Tải bản đầy đủ (.doc) (166 trang)

Ảnh hưởng của biến động tăng giá đầu vào đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 166 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢO

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TĂNG GIÁ ĐẦU VÀO
ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT CHÈ CỦA CÁC HỘ
NÔNG DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN – 2014


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢO

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TĂNG GIÁ ĐẦU VÀO
ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT CHÈ CỦA CÁC HỘ
NÔNG DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

NÔNG NGHIỆP
:

: Kinh tế nông nghiệp


62.62.01.15

:
1. TS. Đoàn Quang Thiệu
2. PGS.TS. Nguyễn Đình Long

THÁI NGUYÊN – 2014


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chè là cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế dài, trồng một lần có
thể cho thu hoạch 30 - 40 năm hoặc lâu hơn nữa. Cây chè rất thích hợp trồng ở
vùng đồi núi, trung du. Vì thế, một quốc gia với ¾ diện tích là đồi núi như Việt
Nam thì cây chè rất phù hợp để phát triển. Hiện nay, trong khoảng 40 quốc gia
trồng chè, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 5 thế giới về diện tích và xuất khẩu
chè. Đối với người dân miền núi, cây chè còn là nguồn sống, nguồn thu nhập
chính, góp phần ổn định đời sống cho người dân miền núi, xóa đói giảm nghèo.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc, với điều kiện thiên
nhiên ưu đãi về khí hậu và đất đai rất thích hợp cho cây chè phát triển. Chè là cây
công nghiệp truyền thống có giá trị kinh tế cao ở Thái Nguyên, được thị trường
trong nước và nhiều nước trên thế giới biết đến. Nhân dân Thái Nguyên có nhiều
kinh nghiệm về trồng và chế biến chè. Họ đã biết tận dụng lợi thế đất đai, khí hậu
tạo nên hương vị chè Thái đặc trưng không thể lẫn với các loại chè khác. Vì thế,
chè Thái Nguyên đã nổi tiếng từ lâu, đặc biệt chè Tân Cương là sản phẩm nổi
tiếng trong cả nước. Cục Sở hữu trí tuệ đã chính thức cấp giấy chứng nhận đăng
ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm chè Thái Nguyên. Với diện tích 18.605 ha,
năng suất bình quân đạt 80 tạ chè búp tươi/ha, Thái Nguyên đứng thứ hai toàn

quốc sau Lâm Đồng cả về diện tích và sản lượng. Chè Thái Nguyên được tiêu thụ
cả thị trường trong và ngoài nước, trong đó thị trường nội tiêu chiếm trên 70%
sản lượng chè toàn tỉnh. Hiện nay, sản lượng chè tăng bình quân 9,4%/năm. (Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thái Nguyên 2012) [38]
Hiệu quả kinh tế cây chè ở Thái Nguyên đã đem lại cho các hộ nông dân
và cho tỉnh nhiều lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay ngành chè
vẫn gặp nhiều khó khăn như giá cả biến động thất thường, nhà máy thiếu nguyên
liệu, sản xuất manh mún, thậm chí phải đối mặt với nguy cơ mất thị trường xuất
khẩu chè… Không chỉ có doanh nghiệp gặp khó khăn mà người trồng chè cũng
lao đao không kém, hầu hết các hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, giá cả
phụ thuộc vào tư thương. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả
kinh tế của cây chè còn thấp và chưa ổn định là giá các yếu tố đầu vào để sản
xuất chè liên tục biến động tăng chưa ổn định.


4

Đối với sản xuất chè, các yếu tố đầu vào có vai trò rất quan trọng, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông
dân. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, thị trường đầu vào của sản xuất chè biến
động rất bất lợi cho các hộ nông dân. Giá các yếu tố đầu vào như phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, thuốc kích thích, công lao động, nhiên liệu… liên tục tăng cao
làm cho một bộ phận nông dân gặp không ít khó khăn, đặc biệt là nông dân
nghèo, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ
nông dân. Trong bối cảnh hiện nay, đứng trước những khó khăn chung của ngành
chè Thái Nguyên và của các hộ nông dân trồng chè trên địa bàn Tỉnh, việc
nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của sự biến động tăng giá đầu vào đến tình hình
sản xuất, kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân từ đó đưa
ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè cho các
hộ nông dân Thái Nguyên là hết sức cần thiết và thiết thực.

Xuất phát từ lý do trên chúng tôi lựa chọn vấn đề: "Ảnh hưởng của biến
động tăng giá đầu vào đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ nhằm góp
phần thúc đẩy việc sản xuất và xuất khẩu chè trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn ảnh hưởng của biến động tăng
giá đầu vào đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm khuyến cáo
chính phủ và hộ nông dân có những ứng xử phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh tế
trong sản xuất chè của các hộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
* Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa những vấn đề mang tính tổng quan về hiệu quả kinh tế, giá
và biến động giá trong sản xuất chè, ảnh hưởng của biến động giá đầu vào đến
hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ảnh hưởng của biến động tăng giá đầu vào
đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân ở tỉnh Thái Nguyên.
- Phân tích ảnh hưởng của các loại yếu tố đầu vào tới năng suất và hiệu
quả kỹ thuật trong sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn Tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

5

- Phân tích ảnh hưởng của việc tăng chi phí đầu vào tới hiệu quả kinh tế
sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tăng giá
đầu vào sản xuất chè và nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè cho các hộ nông
dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về hiệu quả kinh tế sản xuất
chè của các hộ nông dân, ảnh hưởng của biến động tăng giá đầu vào đến hiệu quả
kinh tế sản xuất chè của các hộ, ảnh hưởng của các loại đầu vào đến năng suất và
hiệu quả kỹ thuật sản xuất chè của của hộ và ảnh hưởng của việc tăng chi phí sản
xuất chè tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các
hộ nông dân trước và sau khi có biến động tăng giá đầu vào; ảnh hưởng biến
động tăng giá các yếu tố đầu vào chính trong sản xuất chè như giá các vật tư
phân bón, nhiên liệu, công lao động đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ
nông dân trên địa bàn Tỉnh; phân tích tác động của các loại yếu tố đầu vào tới
hiệu quả kỹ thuật sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu; tác
động của việc tăng chi phí sản xuất chè tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi về thời gian:
Giới hạn thời gian để phân tích biến động giá: Luận án chọn mốc trước
khi biến động giá là năm 2007, đây là năm giá các đầu vào sản xuất chè chưa
tăng cao, giá các đầu vào sản xuất chè không có biến động gì đặc biệt. Nghiên
cứu chọn mốc sau biến động giá năm 2011, đây là năm sau khi giá các đầu vào
sản xuất chè đã tăng cao và đi vào ổn định, không có biến động gì bất thường, lãi
suất vay ổn định, lạm phát không đáng kể, thời tiết biến động không đáng kể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>


6

Đối với nghiên cứu tổng quan, các thông tin được thu thập thông qua các
tài liệu đã công bố trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. Các số liệu đánh
giá thực trạng ở tỉnh Thái Nguyên được thu thập trong khoảng thời gian từ 2006
đến 2012. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp hộ năm
2008 và năm 2012.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực, là
tài liệu giúp hộ nông dân, xã, huyện và tỉnh đánh giá ảnh hưởng của biến động
tăng giá đầu vào đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè của các hộ nông dân,
đánh giá được ảnh hưởng của các loại yếu tố đầu vào tới năng suất và hiệu quả
kỹ thuật sản xuất chè của các hộ và đánh giá được ảnh hưởng của việc tăng chi
phí sản xuất chè tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, đưa ra được các giải pháp làm giảm thiểu tác động
không tốt của việc tăng giá đầu vào tới sản xuất chè của các hộ nông hộ dân,
khuyến cáo các hộ nông dân có những ứng xử phù hợp để sản xuất chè của các
hộ nông dân đạt hiệu quả kinh tế cao, có cơ sở khoa học.
Đề tài giúp cho các hộ nông dân sản xuất chè có giải pháp để phát triển
kinh tế cây chè, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng năng suất và hiệu quả kỹ thuật
trong sản xuất chè, giúp cho nhà quản lý địa phương có giải pháp phát triển kinh
tế xã hội và là tài liệu có giá trị cho những nhà nghiên cứu, những người giảng
dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp của luận án
Luận án nghiên cứu, thảo luận vấn đề về ảnh hưởng của biến động tăng
giá đầu vào đến hiệu quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên, trên cơ sở đó có những đóng góp mới về mặt lý luận, thực
tiễn, phương pháp nghiên cứu và giải pháp can thiệp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân.
Về mặt lý luận, luận án đã hệ thống hoá lý thuyết về hiệu quả kinh tế của

các hộ nông dân sản xuất chè, phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế và khung
phân tích làm cơ sở đánh giá ảnh hưởng của biến động tăng giá đầu vào tới hiệu
quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

7

Về phương pháp nghiên cứu, luận án áp dụng thành công các mô hình
toán: Mô hình hàm sản xuất Cobb-Douglas để phân tích tác động của biến động
tăng các yếu tố giá tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ, mô hình hàm giới
hạn sản xuất (Frontier function) để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào
tới năng suất và hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè của hộ, xác định được mức
đầu tư tối ưu trong sản xuất chè củao hộ để đạt lợi nhuận tối đa, mô hình hồi quy
gãy khúc để đánh giá tác động của sự gia tăng các yếu tố chi phí đến hiệu quả
kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân trên địa bàn Tỉnh. Sử dụng các mô hình dự
báo để thấy được sự biến động giá các yếu tố đầu vào trong sản xuất chè của hộ.
Về mặt thực tiễn, luận án đã đánh giá được thực trạng hiệu quả kinh tế sản
xuất chè của hộ trước và sau khi có biến động tăng giá đầu vào. Phân tích được
ảnh hưởng của biến động tăng các yếu tố giá đầu vào, đầu ra tới hiệu quả kinh tế
sản xuất chè của hộ. Đánh giá được tác động của việc tăng chi phí trong sản xuất
chè tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ. Phân tích được ảnh hưởng của các
loại yếu tố đầu vào tới năng suất và hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè của hộ.
Luận án chỉ ra được việc tăng giá các yếu tố đầu vào gây cản trở tới việc
nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè cho các hộ nông dân, từ đó có các giải
pháp nhằm hạn chế tác động không tốt của các yếu tố này, khuyến cáo các hộ có
ứng xử phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ.
6. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 04 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về ảnh hưởng của biến động tăng giá đầu vào
đến
hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Phân tích thực trạng ảnh hưởng của tăng giá đầu vào đến hiệu
quả kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Chương 4: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè
của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong điều kiện tăng giá đầu
vào.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

8

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG
TĂNG GIÁ ĐẦU VÀO TỚI HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT CHÈ
CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN
1.1 Cơ sở lý luận về giá, biến động giá và hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè
của hộ nông dân
1.1.1 Đặc điểm kỹ thuật và kinh tế của cây chè
1.1.1.1 Đặc điểm sinh vật học
Theo Willson, K.C (1992), Cây chè có tên khoa học là Cmaellia sinesis, là
loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè. Chè là loại cây
xanh lâu năm được mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa
thấp hơn 2m khi được trồng để lấy lá. Lá chè có chiều dài từ 4 - 15cm, lá non có
màu xanh lục nhạt, lá già có màu lục sẫm. Các độ tuổi khác nhau của lá chè tạo
ra các sản phẩm chè khác nhau về chất lượng do thành phần hóa học trong các lá

này là khác nhau. Thông thường, chỉ có lá chồi và 2 đến 3 lá mọc gần thời gian
đó được thu hoạch để chế biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn
sau khoảng 1 đến 2 tuần.
* Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển của cây chè
Cây chè là cây lâu năm tính từ khi gieo trồng phải mất thời gian từ 3 đến 5
năm kiến thiết cơ bản. Sau thời kỳ kiến thiết cơ bản cây chè mới cho kinh doanh.
(Lê Tất Khương, 1999) [25]
1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất chè
* Các nhân tố về điều kiện tự nhiên
- Đất đai và địa hình: Muốn chè có chất lượng cao và hương vị đặc biệt
cần phải trồng chè ở độ cao nhất định. Đa số những nơi trồng chè trên thế giới
thường có độ cao cách mặt nước biển từ 500-800m. So với một số cây trồng
khác, cây chè yêu cầu về đất không nghiêm ngặt, nhưng để sinh trưởng tốt, có
tiềm năng năng suất cao thì đất trồng chè phải đạt yêu cầu đất tốt, có nhiều mùn,
có độ sâu, chua và thoát nước.
- Thời tiết, khí hậu: Cây chè sinh trưởng và phát triển tốt nhất trong điều
kiện nhiệt độ từ 15 – 23 độ C. Mùa đông cây chè tạm ngừng sinh trưởng, mùa
xuân cây chè sinh trưởng trở lại. Do cây chè là cây thu hoạch lấy núp non và lá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

9

non nên cây ưa ẩm, cần nhiều nước. Cây chè yêu cầu độ ẩm cao trong suốt thời
kỳ sinh trưởng là khoảng 85 %. Ở nước ta, các vùng trồng chè có điều kiện thích
hợp nhất cho cây chè phát triển cho năng suất và chất lượng cao vào các tháng 5,
6, 7, 8, 9 và 10.
* Nhóm nhân tố về kỹ thuật
- Giống chè: Giống chè ảnh hưởng tới năng suất búp, chất lượng nguyên

liệu do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm chè, đến hiệu quả kinh
doanh và cạnh tranh trên thị trường.
- Kỹ thuật chăm sóc gồm tưới nước cho chè, đốn chè, bón phân. Bón phân
là biện pháp kỹ thuật quan trọng nhằm tăng năng suất và chất lượng chè. Nhiều
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước cho thấy hiệu
quả của bón phân cho chè chiếm từ 50 – 60%. Trong các loại phân bón cho chè
thì đạm có vai trò hàng đầu, sau đó đến lân và kali. Do vậy, khi giá phân bón
tăng cao có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất chè của
các hộ.
- Kỹ thuật thu hái và bảo quản: Nguyên liệu chè sau khi thu hái có thể đưa
thẳng vào chế biến, có thể để một thời gian nhưng không quá 10 giờ, do vậy khi
thu hái không để dập nát búp chè.
- Kỹ thuật chế biến. (Cao Ngọc Lân, 1992), [26]
1.1.1.3 Đặc điểm của thị trường tiêu thụ sản phẩm chè
- Tính ổn định và tính ít co dãn về mặt cung cầu: Trong thị trường tiêu thụ
chè, quan hệ cung cầu thay đổi chậm, độ co dãn của cung cầu thấp hơn các sản
phẩm khác. Vì sản phẩm chè là đồ uống hàng ngày nhưng không phải là mặt
hàng thiết yếu như các loại lương thực, thực phẩm khác. Khi có sự biến động về
giá thì cung - cầu thay đổi chậm, không vì sản phẩm chè trên thị trường nhiều và
rẻ mà người tiêu dùng cần nhiều sản phẩm hơn. Khối lượng sản phẩm chè đưa ra
thị trường tuy có thay đổi nhưng không thể có biến đổi lớn trong một thời gian
nhất định. Không phải vì có nhu cầu tiêu dùng lớn, giá cao mà người sản xuất có
thể cung ngay một khối lượng lớn cho thị trường do đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp cần phải có thời gian sản xuất nhất định. Do vậy, muốn ổn định và mở
rộng thị trường tiêu thụ chè cần nghiên cứu được nhu cầu thị trường để đẩy mạnh
sản xuất, tăng cung đáp ứng cầu một cách chủ động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>


10

- Thị trường tiêu thụ chè gắn với tính thời vụ: Do đặc điểm này mà người
trồng chè không chỉ phải đối phó với sự tác động của điều kiện tự nhiên mà còn
phải đối phó với những vấn đề khách quan khác xuất phát từ thị trường. Muốn
hạn chế sự biến động của thị trường chè theo thời vụ người sản xuất cần cải tiến
công nghệ chế biến, bảo quản, dự trữ để điều hòa cung cầu. Nhà nước cũng cần
có những chính sách hỗ trợ cho người trồng chè để có thể sản xuất chè vụ đông
như tưới nước cho chè vụ đông, chế biến sản phẩm vào những tháng chính vụ...
- Thị trường tiêu thụ chè gắn liền với việc khai thác và sử dụng lợi thế so
sánh các điều kiện tự nhiên và những điều kiện sản xuất khác: chè là cây trồng
chỉ có thể sinh trưởng, phát triển và cho sản phẩm kinh tế trong những điều kiện
tự nhiên nhất định. Chính vì vậy, thị trường chè hình thành nguồn cung theo
luồng, tuyến hay khu vực và có thể phát sinh hiện tượng cạnh tranh không hoàn
hảo, trong khi đó bất kỳ người sản xuất nào cũng muốn đưa ra thị trường sản
phẩm chè mà mình có ưu thế nhất. Điều này đòi hỏi người sản xuất phải biết tận
dụng đất đai, thời tiết, khí hậu, lao động cũng như phải biết ứng dụng những
thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất để nâng cao
năng suất, hạ giá thành sản phẩm để tạo lợi thế trong cạnh tranh.
1.1.2 Kinh tế hộ nông dân sản xuất chè
1.1.2.1 Khái niệm về hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên
ngành kinh tế, người ta định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người
sống chung trong một ngôi nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và
người làm công, người cùng ăn chung. Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái
niệm về “Hộ” gồm những người sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung,
làm chung và cùng có chung một ngân quỹ.
Giáo sư Mc Gê (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
“Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết
tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.

Nhóm “hệ thống thế giới” gồm các đại biểu Wallerstan (1982), Wood
(1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một nhóm
người có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là
một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

11

Theo lý thuyết về hệ thống nông nghiệp (FAO, 1999), hộ nông dân là đơn
vị cơ bản cho các phân tích KTXH, là hệ thống sản xuất có cấu trúc phức hợp,
quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác ở mức độ cao hơn.

Hình 1.1 Hộ nông dân trong mối quan hệ với các hệ thống sản xuất
(Nguồn: FAO(1999), Guidelines for Agrarian Systems Diagnosis, Rome)
Theo Frank Ellis (1993) “Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống
dựa trên ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm
trong hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia
từng phần vào thị trường với mức độ không hoàn hảo”. Theo ông các đặc trưng
của đơn vị kinh tế để phân biệt gia đình nông dân với những người làm kinh tế
khác trong một nền kinh tế thị trường là: Thứ nhất, đất đai: Người nông dân với
ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó;
nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống của gia đình nông dân trước những thiên
tai. Thứ hai, lao động: Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính
kinh tế nổi bật của người nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các
nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các xí nghiệp tư bản. Thứ ba, tiền vốn và
sự tiêu dùng: Người ta cho rằng: “người nông dân làm công việc của gia đình
chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy” (Woly, 1966) nó khác với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>

12

đặc điểm chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm chủ vốn đầu tư vào
tích lũy cũng như khái niệm hoàn vốn đầu tư dưới dạng lợi nhuận.
Theo “Kinh tế hộ nông dân” của Đào Thế Tuấn (1995) thì Hộ nông dân là
một nhóm người cùng chung huyết tộc, sống chung hay không sống chung với
người khác huyết tộc trong cùng mái nhà, ăn chung và có cùng chung ngân quỹ.
Khái niệm này chưa hoàn toàn phản ánh chính xác về hộ nông dân. Tuy nhiên,
Ông cũng xác định hộ nông dân là những hộ làm nông nghiệp mà ở đó họ vừa là
người sản xuất, vừa là người tiêu thụ nông sản.
Theo Nguyễn Văn Huân (1995) “Kinh tế hộ nông dân là một hình thức
sản xuất đặc biệt, tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Kinh tế hộ nông dân có những
quy luật phát triển của nó, trong mọi chế độ nó luôn thích ứng với thực tế cuộc
sống, cơ chế kinh tế hiện hành”.
Có nhiều quan niệm khác nhau về hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân,
qua tham khảo các tài liệu luận án đưa ra khái niệm về hộ và kinh tế hộ. Hộ nông
dân là hộ gia đình được xem như một đơn vị kinh tế có đất đai, tư liệu sản xuất,
vốn sản xuất thuộc sở hữu của hộ gia đình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia
đình để sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Các thành viên trong hộ đều hưởng
phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là
người lớn trong hộ gia đình. Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế trong đó các
hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình và mục đích của loạt hình
kinh tế này trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình (không phải mục
đích chính là sản xuất hàng hoá để bán). Tuy nhiên cũng cần có sự chú ý ở đây là
các hộ gia đình cũng có thể sản xuất để trao đổi nhưng ở mức độ hạn chế.
1.1.2.2 Đặc điểm kinh tế hộ nông dân và hộ nông dân sản xuất chè
Kinh tế hộ nông dân tồn tại ở các xã hội khác nhau, ở các giai đoạn khác

nhau có sự khác nhau về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, quy mô sản xuất và
hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau
nhưng tựu trung lại, kinh tế hộ nông dân mang một số đặc điểm cơ bản sau:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là đơn vị sản xuất vừa là
đơn vị tiêu dùng.
- Hộ nông dân có khả năng tự duy trì được tái sản xuất giản đơn do hộ
nông dân có tư liệu sản xuất của riêng họ, đó là đất đai và lao động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

13

- Việc tối đa hóa lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất và không phải
mục tiêu chủ yếu của sản xuất trong hộ nông dân.
- Hộ nông dân có thể vượt qua áp lực của thị trường bằng việc sử dụng lao
động của gia đình.
- Lao động quản lý và lao động trực tiếp trong hộ nông dân có sự gắn bó
chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống. Tính thống nhất giữa lao động quản
lý và lao động trực tiếp rất cao.
- Hộ nông dân có khả năng đa dạng hóa các hoạt động kinh tế của hộ, do
đó họ có thể giảm thiểu bớt rủi ro.
- Hộ nông dân là đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ nhưng hiệu quả, có khả
năng thích nghi và sự điều chỉnh rất cao. (Chu Văn Vũ, 1995) [58]
Hộ nông dân sản xuất chè ở Thái Nguyên ngoài mang những đặc điểm
chung của hộ nông dân nêu trên còn mang một số đặc điểm:
- Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún.
- Tiềm lực, nguồn lực (như vốn, lao động…) để sản xuất yếu nên các hộ
nông dân sản xuất chè không dự trữ được các vật tư, yếu tố đầu vào cho sản xuất
chè. Do đó, khi có biến động tăng giá đầu vào các hộ chịu sự tác động lớn.

- Trình độ dân trí thấp, vì thế cho dù có đủ nguồn lực để đầu tư cho sản
xuất chè thì hộ nông dân cũng không đủ kiến thức để tính đoán được mức dự trữ
tối ưu.
- Hộ nông dân sản xuất chè ở vùng cao của Thái Nguyên có địa hình đồi
núi phức tạp, sản xuất của các hộ chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên, nhất
là vào mùa mưa.
- Điều kiện sản xuất của hộ nông dân vùng cao còn nghèo nàn, giao thông
đi lại khó khăn, khả năng tiếp cận thị trường kém, nguồn thông tin bị hạn chế dấn
đến kinh tế chậm phát triển.
Để hộ nông dân trồng chè ở Thái Nguyên phát triển được thì ngoài sự cố
gắng của bản than người dân, họ cần có sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước, của
các ban ngành, cộng đồng để có những định hướng và các giải pháp cho từng
vùng cụ thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

14

1.1.2.3 Các nguồn lực của hộ nông dân
Trong hộ nông dân, các nguồn lực chủ yếu của hộ là đất đai, lao động và
vốn cho sản xuất. Đất đai của hộ nông dân bao gồm: đất được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, đất thuê (theo vụ hay lâu dài), đất khoán, thầu bên
ngoài. Việc sử dụng đất đai của hộ nông dân phụ thuộc vào độ phì, quy mô diện
tích và vị trí thửa ruộng. Mặt khác, việc sử dụng đất đai của hộ nông dân còn phụ
thuộc vào chính sách đất đai của Nhà nước, địa phương. Đặc trưng nổi bật của hộ
nông dân nước ta hiện nay là quy mô diện tích đất canh tác rất nhỏ bé, biểu hiện
rõ nét một nền kinh tế tiểu nông. Quy mô đất đai của một hộ nông dân ở các tỉnh
đồng bằng sông Hồng rất nhỏ và manh mún, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

và một số tỉnh miền núi và Tây Nguyên có diện tích lớn hơn nhưng so với các
nước trong khu vực vẫn thuộc loại nhỏ bé (Nguyễn Văn Huân, 1995) [21]. Điều
này ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển nền nông nghiệp hàng hóa có tính cạnh
tranh cao trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Quy mô diện tích đất đai của hộ
có ảnh hưởng tới ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ của KHCN, các hộ có quy mô
nhỏ ngại thay đổi công nghệ, các hộ có diện tích lớn thì hiệu quả kinh tế cao hơn
hộ có diện tích nhỏ. Vì thế, để khuyến khích các hộ nông dân trồng chè ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật thì việc dồn điền đổi thửa cũng là một yêu cầu đặt ra.
Một nguồn lực rất quan trọng khác của hộ nông dân đó là nguồn lao động
trong gia đình. Nguồn lao động này gồm lao động chính và lao động quy của hộ.
Trong sản xuất nông nghiệp, các hộ chủ yếu dựa vào nguồn lao động này và
thường được sử dụng linh hoạt theo nhiều chiều một cách hiệu quả. Đây là sự
khác biệt cơ bản giữa lao động hộ nông dân và các thành phần kinh tế khác. Sức
lao động trong hộ nông dân có đặc trưng là họ không được coi là hàng hóa. Lao
động này chủ yếu được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sự nghỉ ngơi
của gia đình họ. Ở những gia đình có tỷ lệ số lao động trên số nhân khẩu thấp thì
thời gian nghỉ giảm đi hay nói cách khác là họ phải làm việc vất vả hơn và ngược
lại. Lao động trong hộ nông dân ở Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm: đa
dạng nhưng ít chuyên sâu, mang tính thời vụ; dư thừa nên việc tìm kiếm việc làm
trong nông thôn gặp nhiều khó khăn mà thu nhập lại thấp; trình độ học vấn và kỹ
năng của người lao động thấp, ít được đào tạo, chủ yếu là tự đào tạo và truyền
nghề, tôn sùng kinh nghiệm. Điều này hạn chế đến việc tiếp thu kỹ thuật và công
nghệ mới, nhất là ứng dụng các tiến bộ trong sản xuất của các hộ trồng chè trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

15


địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Thực tế hiện nay ở các vùng nông thôn cho thấy, hầu
hết các lao động trẻ khỏe, có học vấn đều dời các làng quê thuần nông lên các
thành phố tìm kiếm cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho hộ. Mặc dù vậy, một hệ
lụy đang diễn ra trong vùng là lao động còn lại cho sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất của các hộ trồng chè nói riêng chủ yếu lại là lao động nữ. Việc
sử dụng nhiều lao động nữ trong sản xuất nông nghiệp phần nào có ảnh hưởng
tới khả năng áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Để sử dụng và nâng cao
nguồn nhân lực trong hộ nông dân cần đẩy mạnh đào tạo kỹ năng lao động thông
qua các hoạt động khuyến nông. Xét về lâu dài, việc đầu tư cho giáo dục và công
tác khuyến nông là những phương tiện hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cho
nguồn lao động này, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả
sản xuất và cải thiện thu nhập cho hộ nông dân.
Nguồn vốn cho sản xuất là nguồn lực không thể thiếu của hộ. Nguồn vốn
trong hộ nông dân bao gồm tiền và hiện vật mà hộ có hoặc đi vay để phục vụ sản
xuất. Ở nước ta, do quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ, lẻ, năng suất lao động
thấp nên khả năng tích tụ vốn của đại đa số hộ nông dân còn rất thấp. Theo số
liệu tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn của Tổng cục thống kê (2012), vốn tích
lũy của các hộ nông nghiệp nước ta năm 20012 ở mức thấp, trung bình khoảng
6,8 trđ/hộ, trong khi vốn tích lũy của các loại hộ khác cao hơn (hộ vận tải là 16,8
trđ/hộ, hộ thương mại là 14,21 trđ/hộ và hộ thủy sản là 11,3 trđ/hộ).
Sản xuất của các hộ nông dân trồng chè cũng cần đầu tư thâm canh, do
vậy cần nguồn vốn lớn hơn, đặc biệt là phân đạm, NPK, tưới tiêu. Với nguồn vốn
rất hạn chế như trên để đảm bảo cho các hộ nông dân sản xuất chè đạt hiệu quả
kinh tế cao cần có sự đầu tư giúp đỡ tiền mua phân bón, tưới tiêu thông qua hình
thức cho vay, hỗ trợ lãi suất ..vv..
1.1.3 Hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè của hộ nông dân
1.1.3.1 Một số khái niệm
* Khái niệm về Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency - TE)
Hiệu quả kỹ thuật là khả năng cực tiểu hóa sử dụng đầu vào để sản xuất
một đầu ra cho trước. Theo Colman và Young (1990) [65], hiệu quả kỹ thuật

được định nghĩa là khả năng của người sản xuất có thể sản xuất mức đầu ra tối đa
với một tập hợp các đầu vào và công nghệ cho trước. Theo Koopman (1991)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

16

[69], một nhà sản xuất được xem là có hiệu quả kỹ thuật nếu một sự gia tăng
trong bất kỳ đầu ra đòi hỏi một sự giảm xuống của ít nhất một đầu ra khác hoặc
một sự gia tăng ít nhất một đầu vào.
Cần phân biệt hiệu quả kỹ thuật với thay đổi công nghệ. Sự thay đổi công
nghệ làm dịch chuyển hàm sản xuất (dịch chuyển lên trên) hay dịch chuyển
đường đồng lượng xuống phía dưới. Hiệu quả kỹ thuật được đo bằng số lượng
sản phẩm có thể đạt được trên chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản
xuất trong điều kiện cụ thể áp dụng kỹ thuật hay công nghệ. Hiệu quả kỹ thuật
thường được phản ánh và biểu hiện trong mối quan hệ giữa các yếu tố trong hàm
sản xuất và liên quan đến phương diện sản xuất vật chất. Nó phản ánh mối quan
hệ giữa yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra, giữa các yếu tố đầu ra với nhau và giữa
các sản phẩm khi nhà sản xuất quyết định sản xuất. Vì thế, nó được áp dụng phổ
biến trong kinh tế vi mô để xem xét tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào cụ thể.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị chi phí nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại bao
nhiêu đơn vị sản phẩm.
* Khái niệm về Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency - AE)
Hiệu quả phân bổ liên quan đến việc lựa chọn đầu vào (vốn, lao động,
công nghệ... ) tạo ra đầu ra ở mức chi phí thấp nhất. Hiệu quả phân bổ là thước
đo phản ánh mức độ thành công của người sản xuất trong việc lựa chọn tổ hợp
các đầu vào tối ưu, nghĩa là tỷ số giữa sản phẩm biên của yếu tố đầu vào nào đó
sẽ bằng tỷ số giá cả giữa chúng.
Hiệu quả phân bổ là hiệu quả do giá các yếu tố đầu vào và đầu ra được

tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu
vào hay nguồn lực. Thực chất, hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến
yếu tố giá của đầu vào và giá của đầu ra. Việc xác định hiệu quả phân bổ giống
như xác định các điều kiện về lý thuyết để tối đa hóa lợi nhuận.
* Khái niệm về Hiệu quả kinh tế (Economic Efficiency - EE)
Xuất phát từ các góc độ xem xét, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều quan
điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Theo Kar Marx, hiệu quả là việc “tiết kiệm
và phân phối một các hợp lý thời gian lao động sống và lao động vật hóa giữa
các ngành” và hiệu quả cũng là quy luật “tiết kiệm và tăng năng suất lao động”.
Kar Marx cũng cho rằng “nâng cao năng suất lao động vượt quá nhu cầu cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

17

nhân của người lao động là sơ sở tiết kiệm của hết thảy mọi xã hội” (K.Marx,
1962) [24].
Theo David Begg (1992) [8], “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng sản lượng một loại hàng hóa này mà không cắt giảm một loại hàng hóa
khác” và Ông còn khẳng định “Hiệu quả nghĩa là không lãng phí”. Các quan
điểm này đúng trong nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển nhưng khó xác
định vì chưa đề cập đến chi phí để tạo ra sản phẩm, nhất là ở các nước đang phát
triển hay chậm phát triển.
Theo Nguyễn Như Ý (1999) [60] “Hiệu quả được hiểu như một hiệu số
giữa kết quả với chi phí, tuy nhiên trong thực tế đã có trường hợp không thực
hiện được phép trừ hoặc phép trừ không có ý nghĩa”.
Các nhà kinh tế học thị trường như Samuelson, Nordhaus (2002) [29] cho
rằng “Hiệu quả là một tình trạng mà trong đó các nguồn lực của xã hội được sử
dụng hết để mang lại sự thỏa mãn tối đa cho người tiêu dùng” và “Hiệu quả kinh

tế xảy ra khi không thể tăng thêm mức độ thỏa mãn của người này mà không làm
phương hại cho người khác”.
Theo Phạm Ngọc Kiểm (2009) [23] “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một
phạm trù kinh tế, biểu hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nó phản ánh
trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ tiết kiệm chi phí các nguồn lực đó
trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh”. Quan điểm
này ưu việt hơn trong đánh giá hiệu quả đầu tư theo chiều sâu, hoặc hiệu quả của
việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật.
Theo Begg và CVT (1992) [8]. Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà
trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa
là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các
nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt một trong hai chỉ tiêu hiệu quả nói trên
(hoặc là hiệu quả kỹ thuật, hoặc là hiệu quả phân bổ) mới là điều kiện cần, chưa
phải là điều kiện đủ để đạt hiệu quả kinh tế. Vì thế, chỉ khi nào sử dụng nguồn
lực đạt cả hai chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất
mới đạt hiệu quả kinh tế. Trong sản xuất chè, khi xét đến hiệu quả kinh tế cần
chú ý hiệu quả kinh tế tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần, nghĩa là
sự phản ứng của năng suất cây chè với mức đầu tư sẽ bị giảm dần kể từ một thời
điểm nào đó, điểm đó gọi là điểm tối ưu sinh học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

18

Hiện nay, theo quan điểm mới, hiệu quả kinh tế (EE) gồm hai bộ phận là
hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả phân bổ (AE). Theo Colman và Young (1990)
[65], hiệu quả kinh tế được tính bằng tích của hiệu quả kỹ thuật và hiệu quản
phân bổ. Hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ kết hợp tạo ra hiệu quả kinh tế
toàn bộ hay hiệu quả tiết kiệm chi phí (Overall Economic Efficiency/Cost

Efficiency).
Như vậy, có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế, tuy nhiên trong đề tài
này chúng tôi đã tham khảo một số tài liệu và tổng hợp thành khái niệm: Hiệu
quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt
chất lượng của quá trình sản xuất chè được xác định bằng cách so sánh kết quả
đầu ra của sản xuất chè với các chi phí đầu vào sản xuất chè.
* Nội dung và bản chất hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân
Nội dung của hiệu quả: Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh giữa kết quả
thu được với toàn bộ chi phí các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (đất đai,
vốn, lao động, kỹ thuật, quản lý...). Kết quả và hiệu quả kinh tế là hai phạm trù
kinh tế khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thể hiện quy mô,
khối lượng của một sản phẩm cụ thể và được thể hiện bằng nhiều chỉ tiêu, tùy
thuộc vào từng trường hợp. Hiệu quả là đại lượng để đánh giá kết quả đó được tạo
ra như thế nào, mức chi phí cho một đơn vị kết quả đó có chấp nhận được không.
Hiệu quả luôn gắn liền với kết quả của từng hoạt động cụ thể. Trong sản
xuất một sản phẩm cụ thể luôn có mối quan hệ sử dụng yếu tố đầu vào và kết quả
đầu ra. Từ đó, chúng ta xác định được hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm là
bao nhiêu? Mức chi phí như vậy có hiệu quả không? Tuy nhiên, hiệu quả và kết
quả phụ thuộc vào từng ngành, từng hoạt động ở điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội, môi trường ... (Phạm Ngọc Kiểm, 2009) [23]
Hiệu quả kinh tế khi tính toán gắn liền với việc lượng hóa các yếu tố đầu
vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (sản phẩm). Việc lượng hóa hết và cụ thể các
yếu tố này để tính toán hiệu quả thường gặp khó khăn nhất là trong sản xuất nông
nghiệp. Chẳng hạn, đối với các yếu tố đầu vào như tài sản cố định (đất nông
nghiệp, vườn cấy lâu năm…) được sử dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất, trong nhiều
năm nhưng không đồng đều. Mặt khác, giá trị hao mòn khó xác định chính xác
nên việc tính khấu hao TSCĐ và phân bổ chi phí để tính hiệu quả chỉ có tính chất
tương đối. Một số chi phí chung như chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>

19

thông tin, khuyến cáo khoa học kỹ thuật cần thiết phải hạch toán vào chi phí,
nhưng trên thực tế khó có thể tính toán cụ thể và chính xác những chi phí này. Sự
biến động của giá cả và mức độ trượt giá trên thị trường gây khó khăn cho việc xác
định chính xác các loại chi phí sản xuất chè. Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng
thuận lợi và gây khó khăn cho sản xuất, nhưng mức độ tác động là bao nhiêu đến
nay vẫn chưa có phương pháp nào xác định chuẩn xác nên cũng ảnh hưởng tới
việc tính đúng, tính đủ các yếu tố đầu vào. Đối với các yếu tố đầu ra, chỉ lượng
hóa được kết quả thể hiện bằng vật chất, còn kết quả thể hiện dưới dạng phi vật
chất như tạo công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tái sản
xuất, bảo vệ môi trường.... thường không thể lượng hóa được ngay. Vì vậy, việc
xác định đúng, đủ lượng kết quả này cũng gặp khó khăn.
Bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè:
Bản chất của nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè là nâng cao
năng suất chè và tiết kiệm chi phí sản xuất chè trên một đơn vị sản phẩm được sản
xuất ra. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè cũng bao gồm hiệu quả kỹ thuật và
hiệu quả phân bổ. Hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè chính là hiệu quả của
người nông dân bằng kinh nghiệm và kiến thức của mình sử dụng một lượng
đầu vào thích hợp (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) để sản xuất ra một khối
lượng chè lớn hơn trên cùng một đơn vị diện tích, trong cùng một khoảng thời
gian của vụ của năm. Hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất chè của nông hộ là mức
giảm lượng đầu tư cho một đơn vị sản phẩm sản xuất ra. Sản xuất chè đạt hiệu quả
phân bổ khi giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm hoặc tăng giá bán trên
một đơn vị sản phẩm đầu ra.
1.1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân
- Nhóm yếu tố về kỹ thuật trong sản xuất chè
Giống: Giống có ảnh hưởng tới năng suất cũng như chất lượng của chè

thành phẩm. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè cần quan tâm
đến nguồn gốc giống và chất lượng loại giống mà hộ nông dân sử dụng. Hiện
nay, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, giống chè mà các hộ nông dân sử dụng vẫn
là giống chè Trung du (năm 2010 chiếm 65,43% diện tích trồng chè của cả tỉnh).
Các giống chè mới nhập nội và các giống chè trong nước chọn lai tạo có năng
suất là chất lượng cao vẫn còn chiếm tỷ lệ hạn chế (năm 2010 chiếm 34,57 %).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

20

Phân bón: Phân bón liên quan đến yếu tố đầu vào, việc biến động tăng giá
đầu vào phân bón trong giai đoạn hiện nay ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh
tế của sản xuất chè. Do đó, khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè của
hộ cần chú ý tới lượng phân bón mà các hộ sử dụng.
Biện pháp canh tác: Sản xuất chè không chỉ có đầu tư phân bón mà cần
phải áp dụng các biện pháp quản lý canh tác tổng hợp, bao gồm quản lý dinh
dưỡng (phân bón: sử dụng phân bón cân đối, áp dụng biện pháp canh tác hữu cơ,
hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu), nước (tưới tiết kiệm), áp dụng
quản lý phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM), áp dụng quy trình thực hành sản xuất
nông nghiệp tốt GAP... Khi nghiên cứu, đánh giá cần tìm hiểu biện pháp canh tác
mà các hộ áp dụng so với biện pháp canh tác đã được khuyến cáo, từ đó xây
dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ thuật, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh
tế của các hộ nông dân trồng chè.
- Nhóm yếu tố điều kiện kinh tế và tổ chức sản xuất
Quy mô sản xuất: Các hộ nông dân có diện tích đất canh tác, diện tích
trồng chè khác nhau, diện tích chuyển đổi các giống chè mới khác nhau, khả
năng đầu tư thâm canh cũng khác nhau. Diện tích của hộ càng lớn thì các công

việc như tổ chức chăm sóc, thu hoạch, chi phí ... cũng tiết kiệm hơn.
Trình độ của chủ hộ: Trình độ văn hóa, am hiểu khoa học kỹ thuật, tổ
chức quản lý và sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của lao động trong hộ nông dân
có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng chè. Vì vậy, tập
huấn kỹ thuật cho nông dân áp dụng kỹ thuật tiến bộ là rất cần thiết. Mỗi một
nông dân có khả năng tiếp thu ở mức độ nhất định, do vậy năng suất cây trồng
nói chung và chè nói riêng luôn có sự khác biệt giữa các hộ.
Môi trường chính sách: Mỗi địa phương thường có những chính sách hỗ
trợ khác nhau cho sản xuất chè, điều này có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất chè
giữa các địa phương. Hệ thống khuyến nông có một vai trò rất quan trọng trong
việc thúc đẩy việc áp dụng nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất của nông hộ. Tuy
nhiên, hoạt động của hệ thống khuyến nông trong sản xuất chè còn những điều
bất cập như nặng về phong trào, chưa chú trọng đến việc xây dựng các mô hình
phát triển bền vững. Ngoài ra, sự quan tâm của các HTX, các tổ chức chính trị xã
hội (hội nông dân, hội phụ nữ), các ban, ngành.... có ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả cũng như hiệu quả sản xuất chè của các hộ nông dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

21

Các nhân tố khác như: Trình độ chuyên môn hóa, tập trung hóa sản xuất
chè của vùng, cơ sở hạ tầng, vốn sản xuất, hợp tác trong sản xuất và các hình
thức tổ chức sản xuất chè.
- Nhóm yếu tố xã hội
Tập quán canh tác: Mỗi vùng có tập quán canh tác khác nhau, vùng thì sử
dụng trồng bằng chè cành, vùng thì trồng chè bằng hạt, tập quán sử dụng phân
đạm, tưới tiêu... cũng khác nhau, điều đó ảnh hưởng tới hiệu quả kỹ thuật trong
sản xuất chè của nông hộ.

Dân tộc, giới tính: Trên thực tế, mỗi dân tộc, giới tính có khả năng ứng
dụng các kỹ thuật tiến bộ khác nhau dẫn đến kết quả sản xuất cũng khác nhau.
Thương nhân, tổ hợp tác... đây là yếu tố ảnh hưởng tới việc tiêu thụ và giá tiêu
thụ của sản phẩm chè, nó ảnh hưởng tới hiệu quả phân bổ trong sản xuất chè của
nông hộ.
- Nhóm các yếu tố về giá
+ Giá các yếu tố đầu vào:
Giá của giống. Để để có diện tích chè cho thu hoạch thì thời gian kiến
thiết cơ bản mất nhiều năm (3 đến 5 năm). Thực tế hiện nay giống chè được
trồng chủ yếu trên địa bàn nghiên cứu là giống chè Trung du cho năng suất, chất
lượng chè không cao, muốn chuyển đổi sang các giống chè mới cho năng suất,
chất lượng cao thì mất nhiều thời gian. Trong khoảng thời gian chuyển đổi đó các
hộ nông dân không có nguồn thu. Đây là hạn chế lớn cho việc mở rộng diện tích
giống chè mới của địa phương, nó làm giảm tốc độ thay thế giống chè cũ. Mỗi
loại giống cũng có yêu cầu về kỹ thuật và đầu tư chi phí riêng, vì vậy đòi hỏi khi
đánh giá hiệu quả kinh tế nên xem xét nguồn gốc của từng loại chè.
Giá vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Nhu cầu bón phân cho chè
cao, đặc biệt là phân đạm, NPK. Giá phân bón tăng cao trong những năm gần
đây, nhất là giá đạm và kali đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng và mức độ
đầu tư của các hộ trồng chè. Vì thế, trong đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất
chè đặc biệt chú ý đến hiệu quả của việc đầu tư phân bón cho sản xuất chè của
nông hộ. Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến hiệu quả sử dụng thuốc BVTV trong
sản xuất chè của nông hộ vì nó liên quan đến hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân
bổ trong trồng chè.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

22


Giá công lao động. Công lao động cho sản xuất chè chủ yếu là lao động
gia đình với kỹ thuật thủ công, đa năng và không được trả công. Thực tế sản xuất
chè, cứ đến thời vụ các hộ thiếu công lao động thì thực hiện đổi công từ anh, em,
hàng xóm hoặc thuê bên ngoài. Vì vậy, khi tính giá công lao động thường xác
định theo giá công lao động phổ thông tại thời điểm trên thị trường.
Giá dịch vụ. Giá dịch vụ bao gồm dịch vụ làm đất, tưới tiêu, dịch vụ
BVTV…
+ Giá bán chè búp tươi, chè khô. Giá bán chè búp tươi, chè búp khô phụ
thuộc vào chất lượng, cung cầu của thị trường và mùa vụ. Do vậy, khi nghiên cứu
hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè cần xem xét giá chè theo giống và theo các vụ
sản xuất.
1.1.3.3 Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè cho các nông hộ nông dân
Biến động giá nói chung và biến động giá nông nghiệp nói riêng là hiện
tượng bình thường của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên,
sự biến động của giá lớn sẽ gây ảnh hưởng lớn đến cả người sản xuất lẫn người
tiêu dùng. Đối với các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, biến động giá
đầu vào ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm chè, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm chè và ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, hiệu quả kinh tế sản xuất chè và
các quyết định sản xuất chè của hộ.
Biến động giá đầu vào lớn sẽ làm giảm mức đầu tư cho sản xuất, vì thế
làm giảm sản lượng đầu ra, do các nông hộ không dự báo được lợi nhuận đầu tư
của mình và họ lo sợ rủi ro trong đầu tư. Biến động giá vật tư đầu vào diễn ra liên
tục trong vài năm trở lại đây đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
kinh tế sản xuất chè của các hộ nông dân. Trong những năm gần đây, thời kỳ
biến động giá mạnh đã ảnh hưởng rất lớn đến phản ứng của nông hộ trong sản
xuất. Khi giá đầu vào tăng cao, một số bộ phận nông dân không thiết tha với việc
đầu tư trên diện tích trồng chè của mình, họ cắt giảm mức đầu tư, đi làm thuê cho
bên ngoài. Một số khác lại tìm cách thay đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi.
Chính vì thế, việc tìm ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất chè
cho các nông hộ trong điều kiện biến động giá đầu vào có ý nghĩa thiết thực

trong việc ổn định sản xuất cho nông hộ, nâng cao thu nhập, tạo việc làm ổn định
cho lao động nông thôn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

23

Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất các hộ nông dân cần quân tâm
và điều chỉnh theo các hướng: một là, mở rộng quy mô sản xuất nhằm tăng kết
quả thu được, tuy nhiên tốc độ tăng của kết quả đầu ra phải lớn hơn tốc độ tăng
của các chi phí đầu vào. Hai là, tăng kết quả thu được với chi phí đầu vào không
đổi. Ba là, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các chi phí đầu vào cho sản xuất nhằm
giảm chi phí bỏ ra trong khi kết quả thu được không đổi.
1.1.4 Giá và biến động giá trong sản xuất chè
1.1.4.1 Khái niệm về giá và các loại giá trong sản xuất chè
Giá trong sản xuất chè bao gồm: Giá sản phẩm đầu vào và Giá các sản
phẩm đầu ra. Trong tiếng Việt “giá” được một số từ điển kinh tế sử dụng bao
gồm cả 2 nghĩa: Chi phí (the cost) và Giá cả (the price). Theo nghĩa chi phí, giá
là các khoản chi thường xuyên phải trả bằng hiện vật hoặc tiền mặt trong suốt
quá trình sản xuất chè (vật tư, giống, phân bón, vận chuyển...). Còn giá cả là biểu
hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm được hiểu là giá trị đo bằng tiền các vật tư,
dịch vụ của các nhân tố đầu vào của sản xuất chè.
Như vậy, khái niệm chi phí gắn chặt với quá trình hoạt động sản xuất, giá
cả dùng để đo giá trị của một sản phẩm, một dịch vụ hàng hoá cụ thể. Trong
nghiên cứu này, khái niệm chi phí gắn với quá trình sản xuất chè, còn giá cả đo
giá trị của sản phẩm chè.
Theo các học thuyết kinh tế, giá cả luôn biến động quanh giá trị trung
bình, bao gồm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Vì thế một sản phẩm, hay

dịch vụ sẽ được gắn với giá nhất định khi sản phẩm và dịch vụ đó trở hành hàng
hoá. Trong quá trình lưu thông hàng hóa, giá sẽ thay đổi ở từng công đoạn lưu
thông, từng thị trường khác nhau. Giá luôn biến động và nguyên nhân của sự
biến động giá trên thị trường rất phức tạp và khó xác định.
Đối với chi phí và giá, tuy khác nhau về khái niệm, nhưng chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Khi giá của các yếu tố tham gia quá trình sản xuất (giá
đầu vào) thay đổi sẽ làm cho chi phí sản xuất hay chi phí cung cấp một dịch vụ
(giá đầu ra) cũng biến đổi theo (do giá thành thay đổi). Nếu sản phẩm đầu ra là
sản phẩm cuối cùng phục vụ tiêu dùng thì việc tăng giá sẽ ảnh hưởng tới thu
nhập của người tiêu dùng. Khi chi phí tái sản xuất sức lao động trở nên đắt đỏ
hơn thì bản thân giá của hàng hóa sức lao động cũng sẽ thay đổi. Còn nếu sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

24

phẩm sản xuất ra lại là yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất khác, viêc tăng giá
ở quá trình sản xuất trước kéo theo sự tăng giá ở quá trình tiếp theo. Như vậy, tác
động tăng giá là tác động lan toả, kéo theo và phức tạp. Rất ít có sự biến động giá
đơn lẻ đối với một mặt hàng hay dịch vụ này mà không ảnh hưởng đến giá cả các
mặt hàng khác. Vì vậy, cần nghiên cứu mối quan hệ giữa biến động giá và sự
thay đổi kết quả kinh tế của một số hoạt động sản xuất nông nghiệp và thu nhập
của người nông dân.
Trong sản xuất chè, khi giá các yếu tố đầu vào tăng lên sẽ làm cho chi phí
sản xuất chè tăng lên, giá bán sản phẩm chè cũng tăng theo. Tuy nhiên, tốc độ
tăng của giá trị kết quả sản phẩm chè đầu ra và chi phí các yếu tố đầu vào sản
xuất chè khác nhau. Tốc độ tăng của kết quả đầu ra có thể bằng, hoặc lớn hơn,
hoặc thấp hơn tốc độ tăng của chi phí đầu vào, hiệu quả sản xuất chè của hộ vì
thế cũng thay đổi khác nhau. Vì vậy, cần xem xét sự ảnh hưởng của biến động

giá các yếu tố đầu vào tới kết quả và hiệu quả sản xuất chè của hộ nông dân.
Có nhiều loại giá được sử dụng trên thị trường tùy thuộc vào mục đích và
quan hệ trao đổi. Trong nghiên cứu này với mục đích xem xét ảnh hưởng của
biến động tăng giá đầu vào đến hiệu quả sản xuất chè của các hộ nông dân chúng
tôi đề cập đến các loại giá sau:
(1) Giá đầu vào sản xuất chè: Gồm giá của giống chè, giá vật tư, giá dịch
vụ và giá thuê lao động (lao động phải thuê).
(a) Giá vật tư bao gồm phân bón (chủ yếu là phân vô cơ như đạm, lân,
kali), thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc kích thích và các loại phân khác…
(b) Giá dịch vụ bao gồm dịch vụ làm đất, tưới tiêu, dịch vụ BVTV …
(c) Giá công lao động chỉ tính giá công gia đình phải thuê thêm.
Đối với giá cả vật tư phân bón đầu vào, nhiều nhà nghiên cứu có chung ý
kiến rằng: nếu giá vật tư phân bón đầu vào biến động tăng sẽ làm tăng chi phí sản
xuất và có thể dẫn đến việc nông dân hoặc sẽ hạn chế đầu tư thâm canh, hoặc sẽ
chuyển đổi hệ thống sản xuất lựa chọn những cây trồng khác, ít phải đầu tư hơn
nhằm giảm sức ép về vốn. Hệ quả là năng suất chè có thể giảm xuống và thu
nhập của người nông dân cũng bị giảm theo (F. Ellis, 1995) [16]. Cơ cấu sản
lượng cung cấp ra thị trường vì thế có thể bị thay đổi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>

25

Tuy nhiên, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp là mang tính mùa vụ nên
sự tác động của giá có những điểm đặc thù. Người ta nói nhiều đến “tính trễ” của
sự thay đổi về sản lượng nông nghiệp khi có sự thay đổi về giá. Mỗi khi có sự
biến động giá (ví dụ giá tăng), do tính mùa vụ trong nông nghiệp nên phải đợi
đến vụ tiếp sau nông dân mới tăng diện tích gieo trồng lên được. Và như vậy phải

đợi thêm một chu kỳ sản xuất nữa sản lượng nông nghiệp mới tăng, khi đó giá lại
bắt đầu giảm xuống. Tương tự như vậy phải mất một chu kỳ sản xuất tiếp theo khi
nông dân không đầu tư sản xuất nữa thì sản lượng mới giảm xuống và giá lúc đó
lại tăng lên.
(2) Giá đầu ra của sản xuất chè là giá bán sản phẩm chè (giá chè búp tươi
và giá chè búp khô).
Giá cả đầu ra ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất, thu nhập và hiệu quả
của người sản xuất chè. Một số tác giả cho rằng giá sản phẩm chè cao không chỉ
làm tăng thu nhập cho người sản xuất chè mà còn góp phần điều chỉnh thu nhập
giữa các khu vực nông thôn và thành thị. Nói cách khác là giá cao góp phần
chuyển một phần thu nhập từ thành phố, nơi đa phần là người tiêu dùng sản
phẩm chè về nông thôn. Tuy nhiên một số người khác lại cho rằng vấn đề không
đơn giản như vậy. Sự phân bổ này ngoài sự phụ thuộc vào cơ cấu sản lượng tự
tiêu của chính nông hộ, còn phụ thuộc vào tỷ lệ người dân không có đất ở nông
thôn là nhiều hay ít. Những người dân nông thôn không có đất canh tác phải mua
giá nông sản cao sẽ làm gia tăng tỷ lệ nghèo ở nông thôn (F.Ellis, 1995) [16].
Tương tự, theo Nakajima, 1986 sự tăng giá đầu ra có thể dẫn đến tăng thu nhập
cho các nông hộ. Nhưng do thu nhập tăng có thể có sự tăng tiêu dùng trong chính
các nông hộ khiến sản lượng bán ra thị trường không tăng. Do vậy, phản ứng
cung cho thị trường đối với các hộ nửa tự cung, nửa tự cấp là rất khó xác định về
lí thuyết. Kết luận này trái với quan điểm thứ nhất và càng không đúng với kết
luận của Timmer, 1983 rằng: Đối với nền kinh tế nông dân phản ứng cung cho
thị trường luôn dương, có nghĩa là khi giá tăng thì nông dân sẽ tăng sản lượng
bán ra thị trường. Ngoài ra còn một tác giả khác cũng cho rằng, tác động của giá
đến Cung là thường xuyên. Nhưng việc sản lượng cung có tăng hay không còn
phụ thuộc vào quy mô sản xuất của các hộ nông dân. Nếu quy mô sản xuất của
các hộ nông dân quá bé, manh mún, phản ứng Cung từ các hộ này bị hạn chế hơn
rất nhiều. Mặt khác, giá đầu ra tăng sẽ khuyến khích các hộ đầu tư, thâm canh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>

×