì không có quy tắc tố tụng riêng nên nó phụ
thuộc vào hệ thống pháp luật nơi xét xử của trọng tài; Trong trọng tài vụ
việc, không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành tố tụng trọng tài và giám
sát các trọng tài viên, do đó, kết quả phần lớn phụ thuộc vào năng lực của các
trọng tại viên mà hai bên đã thống nhất lựa chọn. Vì không có biểu phí cố
định như trong Trọng tài thường trực, các bên phải thỏa thuận trực tiếp về
vấn đề phí với Trọng tài viên, các bên có thể phải thỏa thuận trả thù lao theo
giờ, hay theo ngày làm việc, việc đó dẫn tới có thể thù lao, chi phí cuối cùng
sẽ còn cao hơn chi phí mà các bên phải trả nếu đưa tranh chấp tới một tổ
chức trọng tài.
Ở Việt Nam, trước đây chưa có quy định cụ thể về hình thức trọng tài
đặc biệt này, tuy nhiên kể từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 (Điều
26) có hiệu lực cho đến luật Trọng tài thương mại 2010 hiện hành đã kế thừa
các quy định của Pháp lệnh trọng tài 2003 cũng như xu hướng chung của
pháp luật trọng tài đa số các quốc gia trên thế giới thì cũng đều đã thừa nhận
sự tồn tại của loại trọng tài vụ việc này tại Điều 41.



24

* Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực)
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài có tổ chức, được thành lập
và hoạt động thường xuyên theo một quy chế nhất định (Điều lệ, Quy tắc tố
tụng của trung tâm trọng tài), có cơ quan thường trực và hoạt động theo quy
tắc riêng. Ngoài quy tắc riêng, mỗi tổ chức trọng tài còn có danh sách Trọng
tài viên của riêng mình.
Về ưu điểm: Trọng tài thường trực có rất nhiều ưu điểm, do có quy tắc
tố tụng được quy định chặt chẽ, công khai nên quá trình giải quyết tại trung
tâm trọng tài này được thực hiện theo các trình tự, thủ tục rất nghiêm túc.
Các tổ chức trọng tài thường xuyên sửa đổi quy chế để phù hợp với các thay
đổi trong hệ thống pháp luật của các nước và thực tiễn giao dịch thương mại
quốc tế. Hầu hết các tổ chức trọng tài đều có những chuyên gia hỗ trợ cho
quá trình trọng tài, đội ngũ trọng tài viên có trình độ cao, am hiểu trong nhiều
lĩnh vực khác nhau (thương mại, hàng hải, thanh toán quốc tế, luật quốc tế,
xây dựng, ngân hàng….) khiến cho quá trình tố tụng được diễn ra một cách
nhanh chóng và có hiệu quả cũng như có thể thiết lập một hội đồng trọng tài
công bằng, khách quan, đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho các bên.
Cùng với rất nhiều ưu điểm về loại trọng tài này, do đó các tổ chức trọng
tài phi chính phủ thường trực đã được thành lập ở rất nhiều nước trên thế
giới. Tại một số nước như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam….trọng tài
thường trực được tổ chức dưới hình thức các trung tâm trọng tài bên cạnh
Phòng thương mại và công nghiệp, cũng có những nước trọng tài thường trực
được tổ chức dưới dạng công ty hoặc hiệp hội trọng tài như ở Nhật, Mỹ
(Hiệp hội trọng tài Mỹ AAA, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản JCAA), Anh (Tòa
án trọng tài quốc tế Luân Đôn LCIA)14.

14 Phạm Chí Dũng (2012), Luận văn thạc sĩ luật học:“Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài theo pháp luật một số nước trong khu vực Châu Á và kinh nghiệm đối với

Việt Nam”, tr13.


25

Ở Việt Nam, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) được thành lập theo quyết
định số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993, trên cơ sở hợp
nhất Hội đồng trọng tài hàng Hải và Hội đồng trọng tài ngoại thương. VIAC
có nhiệm vụ xét xử các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế và từ
ngày 15/4/1996, Trung tâm được phép mở rộng thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ những quan hệ kinh doanh trong nước. VIAC hoạt
động theo điều lệ riêng, giải quyết tranh chấp theo quy tắc tố tụng riêng và là
tổ chức trọng tài thương mại có uy tín nhất Việt Nam hiện nay.
Về nhược điểm: Ngoài những ưu điểm vượt trội so với hình thức trọng tài
Ad-hoc, trọng tài quy chế có những nhược điểm như chi phí cho quá trình trọng
tài này thường khá đắt, ngoài phí trả cho các Trọng tài viên, các bên còn phải
thanh toán các khoản tiền liên quan tới dịch vụ hành chính. Mỗi tổ chức trọng
tài có mức phí riêng nhưng thường tương đương với mức phí do ICC thu.
1.2. Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
1.2.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế
Thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với
việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên tồn tại
một thỏa thuận trọng tài, hay nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì
không có giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Sự thỏa thuận này xuất phát từ
sự nhất trí giữa các bên dựa trên tinh thần tự nguyện, không ép buộc. Do đó,
việc xác định thế nào là thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Theo nghĩa thông thường nhất thì thỏa thuận trọng tài (arbitration
agreement) là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
Khoản 1 Điều 7, Luật Mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại
quốc tế quy định: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận mà các bên đưa ra
trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh


×