Tải bản đầy đủ (.pdf) (586 trang)

MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1987-1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.25 MB, 586 trang )

HIỆP HỘI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG VIỆT NAM

MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1987-1997

Hà Nội, Tháng 8-2017
1


LỜI GIỚI THIỆU
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 vào cuối năm 1986 với quyết định thay đổi
đường lối phát triển triển kinh tế xã hôi, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là dấu mốc bắt đầu thời kỳ đổi mới quan trọng ở nước ta.
Từ thời điểm đó hệ thống Giáo dục đại học (GDĐH) nước ta đã triển khai nhiều đổi mới, giúp hệ
thống thoát khỏi những khủng hoảng trì trệ để phát triển.
Cho đến nay quá trình đổi mới đã trải qua ba thập niên, việc nhìn lại quá trình đó là hết sức
cần thiết. Trong bức tranh chung về kinh tế xã hội, giáo dục là lĩnh vực tác động đến mọi người dân,
lại là “quốc sách hàng đầu”, nên đổi mới giáo dục là một phần quan trọng của đổi mới nói chung.
Trong giáo dục thì GDĐH là bậc giáo dục cao nhất, liên quan trực tiếp đến nguồn nhân lực giảng
dạy trong giáo dục cũng như nguồn nhân lực trình độ cao nói chung thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội. Do đó có thể xem xét tìm hiểu đổi mới giáo dục bắt đầu từ đổi mới GDĐH .
Thập niên đầu tiên của quá trình đổi mới GDĐH (1987-1997) là giai đoạn khởi đầu cơ bản và
phức tạp nhất, vì đó là giai đoạn phải thay đổi nhiều khái niệm, triết lý và thể chế, chuyển từ hệ
thống cũ sang hệ thống mới. Cho nên để có thể hiểu sâu sắc các đổi mới trong GDĐH cần bắt đầu
tìm hiểu giai đoạn khởi đầu đó. Tuy nhiên, một trở ngại rất lớn trong việc tìm hiểu giai đoạn đó là
không có tư liệu, bởi vì các sự kiện liên quan đã trôi qua gần ba thập niên.
Để giúp các nhà quản lý GDĐH hiểu biết sâu sắc hơn về các chủ trương chính sách hiện tại,
giúp những người tìm hiểu về lịch sử phát triển GDĐH và phát triển đất nước nói chung có tư liệu
nghiên cứu, Thường trực Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam đã tổ chức sưu tầm
một số tư liệu liên quan đến khâu chuẩn bị để đề xướng các chủ trương chính sách và ý tưởng đổi
mới GDĐH trong thập niên đổi mới đầu tiên đó. Tập tài liệu này là kết quả của cố gắng theo


phương hướng nêu trên.
Tập tài liệu này ra đời như là một sự vật nguyên sơ, không kèm theo bất cứ nhận xét, bình
luận hoặc hướng dẫn nào, để mọi người quan tâm có thể đọc và nhìn nhận các chủ trương, chính
sách và giải pháp đổi mới GDĐH trong giai đoạn đầu một cách khách quan theo quan điểm của
riêng mình. Với tập tài liệu, chúng tôi hy vọng các nhà quản lý giáo dục và GDĐH thuộc các thế hệ
tiếp nối trước đây và hiện nay hiểu rõ hơn những nguồn gốc của các chủ trương chính sách về
GDĐH để hiểu và vận dụng chúng một cách đúng đắn và cải tiến chúng một cách khoa học. Chúng
tôi cũng mong muốn tập tài liệu này sẽ giúp cho các học viên và nghiên cứu sinh trong và ngoài
nước về lịch sử giáo dục, quản lý giáo dục liên quan với GDĐH Việt Nam, dễ dàng hơn trong việc
truy cập các tài liệu nghiên cứu vốn rất khó sưu tập ở nước ta.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Mọi ý kiến nhận xét và phản ánh liên quan xin gửi về
địa chỉ:
Văn phòng Hiệp hội Các trường đại học và cao đẳng Việt Nam
Tầng 8 Cung Trí thức, số 1 phố Tôn Thất Thuyết, Q. Cầu Giấy, TP Hà Nội

Thường trực Hiệp hội các trường
Đại học và Cao đẳng Việt Nam

2


PHẦN I
PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO
CỦA MỘT SỐ LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

QUYẾT TÂM ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
3



(Bài phát biểu của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tại “Hội nghị xây dựng chương trình hành động 19871990 của ngành Đại học và chuyên nghiệp” tổ chức tại Nha Trang từ 3-12/8/1987)
Thưa các đồng chí.
Tôi rất phấn khởi tới dự Hội nghị xây dựng chương trình hành động 1987-1990 của
ngành đại học và chuyên nghiệp. Tôi đã đọc báo cáo của đồng chí Bộ trường, bài phát biểu
của đồng chí Trưởng ban khoa giáo Trung ương, sáng nay lại nghe các đồng chí phát biểu ở
hội trường. Các đồng chí thảo luận sôi nổi, đi đến nhất trí nhiều điểm, nêu lên những việc có
thể triển khai ngay sau hội nghị này. Tôi hoan nghênh tinh thần làm việc tích cực và khẩn
trương của các đồng chí. Tôi cho rằng chất lượng hội nghị lần này cao hơn chất lượng hội
nghị các năm trước.
Hội nghị các bí thư, hiệu trưởng các trường đại học, các trưởng ban giáo dục chuyên
nghiệp, các đồng chí phụ trách các cục, vụ đào tạo… lần này rất quan trọng. Nó được tiến
hành sau khi có Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, cụ thể hóa thêm một bước đường lối chung
của Đảng ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và sau
khi có nghị quyết kỳ họp lần thứ II của Ban chấp hành Trung ương khóa VI, đề ra những
biện pháp giải quyết một bước vấn đề lưu thông phân phối. Gần đây lại có chỉ thị của đồng
chí Tổng bí thư về vấn đề giá lương tiền. Chúng ta thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và Nghị
quyết Trung ương II trong tình hình hết sức khó khăn, phức tạp do những nguyên nhân
khách quan và những sai lầm chủ quan của ta trong cuộc tổng điều chỉnh giá lương tiền năm
1985. Những khó khăn này hiện nay vẫn đang tiếp tục tác động mặc dù đã và đang xuất hiện
những biểu hiện tốt ở một số ngành, địa phương, cơ sở nhưng nhìn tổng thể cả nước đang có
khó khăn lớn.
Tuy vậy, chúng ta tin rằng với sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
chúng ta sẽ vượt qua được khó khăn, thực hiện mục tiêu do Đại hội VI đề ra là ổn định từng
bước tình hình kinh tế xã hội, tạo những tiền đề, điều kiện để tiến lên.
Đương nhiên, chúng ta hiểu rằng những khó khăn này có nguyên nhân khách quan và
chủ quan từ nhiều năm qua, không thể khắc phục một sớm một chiều. Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương II (khóa VI) nói rõ làm giỏi cũng phải mất ba năm.
Tôi nói như vậy để thấy rằng, sau Hội nghị này, các đồng chí về triển khai công việc
trong điều kiện hết sức khó khăn. Nhiều đồng chí mong muốn Nhà nước tăng vốn đầu tư cho

giáo dục, mong muốn này là đúng đắn. Ở Liên Xô đã tăng gấp đôi vốn đầu tư cho giáo dục,
ở Algerie ngân sách giáo dục chiếm 24% tổng ngân sách, ở Mông Cổ hơn 30% còn của ta thì
rất thấp. Nhưng muốn tăng tỉ lệ ngân sách phải có nguồn thu và nhận thức về làm kế hoạch
phải có sự đổi mới thật sự. Những nămtrước mắt có thể không tăng hoặc chỉ tăng chút ít vốn
đầu tư cho giáo dục, trong lúc giá cả hiện nay vẫn tiếp tục biến động.
Bây giờ tôi nói mấy vấn đề sau:
1. Vị trí nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học và chuyên nghiệp nói riêng
trong chiến lực xây dựng con người mới.

4


Ở Hội nghị này các đồng chí đã nói nhiều về vấn đề vị trí của nền giáo dục. Mấy năm
gần đây khi nghiên cứu về chiến lược khoa học công nghệ chiến lược giáo dục đào tạo, nhiều
vấn đề được bàn bạc thảo luận. Vừa qua, Liên Xô, các nước XHCN anh em và nhiều nước
khác cũng có nghị quyết về cải cách GD.
Giáo dục đại học và chuyên nghiệp không thể tách rời giáo dục phổ thông bởi vì con
người sinh ra và lớn lên chỉ là một. Phải nhìn vấn đề một cách có hệ thống để phát huy sức
mạnh tổng hợp.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, dân tộc ta đứng trước một thách thức lớn của
thời đại. Thách thức lớn trước đây là Mỹ xâm lược, ta đã thắng. Thách thức hiện nay là sau
100 năm thực dân cũ, thực dân mới xâm chiếm, nước ta lạc hậu đến 3-4 thập kỷ so với mức
trung bình của các nước XHCN. Ta có thể vương lên, thu hẹp khoảng cách giữa ta với mức
trung bình của các nước XHCN hay mức trung bình của các nước tiên tiến trên thế giới hay
không?
Để chiến thắng thách thức, ta có thể sử dụng nhiều nguồn lực: đất đai, khí hậu, khoáng
sản, tài nguyên thiên nhiên… nhưng tài nguyên (nguồn lực) lớn nhất, quyết định nhất là con
người Việt Nam thông minh, sáng tạo, dũng cảm. Phải chiến thắng thách thức bằng con
người Việt Nam XHCN, cách mạng khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn có chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Phải xây dựng con người mới

XHCN và mẫu mực là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Về mặt lý luận mà nói thì ngày nay chiến lược con người, tương lai của con người là
vấn đề quan trọng nhất, quyết định sự thắng lợi của CNXH, là trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa CNXH và CNTB. “Con người, hạnh phúc của con người là mục đích tự thân của sự
phát triển xã hội XHCN và CSCN” (Mác).
Đại hội VI của Đảng ta đã nhấn mạnh nhân tố con người. Đại hội XXVIII Đảng CS
Liên Xô chỉ rõ con người là nhân tố quyết định chiến lược gia tốc của Liên Xô. Quan điểm
này chưa đi sâu vào nhận thức của nhân dân ta, của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Đại học VI của Đảng đã đặt chính sách xã hội trong đó có chiến lược con người
thành một phần riêng. Con người mới XHCN quyết định tiến bộ kinh tế, xã hội và tiến bộ
khoa học, kỹ thuật.
Thời đại ngày nay là thời đại XHCN và cách mạng KHKT, khoảng 80% trí thức hiện
nay của nhân loại vừa được tạo ra trong 3 thập kỷ gần đây. Chất lượng của xã hội phần lớn
phụ thuộc vào việc xây dựng con người. Con người mới XHCN Việt Nam là con người cách
mạng và khoa học, có tinh thần làm chủ, có tri thức, có tầm hiểu biết về kinh tế - xã hội,
mạnh khỏe, tâm hồn trong sáng, trí tuệ tài năng ngày càng phát triển. Chúng ta đã có những
con người mới xã hội chủ nghĩa, mà Bác Hồ và các đảng viên ưu tú là mẫu mực Ta phải đào
tạo ra những con người như thế. Đó là nhiệm vụ của nền giáo dục nói chung và của giáo dục
đại học và chuyên nghiệp nói riêng. Nhân cách con người bắt đầu hình thành từ tuổi thơ, từ
vườn trẻ mẫu giáo. Không thể có nền giáo dục đại học ưu việt nếu không có nền giáo dục
phổ thông tốt. Đại học phải phục vụ giáo dục phổ thông, Đại học phải tái sản xuất lực lượng
khoa học kỹ thuật, xây dựng đội ngũ trí thức XHCN. “Sự liên minh giữa giai cấp vô sản và
khoa học là lực lượng vô địch” (Lênin). Giáo dục phổ thông, đại học và chuyên nghiệp có
nhiệm vụ từng bước góp phần tạo nên sức mạnh đó. Hiệu quả của giáo dục đối với sự phát
5


triển kinh tế quốc dân, đối với phát triển xã hội là rất lớn. Ở Liên Xô việc nâng cao trình độ
chuyên môn cho người lao động đã làm tăng tỷ lệ thu nhập quốc dân khoảng 30-40%. Kinh
tế càng phát triển thì người lao động càng phải có tri thức văn hóa, khoa học và kỹ thuật cao.

Theo thống kế của một số nước thì trước đây tỷ lệ số việc làm chỉ đòi hỏi trình độ văn hóa
PTCS chiếm khoảng 30% thì nay số việc đó chỉ còn 5%. Lao động không có KHKT thì
không thể có năng suất cao được. Đến cuối thế kỷ này, cán bộ kỹ thuật mà không biết sử
dụng máy tính thì sẽ không tìm được việc làm.
Chúng ta nói đến tầm quan trọng của giáo dục đại học và chuyên nghiệp nhưng phải
đặt nó trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Gần đây chúng ta sát nhập Tổng cục dạy
nghề vào Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp, việc đó cũng có cái hay. Sau này, toàn bộ
giáo dục phổ thông sẽ phải kết hợp với dạy nghề. Bungari thực hiện một hệ thống thống nhất
giáo dục phổ thông và dạy nghề. Liên Xô đã có nghị quyết xích dạy nghề lại gần phổ thông.
Trung Quốc cũng có chủ trương xếp giáo dục phổ thông và dạy nghề thành một hệ thống. Ở
ta, giáo dục phổ thông cũng phải đi liền với dạy nghề.
Bây giờ chúng ta đang thực hiện CCGD: thực hiện giáo dục thường xuyên, suốt đời
kết hợp giáo dục ở nhà trường, ngoài xã hội, trong gia đình, giáo dục liên tục. Cải cách giáo
dục là phải thực hiện liên kết giáo dục với lao động sản xuất trong mọi điều kiện. Hệ thống
giáo dục của chúng ta còn có các trường Đảng: trường Đoàn, trường Quân sự, trường Công
đoàn, các trường này cũng phải có liên kết chặt chẽ với hệ thống chung. Tóm lại, nền giáo
dục XHCN của ta có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đạo tạo thế hệ trẻ - những người làm
chủ đất nước năm 2000 và trở thành những con người mới XHCN, những người lao động có
năng suất cao, những chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc, kiên cường. Muốn vậy phải coi trọng việc
nâng cao chất lượng toàn diện về giáo dục, khắc phục những hiện tượng tiêu cực đang làm
xói mòn những đức tính tốt đẹp của thanh niên ta.
2. Mục tiêu đào tạo
Mục tiêu đào tạo là vấn đề quan trọng nhất của chiến lược giáo dục, nó quyết định cơ
cấu hệ thống, danh mục ngành học, kế hoạch chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo…
Mục tiêu đào tạo phải gắn với mục tiêu kinh tế xã hội. Ta chưa làm tốt cái này, khi đề
ra mục tiêu giáo dục vì ta chưa nghiên cứu được kinh tế xã hội. Trong cơ cấu kinh tế xã hội
của ta hiện nay lao động thủ công còn chiếm phần lớn, lao động cơ khí mới chỉ 15%. Cơ cấu
kinh tế xã hội sẽ biến đổi và vẫn còn có nhiều thành phần: quốc doanh, tập thể, gia đình.
Tình hình trong từng ngành kinh tế kỹ thuật, từng địa phương cũng sẽ biến đổi. Phải nghiên
cứu tình hình đó để xây dựng mục tiêu đào tạo phù hợp. Vừa qua ta chưa gắn liền mục tiêu

đào tạo với mục tiêu kinh tế xã hội nên cán bộ đào tạo ra khó phân phối, sử dụng.
Mục tiêu đào tạo có mục tiêu chung cũng có mục tiêu riêng. Có những ngành có nhu
cầu phát triển lớn nhưng hiện có rất ít cán bộ. Rồi đây, ta có thể trở thành một nước giàu
mạnh trên thềm lục địa, trên biển nhưng một số kỹ sư, cán bộ khoa học kỹ thuật về biển hiện
không có bao nhiêu. Nước ta thuộc vùng nhiệt đới. Đã có bao nhiêu kỹ sư. PTS nghiên cứu
kỹ thuật nhiệt đới?
Nghị quyết Đại học VI đã xác định mục tiêu kinh tế xã hội và nhấn mạnh vấn đề cốt
lõi là vấn đề cơ cấu kinh tế xã hội, từ đó tác động quyết định đến cơ cấu giáo dục. Nói đến cơ
6


cấu hệ thống, mục tiêu, cơ cấu ngành học, kế họach, nội dung đào tạo… phải cụ thể, phải
gắn liền với đặc điểm từng vùng lãnh thổ.
Ví dụ: một số vùng ở miền núi với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp hiện
nay chưa cần nhiều kỹ sư tin học nhưng rất cần giáo viên kỹ thuật, dạy giỏi lại nắm vững kỹ
thuật trồng trọt. Do thiếu cán bộ kỹ thuật mà ở một số huyện ở đồng bằng sông Cửu Long tỷ
lệ cơ khí hóa nông nghiệp đã giảm sút nhiều trong các năm qua và rồi đây có thể còn tiếp tục
ảnh hưởng. Chúng ta phải đào tạo những cán bộ, công nhân có thể đáp ứng yêu cầu của cơ
khí hóa từng bước việc trồng lúa, ngô và nhiều loại cây khác. Chúng ta đã đi vào một số mũi
nhọn như tin học, công nghệ, sinh học và đã có một số thành công bước đầu có triển vọng
tốt.
Gắn với mục tiêu kinh tế xã hội là phải gắn với từng nơi, từng lúc cụ thể, phải phù hợp
với đặc điểm của nước ta. Do đó, giáo dục phải hết sức linh hoạt nắm bắt nhanh yêu cầu của
đất nước và của thị trường quốc tế.
Vừa qua đến Vladivoxtoc (Liên Xô), tôi thấy dưa hấu của ta xuất sang đó hỏng 50%,
dứa hỏng 40%, cà rốt thì tương đối tốt. Làm sao giữ được các thứ đó không bị hỏng nhiều
như vậy. Các nhà khoa học của ta phải nghiên cứu phương pháp bảo quản cho tốt để đáp ứng
yêu cầu chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu.
Các đồng chí đã thảo luận và thống nhất ý kiến phải đổi mới cơ cấu đào tạo, phải quan
đào tạo theo diện rộng, phải phân quá trình đào tạo thành giai đoạn (giai đoạn đào tạo cơ bản

và giai đoạn đào tạo chuyên ngành) phù hợp với xu thế chung hiện nay trên thế giới như vậy
là tốt.
Các đồng chí đề ra hệ thống chính quy, đào tạo với chất lượng cao, đào tạo nhân tài
cho cả đất nước, học sinh được tuyển vào hệ này phải có phẩm chất tốt, học lực giỏi. Không
thể địa phương hóa chính sách đào tạo nhân tài. Phải có chuẩn mực thống nhất cho cả nước.
Bên cạnh đó có hệ thống không chính quy và các biện pháp đào tạo theo hợp đồng.
Các trường ở miền Nam đã làm, đào tạo theo chứng chỉ học phần. Kinh tế xã hội luôn luôn
biến động, phải đào tạo học sinh, sinh viên có khả năng thích ứng với tình hình đó, đáp ứng
yêu cầu của cả trung ương và địa phương.
Số lượng sinh viên đại học của ta nên nhiều hay ít? Hiện nay tỉ lệ bình quân sinh viên
trên một vạn dân của ta rất thấp, thua nhiều nước XHCN, thấp hơn cả Thái Lan, Philippin.
Đó là điều rất đáng suy nghĩ, phải cải thiện tình hình này.
Như vậy là ta có một hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp đa dạng, có khả
năng đáp ứng các yêu cầu học tập của nhân dân và thanh niên ta, thế là tốt. Tuy nhiên, phải
tính toán cụ thể, tránh làm ồ ạt, làm sao đã đào tạo thì phải sử dụng được, sử dụng có hiệu
quả. Cần xóa bỏ quan điểm hễ vào đại học là đương nhiên vào biên chế Nhà nước (tôi nói cả
với hệ thống chính quy). Ta phải chú trọng cả thành phần kinh tế tập thể và gia đình, khoa
học kỹ thuật bây giờ vào được kinh tế quốc doanh rất khó, trong khi đó vào kinh tế tư nhân
lại dễ hơn. Nơi nào có kỹ sư giỏi, có công nhân lành nghề, sản xuất ở nơi đó tăng trưởng rõ
rệt.
Về nội dung, phương pháp đào tạo nhất thiết phải tinh giản nội dung trong chương
trình đào tạo, không nên để kéo dài tình trạng quá tải. Trong học tập của học sinh, sinh viên
7


cần tăng cường tự học, phát huy tính năng động sáng tạo của sinh viên, học sinh, bồi dưỡng
và phát huy tính tích cực xã hội của họ. Tôi nghĩ, đồng chí Bộ trưởng có thể có chỉ thị tinh
giản một số nội dung trong các chương trình học.
Tôi biết làm theo được yêu cầu trên không dễ dàng chút nào vì vậy cần phải chọn
hướng, chọn nơi làm thí điểm, chắc ăn. Trước đây, ta đào tạo theo hướng chuyên sâu là chủ

yếu, bây giờ phải làm ngược lại theo diện rộng, theo hai giai đoạn. Soạn thảo chương trình
giảng dạy mới là điều không đơn giản. Mặc dù vậy, không được chờ đợi, phải tích cực làm
mới tinh thần cách mạng tiến công.
Sinh viên, cán bộ khoa học kỹ thuật của ta yếu về phương pháp tư duy, yếu về kiến
thức công nghệ, mặc dù họ rất trung thành với Đảng, với nhân dân.
Cần phải tiếp tục thực hiện việc sắp xếp lại mạng lưới các trường, cả đại học, trung
học chuyên nghiệp, dạy nghề trong cả nước trên từng vùng lãnh thổ và từng địa phương. Tôi
rất tán thành việc tổ chức liên kết các trường, tán thành các trung tâm để phát huy sức mạnh
tổng hợp của nhà trường đối với việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn. Cần xây dựng
cơ chế thích hợp để các trung tâm này hoạt động có hiệu quả thiết thực. Chú trọng hơn nữa
việc đào tạo, bồi dưỡng sau đại học, phấn đấu làm sao việc đào tạo nghiên cứu sinh ở trong
nước trở thành chủ yếu, đồng thời tiếp tục coi trọng việc đào tạo ở nước ngoài. Bộ Đại học
và THCN đã có những cố gắng đáng hoan nghênh về mặt này. Cải tiến chế độ học sau đại
học theo hướng thúc đẩy việc cống hiến vào thực tế của cán bộ khoa học.
3. Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất
Mác nói: “Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất (cả lao động chân tay và lao động
trí óc) là phương thức duy nhất đào tạo ra con người phát triển toàn diện”. Để thực hiện mục
tiêu đào tạo thành con người mới XHCN, nắm vững và thực hiện đúng nguyên lý giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất. Con người trở nên con người là qua sử dụng công cụ lao
động. Phải thực hiện nguyên lý này ở tất cả các cấp học, bậc học từ phổ thông đến dạy nghề,
THCN, đại học và sau đại học. Mỗi cấp có một phương thức kết hợp: giáo dục, học tập,
nghiên cứu thực nghiệm KHKT kết hợp với lao động sản xuất, làm cho con người có khả
năng tư duy cần thiết để tìm hiêu tự nhiên, xã hội, tìm tòi cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội,
đồng thời hoàn thiện bản thân. Khuyến khích thanh niên, sinh viên ham học hỏi, không
ngừng nâng cao trình độ để góp phần thiết thực cải tạo thực tiễn. Say mê lao động sáng tạo là
một phẩm chất, một đức tính cực kỳ cao quý. Người nào ham lao động sáng tạo sẽ tiếp thu
quan điểm, chính sách của Đảng nhanh hơn, đúng hơn.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất trước hết nhằm nâng cao chất lượng con
người, chất lượng và hiệu quả lao động. Trong hoàn cảnh khó khăn của các trường học của ta
hiện nay, nguyên lý ấy càng có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Nhiều trường đã và đang thực hiện

sáng tạo nguyên lý này, chứng minh hùng hồn sức sống của nguyên lý giáo dục của Đảng ta.
Bộ Đại học và THCN cần hoàn chỉnh cơ chế chỉ đạo các trường thực hiện tốt nhất chỉ thị 142
về lao động sản xuất trong các nhà trường.
Các trường hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Tháo gỡ bằng cách nào? Trước hết phải
tập trung giải quyết vấn đề đời sống vật chất của thầy trò. Kết hợp giáo dục với lao động sản
xuất còn có mục đích hết sức quan trọng là góp phần cải thiện đời sống. Hiện nay có những
việc chưa thật gắn với ngành nghề đào tạo của nhà trường, nhưng vẫn có thể làm, không sợ
8


hạ thấp trình độ khoa học. Tôi đã đến thăm cơ sở nghiên cứu về cơ khí chính xác của Đại
học Bách khoa Hà Nội, với những trang thiết bị thô sơ mà thầy trò vẫn làm ra sản phẩm hiện
đại, như vậy là tốt. Qua lao động sản xuất có thể từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ
thuật của trường. Nhà trường đáng ra phải có những thiết bị hiện đại hơn cơ sở sản xuất. Phải
có một cơ chế đúng đắn để đảm bảo thực hiện được việc này.
Tôi nhắc lại, không chỉ hiện nay do vấn đề cấp thiết là phải cải thiện đời sống mà sau
này đời sống thầy trò khá hơn vẫn phải thực hiện kết hợp giáo dục với lao động sản xuất để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của trường.
Tôi được biết, ngành đại học đã thu được một số vốn đáng kể qua kết hợp giáo dục
đào tạo với sản xuất. Bây giờ cần làm mạnh hơn nữa để hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật,
Do liên kết với sản xuất, trường Đại học Hàng Hải đã có 5 tàu đánh cá, mới đóng thêm hai
tàu nữa. Trường đại học Hàng hải tự lực sắm được tàu viễn dương 1,5 vạn tấn với trang bị
hiện đại, vừa làm phương tiện sản xuất vừa làm phương tiện giảng dạy, học tập. Các trường
Đại học: Cần Thơ, Bách khoa Hà Nôi, Bách khoa TP.Hồ Chí Minh, Tổng hợp Hà Nội, Sư
phạm Kỹ thuật Thủ Đức… do kết hợp với lao động sản xuất cũng đã có thu nhập khá. Điều
quan trọng là phải làm thế nào để các cơ sở sản xuất, coi trọng khoa học kỹ thuật, tìm đến
khoa học kỹ thuật nhiều hơn, rộng rãi hơn nữa.
Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết có khả năng mở ra một hướng lao động kỹ thuật
mới, làm ra những linh kiện kỹ thuật có giá trị cao và có thể thu hút hàng vạn lao động, tôi
và đồng chí Bộ trưởng hết sức ủng hộ hướng này.

Các trường có thể nhận một số đề tài nghiên cứu và triển khai lớn của Nhà nước. Ví
dụ, nghiên cứu làm giảm bớt tỷ lệ hao hụt lương thực ở đồng bằng sông Cửu Long từ 30%
xuống 5%, tăng cường chất lượng vận tải Bắc – Nam, mở rộng khai thác vùng sông Đà….
Cần liên kết các trường mà làm, tiến tới xây dựng các tổ hợp giáo dục – khoa học – sản xuất.
Có nơi đã hình thành các tổ hợp như vậy. Một số trường trung học chuyên nghiệp đã nhận
làm thí điểm về vấn đề này, ở đây, hiệu trưởng kiêm giám đốc nông – lâm trường, xí nghiệp
công nghiệp.
Nghị quyết về cải tổ nền giáo dục đại học Liên Xô đã ghi nhất thể hóa giáo dục – khoa
học – sản xuất, cho phép tập thể các nhà khoa học có tư cách pháp nhân ký các hợp đồng
nghiên cứu, triển khai với các cơ sở sản xuất.
Các trường cần tạo ra nguồn vốn tự đầu tư cho trường, qua thực hiện liên kết. Một số
thông tin cho biết tại một số trường đại học, Nhà nước chỉ cần đầu tư cho nhà trường 20%
vốn, còn 80% do nhà trường và cơ sở sản xuất đầu tư.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy
Đây là đội ngũ chủ lực của nhà trường XHCN. Hiện nay đời sống của đội ngũ này rất
khó khăn. Trình độ của họ cũng phải được thường xuyên nâng cao lên đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục. Cần có giáo viên tốt, giỏi cho mọi cấp học. Chương trình của Bộ có ý nghĩa
nhằm giải quyết vấn đề đời sống của giáo viên. Muốn đảm bảo mục tiêu đào tạo, dứt khoát
phải có đội ngũ cán bộ giảng dạy có chất lượng, không thể để tình trạng giáo viên giỏi chạy
ra ngoài dạy thêm, luyện thi để kiếm sống.
9


Hiện nay đội ngũ giáo viên bộc lộ những mặt hạn chế: tư duy biện chứng yếu, kiến
thức chuyên môn cũng yếu, lạc hậu so với tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ của thế
giới. Phải bồi dưỡng nâng cao trình độ toàn diện các giáo viên khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội, khoa học kỹ thuật, theo các chương trình và kế hoạch nhất định.
Đối với cán bộ nhiều tuổi cần có chính sách thích hợp chọn cử một tỷ lệ đi làm chuyên
gia ở nước ngoài. Phải nhanh chóng bồi dưỡng cán bộ trẻ, khắc phục tình trạng hẫng hụt của
đội ngũ cán bộ giảng dạy, đảm bảo tính kế thừa liên tục. Phải học thêm về duy vật biện

chứng, về kiến thức sư phạm. Phải đem khoa học sư phạm vào giảng dạy tất cả các trường
đại học để góp phần cải thiện chất lượng giảng dạy ở trường phổ thông. Đồng thời phải
nghiên cứu vấn đề khoa học giáo dục, lý luận về tổ chức quá trình đào tạo, lý luận dạy học
trong các trường đại học và chuyên nghiệp.
Muốn làm tất cả những việc trên, phải có tổ chức và cơ chế cần thiết. Tôi thấy, cần
duy trì các ban giáo dục chuyên nghiệp, các Bộ có nhiều trường cần giữ các Vụ, Cục đào tạo,
Bộ Đại học và THCN đã gửi công văn lên Hội đồng Bộ trưởng về vấn đề này, tôi hoàn toàn
ủng bộ đề nghị của các đồng chí.
5. Vấn đề hợp tác quốc tế
Đây là biện pháp rất quan trọng, tạo điều kiện cho các trường đại học và chuyên
nghiệp tiếp cận với trào lưu tiến bộ khoa học kỹ thuật chung của khoa học kỹ thuật thế giới.
Ủy ban KHKT Nhà nước muốn 30% cán bộ KHKT có hoạt động hợp tác quốc tế không ta sẽ
lạc hậu. Ở Liên Xô hiện nay 30% đến 40% cán bộ KHKT có hoạt động trong hợp tác quốc
tế.
Ở UBKHKT Nhà nước ta lại có hai triệu danh mục bằng sáng chế phát minh, năm
1985 có 300 người đến xem, năm 1986 có 800 người đến xem, các con số đó quá ít ỏi. Ta
cần phải khai thác mọi thông tin quốc tế có thể có được.
Hệ thống đại học của ta phải là hệ thống mở. Ta cần hợp tác rộng rãi với tất cả các
nước, cả XHCN và TBCN. Cử cán bộ đi dạy ở các nước và mời các giáo sư, cán bộ khoa học
đến giảng dạy và trao đổi khoa học ở ta, chú ý ưu tiên hợp tác với Liên Xô, với Lào và
Campuchia với các nước XHCN, các nước phát triển cao, các tổ chức quốc tế và các nước
trong khu vực.
Cần khai thác mọi hiểu biết, nhất là kiến thức công nghệ cao của anh, chị em Việt
kiều. Tôi đánh giá cao kiến thức về công nghệ, về tổ chức sản xuất kinh doanh và trình độ
khoa học của nhiều anh chị em tri thức Việt kiều. Chúng ta cần hết sức coi trọng và sớm có
chủ trương, chính sách thích hợp đối với công tác hợp tác quốc tế của hệ thống giáo dục đại
học và chuyên nghiệp.
6. Những việc cần làm ngay
Trong chương trình hành động, các đồng chí đã nêu lên những việc cần làm ngay, khi
về trường các đồng chí cần triển khai sớm. Tôi nhấn mạnh, lúc này thực hiện chủ trương

chống tiêu cực theo tình thần các bài báo của đồng chí NVL là việc cấp bách và quan trọng,
phải chống tiêu cực trong các lĩnh vực công tác: tuyển sinh, tổ chức thi và chấm thi, tuyển
học sinh, nghiên cứu sinh đi nước ngoài, tuyển chuyên gia đi hợp tác quốc tế. Phải xây dựng
cơ chế, quy định chặt chẽ thực hiện công khai về chấm dứt tình trạng thiếu công bằng trong
10


tuyển chọn, phân phối học sinh, sinh viên, NCS và trong chính sách cán bộ. Phải tạo ra môi
trường giáo dục – khoa học thuận lợi, trường đại học phải là một trong nhưng nơi đi đầu và
hưởng ứng “những việc cần làm ngay”.
Phải làm cho nhà trường đại học thực sự có cơ chế dân chủ, chí công vô tư, có công
bằng xã hội, tạo môi trường lành mạnh cho các nhà khoa học chân chính phát huy tài năng,
cống hiến xứng đáng cho xã hội, cho thế hệ trẻ say sưa, hăng hái học tập và rèn luyện.
Về đời sống, các đồng chí phải giành công sức chăm lo đời sống cán bộ, thầy trò, công
nhân viên. Ở Tiệp Khắc bình quân 80kg thịt/ đầu người/năm nhưng quân đội Tiệp vẫn có
hoạt động tự túc một phần thực phẩm. Tôi có thăm một đơn vị xe tăng của họ, ở đây người ta
tự tổ chức chăn nuôi, tự túc được 48kg/người/năm.
Tôi nghĩ các trường đại học của ta đều có thể làm được. Trong lãnh đạo Bộ nên có
đồng chí chuyên giúp Bộ trưởng chăm lo việc này để chỉ đạo giúp đỡ các trường.
Hội nghị lần này họp ở Nha Trang, chúng ta cảm ơn các đồng chí lãnh đạo tỉnh Phú
Khánh. Tôi mong ở đây các trường sẽ liên kết tốt hơn. Tôi đã chỉ thị cho trường Đại học Hải
sản đóng ở Nha Trang thực hiện tốt việc này, Phú Khánh có 600km bờ biển, có những vùng
tốt để nuôi tôm, phải đi vào thế mạnh là hải sản. Trường Đại học Hải sản phải chủ động liên
kết giúp đỡ Phú Khánh phát triển kinh tế biển thông qua hoạt động hợp tác KHKT.
Kết luận.
Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn diện, phải làm chuyển biến nhận
thức của nhân dân, các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương đến cơ sở. Ngành giáo dục
đào tạo có vị trí cực kỳ quan trọng: giáo dục rèn luyện con người lao động XHCN, những
chiến sĩ kiên cường bảo vệ Tổ quốc góp phần thực hiện ba chương trình kinh tế lớn do Đại
hội VI đề ra, góp phần ổn định tình hình, tạo điều kiện đưa đất nước tiến lên. Phải tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo quản lý của các cơ quan nhà nước đối với công
tác giáo dục, đào tạo. Các cơ sở giáo dục, các cơ quan quản lý giáo dục cần tranh thủ sự lãnh
đạo của Đảng, sự phối hợp của các lực lượng kinh tế xã hội để tiếp tục phát triển và nâng cao
chất lượng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Trong Hội nghị này, các đồng chí có nêu lên nhiều khó khăn, các đồng chí là những
người lao động trí óc, có phẩm chất năng lực, các đồng chí băn khoăn, lo lắng nhiều trước
tình hình hiện nay, tôi hoàn toàn cảm thông với tâm trạng đó, tôi trân trọng ý thức trách
nhiệm của các đồng chí và tin tưởng các đồng chí.
Tôi cũng tin rằng người khoa học, người cộng sản sinh ra là để vượt khó khăn, chúng
ta nhất định thực hiện được nghị quyết của Đảng. Tôi gửi lời thăm và chúc sức khỏe tới các
cô giáo, thầy giáo. Chúc sự nghiệp giáo dục đào tạo của chúng ta đạt được thành tựu xuất sắc
trong quá trình thực hiện sáng tạo nguyên lý giáo dục của Đảng.

11


CẢI CÁCH NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, TẠO RA SỰ CHUYỂN BIẾN TRONG GIAI
ĐOẠN MỚI
(Bài phát biểu của đồng chí Đặng Quốc Bảo – Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, tại
Hội nghị “Xây dựng chương trình hành động 1987-1990 của ngành giáo dục đại học và
chuyên nghiệp” tổ chức tại Nha Trang từ 3-12/8/1987).
Thưa đồng chí TrầnHồng Quân, Ủy viên dự khuyết TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp thân mến.
Thưa các đồng chí thân mến;
Trước hết, cho phép tôi tỏ lời cảm ơn đồng chí Bộ trưởng Trần Hồng Quân cùng Ban
lãnh đạo Bộ, đã mời tôi đến dự hội thảo quan trọng này và đã dành một số thời gian của hội
thảo cho tôi phát biểu ý kiến.
Trước khi phát biểu ý kiến, tôi xin chuyển đến tất cả các đồng chí lời chào thân ái của
đ/c Trần Xuân Bách, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, phụ trách công tác
khoa giáo. Đồng chí Trần Xuân Bách rất cảm ơn đồng chí Bộ trưởng và các đồng chí lãnh

đạo Bộ có lời mời nhưng vì bận công việc nên đồng chí Trần Xuân Bách rất tiếc không thể
đến dự hội thảo được. Đồng chí Trần Xuân Bách chúc hội thảo thành công tốt đẹp, đồng thời
cũng tỏ ý mong mỏi và tin tưởng, đội ngũ thầy giáo cùng cán bộ quản lý các cấp luôn vững
vàng trong mọi thử thách, nêu gương sáng về nhân cách XHCN, mang hết tình cảm, tài trí
vào việc đào tạo thế hệ trẻ thành những người kế tục xứng đáng truyền thống cha anh, đưa
đất nước mau chóng đi lên trong giai đoạn mới.
Những năm trước đây, trong công cuộc hội thảo lớn, chúng ta đã trao đổi, tranh luận
với nhau nhiều vấn đề của giáo dục đại học và chuyên nghiệp. Nhưng lần này, dưới ánh sáng
của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai,
những vấn đề giáo dục cần được đặt ra với yêu cầu đổi mới cách nghĩ, cách làm, tìm ra
những giải pháp vừa cho những việc làm cấp bách trước mắt, vừa cho những việc có tầm
chiến lược phát triển xa hơn.
Trước khi trình bày ý kiến của mình, tôi muốn khẳng định sự ủng hộ về cơ bản
phương hướng, mục tiêu, chương trình hành động của Bộ năm 1987 và 3 năm 1987-1990 đặc
biệt Ba chương trình lớn của Bộ: Chương trình cải cách hệ thống giáo dục, chương trình kinh
tế đào tạo và chương trình đội ngũ giáo viên. Với sự đồng tình ấy, tôi muốn làm rõ hơn
những quan điểm được đặt ra để chúng ta thống nhất về tư tưởng, và hơn nữa, thống nhất
mọi hành động triển khai những việc được bàn trong hội thảo.
Tôi cũng muốn nói thêm rằng, trong Hội thảo, ý kiến của Ban khoa giáo Trung ương
sẽ mang tính chất định hướng, còn đối với những vấn đề cụ thể của Bộ, của ngành giáo dục
đại học và chuyên nghiệp, đó là những vấn đề rất phức tạp và đa dạng, Ban của Đảng không
thể thay các đồng chí có mặt trong hội thảo này để sáng tạo những biện pháp giải quyết
được. Tất nhiên, trách nhiệm trước những vẫn đề cụ thể thuộc về các đồng chí và cũng thuộc
về chúng tôi. Chúng ta phải hợp tác chặt chẽ với nhau để giải quyết những vấn đề cụ thể
12


hoặc có tình chất rất cấp bách hoặc có tính chất hết sức cơ bản, đối với quá trình phát triển sự
nghiệp giáo dục đại học và chuyên nghiệp.
Trong thời gian khá gấp gáp chuẩn bị những ý kiến phát biểu hôm nay, tôi đã gửi bản

dự thảo tới nhiều nhà khoa học và một số đồng chí cán bộ quản lý ngành. Tôi đã nhận được
sự đồng tình và những góp ý có chất lượng của các đồng chí. Tôi xin cảm ơn các đồng chí.
Để cho những ý kiến phát biểu hôm nay mang tính định hướng chính xác hơn, tôi đã
báo cáo toàn bộ nội dung bài nói này với đồng chí Trần Xuân Bách và đã được đồng chí
Trần Xuân Bách hoàn toàn nhất trí.
Trước mắt, chúng ta có vô vàn khó khăn. Song, sự thống nhất tư tưởng và hành động
sẽ là điều kiện hết sức quan trọng để từng bước thảo gỡ những vấn đề đang bế tắc, vượt ra
khỏi thế bí lúc này, đưa sự nghiệp giáo dục đại học và chuyên nghiệp trở lại trạng thái ổn
định và tiến lên vững chắc.
Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang tạo ra những cơ cấu công nghiệp rất mới về
nguyên tắc, so với những cơ cấu công nghiệp đã có trong thế giới hôm qua. Người ta gọi sự
chuyển biến về cơ cấu này là bước quá độ, từ xã hội công nghiệp sang xã hội công nghệ.
Trong quá trình biến đổi lớn lao về cơ cấu công nghiệp mọi tiềm năng sẽ được tận dụng để
đẩy mạnh sản xuất theo nhịp độ chưa từng có, đạt tới năng xuất lao động cao gấp bội so với
hiện tại. Để đạt tới gia tốc phát triển kinh tế- xã hội mong muốn, không thể đi theo con
đường tiệm tiến. Vấn đề đặt ra là, phải có sự thay đổi cơ bản về công nghiệp sản xuất, khai
thác triệt để khả năng của các cơ cấu công nghiệp cả trên bình diện vi mô lẫn vĩ mô, tận dụng
mọi nguyên liệu và những năng lượng “mềm”... Và yếu tố quyết định sự thay đổi này là con
người, là chất xám trên cái “giá đỡ”- con người, do nền giáo dục sản sinh ra.
Khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khi công nghệ đóng vai trò
quan trọng đối với sự đổi mới nền sản xuất và khi giáo dục được coi là nhân tố cơ bản làm
thay đổi lực lượng sản xuất thì cải cách nền giáo dục đại học và gia tăng hiệu suất phục vụ
của nó, không còn là nhiệm vụ tự thân của ngành đại học mà chuyển thành yêu cầu khách
quan của kinh tế - xã hội. Do đó, cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước, giữa các hệ thống
chính trị - xã hội khác nhau, trong một mức độ đáng kể, đã diễn ra dưới hình thức chạy đua
trong lĩnh vực giáo dục, đặt biệt giáo dục đại học, ráo riết và vô cùng quyết liệt. Một trào lưu
cải cách nền giáo dục đại học đang lan rộng dần trên phạm vi toàn thế giới.
Trong bối cảnh ấy, nền giáo dục đại học của chúng ta, cũng cần được xem xét lại trên
nhiều bình diện. Chúng ta hiểu rằng, cải cách giáo dục là một bộ phận của chiến lược giáo
dục, với tư cách là một bộ phận trung tâm của chiến lược con người. Nhưng chiến lược con

người lại chịu sự quy định của chiến lược kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi đặt vấn đề cải cách
nền giáo dục đại học, chúng ta không thể bỏ quan sự phân tích tình hình kinh tế - xã hội để
xác định mục tiêu cải cách giáo dục. Là một nước nông nghiệp lạc hậu, với tiềm năng đất đai
không lớn, diện tích đất gieo trồng tính trên đầu người thuộc loại thấp trên thế giới cũng như
trong khu vực, nông nghiệp của chúng ta không phải là mũi nhọn kinh tế, để lập lại thế cân
bằng với nhiều nước, trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay. Trong khi đó, khoáng sản không
phải là nguồn tài tài nguyên phong phú, để dựa vào đó làm xoay chuyển tình thế khó khăn,
trong kinh tế lúc này.
13


Sức ép nặng nề của dân số đang làm tăng thêm những khó khăn về đời sống, về bố trí
lao động, về phát triển giáo dục. Tình hình ấy nhắc nhở chúng ta rằng, con đường đi lên của
đất nước không chỉ bằng sự khai thác tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu phải bằng con
người, bằng tài nguyên trí tuệ của con người được đào tạo qua hệ thống giáo dục, bằng trình
độ tư duy và hành động của họ.
Cho nên, chúng ta có thể khẳng định rằng, mục tiêu tổng quát của cuộc cải cách giáo
dục đại học lần này là đào tạo một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý
đồng bộ và cân đối cho các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, hình thành nhân cách
toàn diện, năng động và có tốc độ thích ứng nhanh với sự phát triển cực kỳ mau chóng trong
mọi mặt của đời sống xã hội do cách mạng khoa học – kỹ thuật và cách mạng xã hội mang
lại, có đầy đủ năng lực, thể chất và tinh thần để góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội
chuẩn bị những tiền đề và điều kiện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, phấn đầu
theo kịp trình độ thế giới ở một số ngành chung của thời đại. Như vậy, cải cách nền giáo dục
đại học của chúng ta là một hành động chiến lược, là một nhu cầu thực sự của kinh tế - xã
hội, là công việc hợp logic phát triển.
Kể từ ngày miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất, đặc biệt từ ngày Nghị
quyết 14-NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) về cải cách
giáo dục được ban hành (1/11/1979), nền giáo dục đại học của chúng ta đã có những thành
tựu lớn lao. Một hệ thống đại học XHCN thống nhất trong cả nước đã được thiết lập, một

mạng lưới trường đại học và cao đẳng đã được trải ra suốt các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh
phía Nam. Hệ thống đó đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành đội ngũ cán bộ có trình
độ đại học và sau đại học, đáp ứng được một phần nhu cầu cán bộ trong các lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, công nghệ và quản lý của các ngành sản xuất, thuộc nền kinh tế quốc dân. Lần
đầu tiên trong lịch sử, hệ thống đào tạo sau đại học đã hình thành và mau chóng phát huy tác
dụng. Hệ thống giáo dục đại học của ta đã tạo ra một tiềm lực cần thiết để chuẩn bị cho đất
nước đi vào giai đoạn công nghiệp hóa, giai đoạn hết sức quan trọng của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đã góp một phần không nhỏ vào công tác an ninh và quốc phòng.
Vào những năm đầu thập kỷ này, chúng ta đã dựa vào những dự báo phát triển kinh tế
rất không chính xác, để thiết kết chương trình phát triển đại học. Chúng ta đã đánh giá tình
hình lạc quan hơn nhiều, so với hoàn cảnh và điều kiện có thực của mình. Trong thực tế, nền
kinh tế đang đi xuống, cứ từng bước bó tay hệ thống giáo dục lại nhưng lại yêu cầu giáo dục
phải tích cực góp phần tháo gỡ khó khăn chung và đẩy kinh tế lên bước phát triển mới. Đứng
trước mâu thuẫn đó, đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống các trường đại học, đã cố gắng rất lớn
vượt ra khỏi khuôn khổ của cơ chế quản lý cứng nhắc, mạnh dạn tìm một lối đi mới để nền
giáo dục đại học vẫn có thể phát huy được tính tích cực của mình trong hoàn cảnh bị động.
Chủ trương đào tạo theo chuyên môn rộng, theo từng khối kiến thức, theo từng học phần…
là những sáng tạo, vừa giải đáp được nhu cầu đưa nhanh học vấn vào quần chúng, vừa phù
hợp với xu thế cải cách nền giáo dục đối với diện đại trà. Những hình thức đại học ngắn hạn,
theo địa chỉ, đào tạo tại chức, đào tạo “ghi danh”… là những sáng kiến hay có nhiều yếu tố
tích cực cần được khai thác và áp dụng rộng rãi.
Đặc biệt là mấy năm qua, chúng ta đã hết sức cố gắng và rất sáng tạo, trong việc tổ
chức lao động sản xuất, tìm kiếm con đường tự đầu tư, đồng thời coi lao động sản xuất như
14


một phương thức đào tạo cơ bản, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy có thể có những
sơ hở nhất định nhưng phương hướng lao động sản xuất đó là đúng, cần khuyến khích.
Bên cạnh những thành tựu chung nêu ra trên đây, nền giáo dục đại học đã bộc lộ
những yếu kém nhiều mặt, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phục vụ kinh tế - xã hội, phục

vụ quốc phòng. Trước hết, phải nói đến chất lượng giáo dục còn thấp, so với yêu cầu xã hội
đang có chiều hướng tiếp tục giảm sút là biểu hiện cụ thể điển hình, là nhiều học sinh đại học
ra trường đã tỏ ra thiếu năng động trong sản xuất và đời sống, kém thích ứng với những thay
đổi mau chóng của kỹ thuật và công nghệ, thụ động về chính trị. Nguyên nhân chủ yếu để
làm ra sản phẩm ấy là nội dung và phương pháp giáo dục ở đại học đã trở nên lỗi thời và lạc
hậu. Chúng ta đã nhồi nhét lý luận Mạc – Lênin cho học sinh cùng với nhiều khẩu hiệu chính
trị rất hình thức để mong có được ở họ một trình độ nhất định về tư tưởng, đạo đức và chính
trị. Đồng thời, chương trình vừa nặng nề vừa chưa bám sát xu thế hiện đại hóa mà cả thế giới
đang hướng vào. Chủ trương đào tạo theo chuyên môn hẹp đã kìm hãm khả năng đáp ứng
linh hoạt của học sinh, trước những chu kỳ công nghệ, chu kỳ kỹ thuật đang kế tiếp nhau
ngày càng mau hơn. Chủ trương đó cũng làm mất đi khả năng chuyển dịch nghề nghiệp do
những thay đổi, biến động của sản xuất, quy định mà học sinh buộc phải có.
Những thành tựu mới nhất của khoa học – kỹ thuật chưa được phản ánh trong sách
giáo khoa, trong các giáo trình cũng như trong các tài liệu tham khảo. Học sinh đại học thiếu
rất nhiều thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế nên tư duy bị xơ cứng, sự định hướng thiếu
nhanh nhạy, thường thụ động chấp nhận quá nhiều lý thuyết sách vở. Họ đã thiếu hẳn nhu
cầu và hứng thú hoàn thiện kiến thức của mình thông qua thư viện, phòng thí nghiệm, thông
qua hoạt động thực tiễn sản xuất và đấu tranh xã hội, mất đi nghị lực và thói quen đọc sách,
thiếu nguyện vọng theo học môn tự chọn, phong cách học tập của học sinh đại học trong
nhiều trường họp, thiên về lối học ở phổ thông trung học, hơn là theo lối nghiên cứu và tự
học. Ở những mức độ khác nhau cả thầy lẫn trò đã mất liên hệ thường xuyên với sản xuất và
xã hội, do đó tỏ ra bỡ ngỡ hoặc có những biểu hiện xa lạ với cuộc sống hết sức sinh động bên
ngoài. Tình trạng “lão hóa” kiến thức của cán bộ trẻ làm cùn dần tư duy của họ cũng đang
bộc lộ. Còn có một mặt yếu kém khác đang làm giảm sút chất lượng giáo dục đại học cần
phải nói đến là tình trạng lạc hậu đáng lo ngại của những trang thiết bị dạy học, của những
cơ sở vật chất – kỹ thuật ở hầu hết các trường đại học. Sự lỗi thời đến mấy thế hệ trong trang
bị kỹ thuật, cùng sự xuống cấp liên tục của cơ quan trường học đã đến mức cần báo động.
Tình trạng rách nát và tiêu điều trong khu vực làm việc và cảnh sống nhếch nhác trong khu
ký túc xá của một số trường học đã khiến cho nhà trường mất đi tác dụng trung tâm văn hóa,
khoa học, kỹ thuật của mình đối với địa phương có trường đóng.

Đi sâu phân tích cơ cấu đội ngũ cán bộ, có nhiều vấn đề cần phải nêu lên, để tìm biện
pháp giải quyết. Tuy chúng ta đã hình thành được một đội ngũ chuyên gia cho nhiều ngành
thuộc nền kinh tế quốc dân, song số người có trình độ sau đại học so với số cán bộ được đào
tạo ở bậc đại học còn quá ít. Chúng ta còn lúng túng trong việc tìm ra biện pháp nâng cao tỷ
lệ này để đáp ứng những yêu cầu bức thiết về cán bộ đầu ngành, về chuyên gia cao cấp trong
mọi lĩnh vực sản xuất và quốc phòng. Giữa cán bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật với
cán bộ khoa học xã hội, có sự chênh lệch khá xa về số lượng. Tuy vậy, đội ngũ khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật còn thiếu rất nhiều. Đội ngũ cán bộ khoa học xã hội thì quá
mỏng, yếu kém và lạc hậu so với trình độ chung của thế giới. Do đội ngũ cán bộ như vậy,
15


khoa học xã hội của chúng ta đã chậm phát triển, chưa góp phần đắc lực vào việc nâng cao
trình độ văn hóa chung trong nhân dân và trong cán bộ thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên
và khoa học kỹ thuật. Đồng thời, nó cũng chưa làm đầy đủ chức năng xây dựng tư tưởng, cơ
sở triết học cho việc định ra đường lối, chính sách của Đảng. Trong cơ cấu đội ngũ cán bộ,
có nhiều lĩnh vực còn thiếu, loại cán bộ lý thuyết – những cán bộ cấp cao có chức năng định
hướng, thiết kế hoạt động quản lý và chỉ đạo công việc. Mặt khác, chúng ta cũng rất thiếu
cán bộ công nghệ có trình độ bậc cao về “thi công” trong các lĩnh vực sản xuất, văn hóa giáo
dục… Để nâng cao tỷ lệ cán bộ chuyên gia cấp cao so với số cán bộ có trình độ đại học,
chúng ta phải hết sức tranh thủ sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo sau đại học nhưng
đồng thời phải nhanh chóng chuẩn bị mọi điều kiện để chuyển dần sang nguồn đào tạo trong
nước là chủ yếu.
Nền giáo dục đại học còn ít quan tâm phục vụ khu kinh tế tập thể, điều này thể hiện rất
rõ trong cơ cấu bố trí, sử dụng cán bộ có trình độ đại học cho các khu vực kinh tế khác nhau.
Trong khoảng gần 400.000 cán bộ được đào tạo ở hệ đại học hiện chỉ có 4% đang phục vụ
trong khu vực kinh tế tập thể. Như vậy là chưa hợp lý. Hầu như tại các cơ sở sản xuất tập thể,
nhất là các hợp tác xã nông nghiệp, số cán bộ có trình độ đại học hết sức ít ỏi. Trong khi đó,
nền kinh tế tập thể lại có nhiệm vụ lớn lao có vai trò vô cùng quan trọng trong bước đi ban
đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiện nay 5 thành phần kinh tế được Nhà nước thừa nhận.

Để cải tiến tổ chức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, mọi lĩnh vực hoạt động, thuộc 5
thành phần kinh tế này đều cần đến học vấn đại học.
Cùng với việc đào tạo để đáp ứng nhu cầu cán bộ của khu vực kinh tế quốc doanh,
chúng ta phải tính toán đến những biện pháp để có thể đưa dần trí thức đại học vào các khu
vực kinh tế khác, nhằm tạo ra tiềm năng phát triển ở đó.
Hệ thống giáo dục đại học của ta hiện nay đang trong tình trạng bị xơ cứng, có xu
hướng khép kín, đóng khung trong những hình thức đào tạo chính quy là chủ yếu. Về
phương diện tổ chức hệ thống giáo dục đại học rơi vào tình trạng đơn điệu, thiếu đa dạng cần
thiết. Về phương diện vận hành, hệ thống đó thiếu mối liên hệ chặt chẽ với các hệ giáo dục
khác, gắn với đầu vào của mình. Còn ở đầu ra nó bám vào nguyên tắc “đào tạo – biên chế”
một biểu hiện phi lý của tư tưởng bao cấp. Hơn nữa, hệ đại học của chúng ta chưa mạnh dạn
mở ra những kênh mới cho học vấn đại học mau chóng đến với mọi thành phần nhân dân
cũng như mọi thành phần kinh tế.
Cuối cùng phải nói đến chế độ đánh giá thi cử trong hệ thống giáo dục đại học mà lâu
nay trong xã hội có nhiều dư luận không tán thành, đã được công khai nêu lên dưới hình thức
này hay hình thức khác. Cung cách thi tuyển vào đại học hiện nay đã góp phần không nhỏ
làm biến dạng mục tiêu giáo dục ở bậc học phổ thông, làm lệch hướng nguyên lý giáo dục
trong hoạt động dạy và học của thầy trò trường phổ thông trung học. Các kỳ thi thi tuyển vào
đại học đang làm nhiễu quá trình giáo dục toàn diện của trường phổ thông, tạo ra nhiều hiện
tượng tiêu cực thông qua các hình thức chạy học thêm, bồi dưỡng và phụ đạo ngoài giới hạn
chương trình phồ thông trung học.
Những kỳ thi tốt nghiệp đại học cũng bộc lộ một số nét cần phải lưu ý cải tiến. Gắn
bằng tốt nghiệp với việc làm là cách làm không kích thích học sinh cố gắng học tập, Chúng
ta hầu như chưa và không đặt vấn đề thi tuyển để nhằm chọn đúng người có trình độ phù hợp
16


cao với nghề. Hơn nữa, chúng ta lại hết sức lỏng lẻo trong kiểm tra việc sử dụng bằng đại
học nên hiện tượng tuyển người không đúng chuyên môn đào tạo rất phổ biến trong xã hội.
Trong khu vực đào tạo sau đại học cần có chính sách, khuyến khích những người hoạt

động ở cơ sở có công trình thiết thực phục vụ sản xuất,đặc biệt cần chú ý hướng các công
trình vào việc triển khai những chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Chúng ta
cũng cần cải cách chế độ phong học hàm, học vị theo hướng khuyến khích những người có
trình độ sau đại học, dồn hết tâm trí phục vụ khoa học, phục vụ sản xuất, ngăn chặn hiện
tượng chạy theo bằng cấp hình thức, hư danh, khiến cho sự cống hiện sau đào tạo không
tương xứng với công sức và tiền của do Nhà nước đổ vào quá trình đào tạo.
Thực trạng không có gì đáng lạc quan của nền giáo dục đại học, đang đòi hỏi ở chúng
ta phải suy nghĩ lại về toàn bộ cách làm giáo dục những năm qua, định ra những phương
hướng chiến lược, phát triển và xây dựng những hành động chiến lược nhằm làm cho cuộc
cải cách đi đúng quỹ đạo phải đi. Đứng trước yêu cầu đổi mới nền giáo dục đại học, vấn đề
có ý nghĩa quyết định đối với những hành động của chúng ta là phải có những quan điểm
mới về giáo dục nói chung và về giáo dục đại học nói riêng, với sự thấm nhuần sâu sắc tư
tưởng dân chủ hóa xã hội bao hàm tinh thần dân chủ hóa nền giáo dục.
Đặc điểm nổi bật của thời đại chúng ta là sự tập trung sản xuất và sử dụng chất xám,
công nghệ hóa quá trình tái sinh và phát triển chất xám, đầu tư chất xám một cách triệt để
vào những mũi nhọn chiến lược kinh tế của từng quốc gia, vào những vấn đề nóng hổi và cấp
thiết của thời đại. Tài nguyên chất xám có ý nghĩa rất quyết định trong mọi cuộc chạy đua
phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Cùng với cuộc chạy đua về chất xám, một cuộc chiến
tranh thôn tính chất xám cũng bắt đầu. Gần đây, nạn “chảy máu não”, nạn “cạn chất xám”
đang là nguy cơ đối với một số nước do chính sách “hút chất xám” của một số nước khác
gây ra.
Đặc điểm này của thời đại buộc chúng ta phải dứt khoát và triệt để trong quan điểm về
vị trí và chức năng giáo dục.
Một là, chúng ta đặt giáo dục vào trung tâm những vấn đề kinh tế -xã hội, đối với giáo
dục như đối với kinh tế hay nhìn nhận giáo dục như một thứ phúc lợi xã hội;từ đó luôn đặt
giáo dục ở ngoại vi kinh tế - xã hội? Đây là ranh giới phân định hệ thống quan điểm giáo dục
mới với hệ thống quan điểm giáo dục truyền thống đã lỗi thời. Xếp giáo dục vào phạm trù
sản xuất xã hội, cuộc cải cách giáo dục sẽ mang tính chất cách mạng; đặt giáo dục vào phạm
trù phúc lợi xã hội, cuộc cải cách không thể vượt qua giới hạn của sự cải lương nửa vời.
Hai là, khi coi giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một dân tộc, chúng ta phải

khẳng định giáo dục đại học là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là nhân tố đẩy mạnh cách
mạng khoa học kỹ thuât, là yếu tố quyết định chất lượng toàn bộ hoạt động của các lĩnh vực
sản xuất thuộc nền kinh tế quốc dân trong đó có giáo dục phổ thông. Do đó, quan tâm hàng
đầu đến chất lượng giáo dục đại học là thái độ đúng đắn nhất khi triển khai CCGD đại học.
Ba là, trường đại học phải thực sự là nơi sản xuất ra chất xám, hơn nữa, chất xám đó
phải mang chất lượng thời đại. Mỗi học sinh đại học ra trường phải là đại diện của chất xám
17


mới, có tác dụng tốt trong việc giải quyết những vấn đề của thực tế lao động sản xuất đồng
thời còn là vốn dùng vào việc phát triển lâu dài của nền kinh tế đất nước.
Bốn là, trường đại học phải là nguồn đào tạo lực lượng dự bị có chất lượng cao cho
công tác an ninh và quốc phòng, góp phần vào quá trình hiện đại hóa quân đội nhân dân
nhằm tăng cường bảo vệ Tổ quốc và nền hòa bình thế giới.
Trong thời đại chúng ta, do đặc điểm của nền sản xuất xã hội nói trên nền giáo dục đại
học cũng có những đặc điểm mới nổi bật lên so với những giai đoạn đã qua. Trước hết, học
vấn đại học trở thành nhu cầu trong mọi hoạt động nghề nghiệp cho từng lĩnh vực sản xuất
công nông nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, văn hóa nghệ thuật… Vì vậy, nền giáo dục đại
học ngày càng trở thành nền giáo dục của số đông dân cư, nó không còn là nền giáo dục
dành riêng cho một bộ phận nhỏ trong nhân dân, cũng không thuộc “quyền sở hữu” của một
thành phần kinh tế nào. Nền giáo dục đại học phải làm tăng nhanh yếu tố trí tuệ và tiềm lực
chất xám cho mọi lĩnh vực sản xuất xã hội. Từ đặc điểm này, nền giáo dục đại học có đặc
điểm thứ hai cũng rất nổi bật: giáo dục đại học đi theo con người trong suốt cuộc đời hoạt
động của họ dưới hình thức học tập thường xuyên, bồi dưỡng liên tục, nâng cao và hoàn
thiện không ngừng trình độ tay nghề của mỗi người.
Đây là điều kiện hết sức quan trọng để con người định hướng đúng đắn trong đại
dương thông tin ngày càng mở rộng. Mặt khác, hơn bao giờ hết, ngành giáo dục đại học phải
thiết lập được mối liên kết chặt chẽ với sản xuất, với kinh tế, với các cơ quan khoa học. Sự
liên minh này sẽ làm cho mối quan hệ “tri thức – sản xuất” trở nên chặt chẽ hơn, tác động
thúc đẩy nhau phát triển mạnh hơn, đôi bên cùng chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo và

chất lượng sản xuất. Trong sự liên kết, người ta sẽ chuyển một phần của quá trình đào tạo
sang sản xuất hình thành nên những tổ hợp “khoa học – sản xuất” bao gồm những trung tâm
học tập gắn liền với cơ sở sản xuất. Những người đại diện cho kỹ thuật mới, công nghệ mới
đang làm việc cho các nhà máy, xí nghiệp sẽ có trách nhiệm tham gia quá trình đào tạo ở các
trường đại học, còn những cán bộ giảng dạy, những nhà sư phạm có thêm nhiệm vụ bồi
dưỡng cán bộ kỹ thuật, cán bộ công nghệ, cán bộ quản lý… Cuối cùng phải nói đến sự liên
minh quốc tế của giáo dục đại học mà ngày nay đã trở thành một tính chất nhất thiết phải có:
tính quốc tế của nó. Mục đích hết sức cơ bản của trường đại học hiện đại là hình thành ở học
sinh với tư cách là những chuyên gia tương lai, năng lực tư duy mới về nguyên tắc và mới về
chất lượng. Đó là nguồn gốc của những tư tưởng sáng tạo kỹ thuật của những cách giải quyết
về công nghệ và kỹ thuật ngoài truyền thống. Sự liên kết quốc tế sẽ bảo đảm những điều kiện
để trong tư duy học sinh đại học có sự kết hợp giữa yếu tố dân tộc với yếu tố thời đại, giữa
yếu tố truyền thống với yếu tố cách mạng…
Trong giai đoạn mới, hệ thống đại học có trách nhiệm đào tạo những chuyên gia trẻ
cho những năm 2000 mà ở thời điểm đó sẽ xuất hiện những loại nguyên liệu mới, những
dạng năng lượng mới và những quá trình công nghệ hoàn toàn mới. Do đó, khi đặt vấn đề cải
cách giáo dục đại học phải đặt ra vấn đề đóng góp của khoa học (mà hiện thân là trường đại
học) vào sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật, vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội….
Những vấn đề lớn đặt ra đối với sự nghiệp cải cách và phát triển nền giáo dục đại
học
18


Hơn bao giờ hết tình hình kinh tế - xã hội trong nước cùng với sự phát triển vũ bão của
thế giới hiện đại đã gây nên sức ép hết sức mạnh mẽ về đổi mới nền giáo dục đại học, yêu
cầu giáo dục đại học phải vươn lên góp phần đưa đất nước đi vào quỹ đạo phát triển, hòa
nhập với dòng thời đại. Vấn đề trung tâm của công cuộc cải tổ nền giáo dục đại học là cách
mạng hóa và hiện đại hóa con người được đào tạo trong trường đại học Việt Nam XHCN,
làm cho thế hệ trẻ trở thành những lớp người lao động có ý chí cách mạng cao, năng động và
sáng tạo, sẵn sàng về mọi mặt đi vào giải đoạn công nghiệp hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có ý chí cách mạng cao, năng động và sáng tạo là đặc trưng thời đại, trong phẩm chất
nhân cách con người sống và hoạt động trong thế giới sục sôi đấu tranh giai cấp, biến động
mạnh mẽ về khoa học- kỹ thuật. Trường đại học hiện đại, phải in được dấu ấn cách mạng
năng động và sáng tạo vào từng nhân cách học sinh, vào từng tập thể học sinh từ đó vào
phong cách và lối sống của thế hệ trẻ, có học vấn đại học đại diện cho tầng lớp trí thức mới
của đất nước.
Với tư cách là một chức năng hết sức quan trọng của nền giáo dục đại học, quá trình
cách mạng hóa thế hệ trẻ hướng vào việc khắc phục tình trạng thụ động chính trị của không
ít học sinh đại học hiện nay, xây dựng cho họ ý chí và nghị lực cách mạng, không mơ hồ
trước sự đấu tranh giai cấp, có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.
Giáo dục cộng sản phải trở thành chương trình tác động liên tục và mạnh mẽ, xuyên
suốt mọi quá trình đào tạo, mọi hoạt động dạy và học, mọi phong trào học sinh đại học. giáo
dục cộng sản phải hình thành ở thể hệ trẻ tinh thấn trách nhiệm xã hội, tính trung thực, tính
kỷ luật và tính tổ chức như những phẩm chất hàng đầu trong nhân cách XHCN của mỗi
người lao động, mỗi chiến sĩ quân đội nhân dân, mỗi cán bộ và mỗi công dân Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Sự khẳng định chức năng cách mạng hóa thế hệ trẻ của
nhà trường sẽ đòi hỏi một thái độ khác, một nhận thức khác với giáo dục cộng sản. Coi giáo
dục cộng sản chỉ như môn học dạy chủ nghĩa cộng sản, như một giáo lý trừu tượng, chết
cứng, mất hơi thở của cuộc sống, tách đời sống học sinh ra khỏi những hoạt động xã hội,
không để học sinh đắm mình trong các phong trào cách mạng của nhân dân lao động… là
những biểu hiện hình thức chủ nghĩa của giáo dục cộng sản, làm mất khả năng hành động
cách mạng của học sinh đại học, phải được thể hiện cụ thể qua những hành động học tập, lao
động, chiến đấu với ý thức giác ngộ XHCN, giác ngộ giai cấp.
Cùng với việc cách mạng hóa thế hệ trẻ, nhà trường trong giai đoạn mới còn thực hiện
chức năng khoa học hóa các lớp học sinh, trên cơ sở hiện đại hóa triệt để nội dung và phương
pháp đào tạo. Để thực hiện chức năng này, trường đại học phải nhanh chóng trang bị cho học
sinh một hệ thống quan điểm mới, một hệ thống phạm trù và khái niệm mới trong đó phản
ánh trình độ tiên tiến của nền sản xuất hiện đại, xu thế tất yếu của nền kinh tế XHCN, trình
độ văn hóa cao nhất mà người đương thời đạt tới. Quan điểm mới, khái niệm mới là những

“vật liệu” không thể thiếu được cho quá trình đổi mới tư duy mà kết quả mong muốn là đạt
tới những tư tưởng tiên tiến, hiện đại và cách mạng. Để năm bắt được những quan điểm mới,
những khái niệm mới, học sinh đại học phải khai thác được nguồn tài nguyên, trí tuệ phong
phú của nhân loại, phải chiếm lĩnh được kho tàng văn hóa đồ sộ của thế giới trong đó chứa
đựng những học thuyết, những trào lưu tư tưởng và những thành tựu khoa học – kỹ thuật tiên
tiến.
19


Đào tạo con người cách mạng năng động sáng tạo là “đơn đặt hàng” đặc biệt của kinh
tế - xã hội, đối với giáo dục đại học. Để làm ra sản phẩm ấy, trường đại học phải thật sự đổi
mới, thật sự chuyển biến để trở thành một “liên hợp xí nghiệp” có nhiệm vụ tái sản xuất ra
những lực lượng sản xuất mới, tái sản xuất rộng những tư tưởng mới bắt kịp với những bước
tiến của khoa học – kỹ thuật trong thế giới hiện đại. Con người cách mạng năng động, sáng
tạo do trường đại học tạo ra phải đảm bảo những chỉ số phát triển sau đây:
Một là, nhân cách của con người cách mạng năng động đó là sự phản ánh tích cực
những đặc điểm điển hình của thanh niên Việt Nam thời đại đổi mới tư duy, đổi mới phong
cách, thể hiện ra bên ngoài như một kiểu tư duy riêng, phong thái lao động riêng, phương
thức giao lưu riêng. Cùng được một nền giáo dục đại học đào tạo nhân cách học sinh lại
không bị đúc theo một khuôn mẫu cứng đờ với cá tính bị mài mòn và ngược lại, nhân cách
họ không trùng lặp người khác, không hòa tan trong cộng đồng luôn giữ được cái tôi trong
tập thể, không đối lập với tập thể. Cái riêng (cá tính) của học sinh sẽ được trường đại học
phát triển tận lực để thành bản sắc độc đáo, bản lĩnh riêng biệt của học sinh.
Hai là, con người cách mạng năng động không chỉ có khả năng đáp ứng với những
nhu cầu hiện đại của sản xuất, của xã hội mà phải thích ứng linh hoạt với tương lai, với tốc
độ nhanh nhạy, phù hợp với nhiều chu kỳ kỹ thuật, nhiều chu kỳ công nghệ, nhiều chu kỳ
quản lý, nhiều chu kỳ đấu tranh cách mạng sẽ diễn ra trong cuộc đời họ. Trước đây, nền giáo
dục cổ truyền chỉ cần làm cho con người quen với một chu kỳ là đủ. Ngày nay, cách mạng
khoa học kỹ thuật đang rút ngắn dần khoảng thời gian giữa hai chu kỳ, do đó, tốc độ thích
ứng chậm sẽ làm cho con người bị đào thải khỏi hệ thống sản xuất, trở nên xa lạ với những

chuyển biến mau chóng của hệ thống xã hội làm họ mất khả năng di động nghề nghiệp mà
nền sản xuất hiện đại đòi hỏi.
Ba là, con người cách mạng năng động, kết hợp hữu cơ hoạt động lao động nghề
nghiệp với hoạt động chính trị - xã hội. Sự kết hợp này là điều kiện hết sức cần thiết để trong
nhân cách học sinh có sự cân đối giữa những phẩm chất tâm lý – nghề nghiệp và năng lực kỹ
thuật chuyên môn với những phẩm chất chính trị - đạo đức và năng lực giao tiếp xã hội.
Xét trên bình diện toàn xã hội, những con người cách mạng năng động do hệ thống
giáo dục đào tạo ra phải hợp thành một đội ngũ lao động cân đối về cơ cấu, đồng bộ về
ngành nghề. Cơ cấu lý tưởng phải đạt là bên cạnh đội ngũ công nhân có tay nghề cao, ngày
càng đông về số lượng do hệ thống giáo dục chuyên nghiệp đào tạo, hệ đại học phải hình
thành được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn sâu với chức năng thi công, đội ngũ
cán bộ lý thuyết với chức năng định hướng điều hành thiết kế và đội ngũ nhà bác học toàn
diện về lý thuyết và thưc nghiệm. Đội ngũ lao động ấy sẽ có ý nghĩa quyết định trong sự
nghiệp đưa đất nước lên ngang tầm thời đại. Trong đội ngũ nhất thiết phải có những nhân tài
và do đó chiến lược nhân tài phải có ngay từ bây giờ.
Bên cạnh chức năng đào tạo đội ngũ lao động nói trên nền giáo dục đại học còn có
chức năng nghiên cứu khoa học, coi công tác nghiên cứu khoa học vừa như một phương thức
đào tạo cơ bản, nâng cao chất lượng giáo dục vừa là phương thức hoạt động phục vụ những
mục tiêu kinh tế - xã hôi. Trường đại học có những điều kiện cơ bản để tiến hành công tác
nghiên cứu khoa học: là nơi tập trung đông đảo những nhà khoa học, những chuyên gia đầu
ngành và lực lượng to lớn, những học sinh với tư cách là những cộng tác viên, những điều
20


kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định để thực hiện các đề tài nghiên cứu. Gắn công tác
nghiên cứu khoa học của mình với phương hướng phát triển sản xuất xã hội, gắn đề tài khoa
học vào những hợp đồng kinh tế với cơ sở sản xuất là con đường đúng nhất để chức năng
nghiên cứu của hệ thống trường đại học được thực hiện đầy đủ và triệt để. Trong quá trình
thực hiện chức năng này, trường đại học phải có sự kết hợp chặt chẽ với các Viện nghiên
cứu, tạo nên một khối liên minh khoa học to lớn, huy động được toàn bộ lực lượng khoa học

vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn sản xuất và chiến đấu đang đặt ra. Mặt khác việc
mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học cũng là một lối đi đầy triển vọng để
trường đại học vươn lên đỉnh cao của chất lượng đào tạo học sinh, cũng như chất lượng đào
tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy cho chính mình.
Nền giáo dục đại học không chỉ có chức năng đào tạo đội ngũ lao động có học vấn đại
học và sau đại học mà còn có nhiệm vụ nâng cao tiềm lực văn hóa – khoa học trong nhân
dân, đáp ứng nhu cầu học hỏi, phát triển tư duy của các tầng lớp nhân dân lao động. Hơn nữa
những con người được đào tạo trong hệ thống đại học đang hoạt động trên những vị trí nghề
nghiệp khác nhau, cũng cần được bồi dưỡng hoàn thiện không ngừng để luôn bám sát được
đà tiến chung của sản xuất và xã hội. Đối với đối tượng thứ nhất cũng như đối tượng thứ hai,
nhu cầu học vấn và nhu cầu đào tạo liên tục ngày càng phát triển. Trước hiện tượng đó phải
tính đến việc làm “mềm hóa” hệ thống giáo dục quốc dân trong đó phải kể tới hệ thống đại
học theo hướng kết hợp chặt chẽ, giữa giáo dục chính quy với giáo dục không chính quy,
giữa đào tạo với bồi dưỡng, giữa dài hạn với ngắn hạn, hình thành nên hệ thống giáo dục
thường xuyên trong xã hội.
Sự phân hóa các đối tượng đi học theo những mục tiêu sử dụng đa dạng sự kết hợp
nhiều mục tiêu đào tạo, nhiều trình độ đào tạo trong một trường học, sự gia tăng các giáo
trình, các môn học tự chọn, sự áp dụng cách đào tạo theo học phần tạo ra một tỷ trọng đáng
kể các phần “mềm” trong kế hoạch đào tạo là biện pháp hết sức cần thiết, đáng được ủng hộ
để hệ thống giáo dục đại học tránh được trạng thái xơ cứng.
Hình thức giáo dục không chính quy là một biểu hiện cụ thể của tư tưởng “mềm hóa”
hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, xu hướng chung hiện nay là người ta vẫn tìm kiếm nhiều con
đường làm cho hệ thống giáo dục mềm dẻo hơn, cơ động hơn, linh hoạt hơn. Để các hình
thức giáo dục không chính quy nhanh chóng mở rộng, cần phải xác minh quan điểm chỉ đạo
trong đó có tư tưởng tách mục tiêu đào tạo ra khỏi việc bố trí biên chế làm việc, gắn đào tạo
với việc nâng cao dân trí, hoàn thiện tư duy. Những hình thức giáo dục không chính quy có
những ưu điểm mà hệ thống chính quy không có được: nó đáp ứng một cách thiết thực nhanh
chóng yêu cầu nâng cao học vấn và trình độ chuyên môn nghề nghiệp bằng những hình thức
phù hợp với nhiều đối tượng đi học, với nhiều lứa tuổi có nhu cầu học tập với nhiều điều
kiện theo học hết sức khác nhau.

Hệ thống giáo dục chính quy và không chính quy hợp lại với nhau thành một hệ thống
thống nhất trong đó hai hệ thành phần hỗ trợ lẫn nhau, nương tựa vào nhau không mâu thuẫn
và không đối lập với nhau. Hệ thống giáo dục chính quy có trách nhiệm nâng cao chất lượng
đào tạo, làm cho một bộ phận của mình đạt tiêu chuẩn quốc tế, có tốc độ phát triển đuổi kịp
thế giới về một số lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhất định. Còn hệ thống giáo dục không chính
quy lại hướng vào việc tìm kiếm những con đường đi ngắn, hợp lý để nhanh chóng phổ cập
một trình độ văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ trong quần chúng nhân dân mà không làm
21


gián đoạn hoạt động sản xuất của người đi học. Trong giai đoạn trước mắt, coi giáo dục
chính quy như hình thức độc tôn là tư tưởng lỗi thời, không chấp nhận được.
Trong khi quan tâm đến giáo dục không chính quy chúng ta cũng cần nghiên cứu
những hình thức giáo dục phi chính quy ở bậc đại học. Dựa vào những phương tiện thông tin
đại chúng, những cơ sở văn hóa quần chúng… giáo dục phi chính quy mang tính chất hết sức
mềm dẻo, mang lại những nội dung thiết thực (có thể thiếu tính chất hệ thống) đáp ứng được
nhu cầu học hỏi rất đa dạng trong nhân dân. Sự phát triển sản xuất mạnh mẽ với sự thâm
nhập trực tiếp ngày càng nhiều của khoa học và kỹ thuật đã làm nảy nở nhu cầu học tập, nhu
cầu nhận thức của con người, thúc đẩy con người tìm tòi những con đường, những biện pháp
làm hệ thống giáo dục mềm dẻo hơn nữa. Gần đây, nhiều nước đã tạo ra hình thức giáo dục
gọi là cận chính quy nhưng chắc rằng, nó cũng chỉ là một giải pháp bổ sung trong nhiều giải
pháp chưa được phát hiện.
Nền giáo dục cổ truyền, kết thúc nhiệm vụ trước một cá nhân bằng việc dắt dẫn qua hệ
thống giáo dục nhất định, đưa họ đến ngưỡng cửa cuộc đời lao động. Khi nền kinh tế xã hội
ở trình độ thấp kém người ta có thể chấp nhận mức độ tác động giáo dục chỉ ở giai đoạn phát
triển đầu tiên của con người. Nhưng trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay để
bám sát được nhịp độ phát triển nhanh của sản xuất, thích ứng được những biến động và thay
đổi của kỹ thuật và công nghệ phù hợp với đời sống văn hóa của xã hội hiện đại, con người
luôn luôn phải hoàn thiện liên tục lối sống lại là yêu cầu điển hình của kinh tế xã hội đặt ra
trước mỗi con người. Do vậy, sự xuất hiện hệ thống giáo dục thường xuyên là một tất yếu

khách quan, là xu thế phát triển giáo dục đại học. Trong giai đoạn phát triển trước mắt công
tác quản lý phải phát huy được tính độc lập của cơ sở, mở rộng quyền chủ động cho cơ sở.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho công tác quản lý là xây dựng được dự báo chiến
lược phát triển từ đó “đặt hàng” đào tạo cho hệ thống trường đại học. Mặt khác công tác
quản lý còn phải đưa ra được một chiến lược về cơ sở vật chất kỹ thuật cho đào tạo, tương
ứng với những đơn “đặt hàng” tạo điều kiện để kế hoạch phát triển được hiện thực hóa.
Trước mắt, công tác quản lý phải thể chế hóa việc gắn trường đại học với sản xuất, với
đấu tranh xã hội, xây dựng mối quan hệ và trách nhiệm hai chiều “đào tạo – sản xuất”, coi
sản xuất là quá trình đào tạo, cơ sở sản xuất có trách nhiệm với công tác đào tạo ở trường đại
học. Đồng thời, phải nhanh chóng hoàn thiện nhiều cơ chế về lao động sản xuất, về đầu tư
ngân sách cho giáo dục đại học, về xuất khẩu chất xám trong ngành đại học…
Trong công tác quản lý, chúng ta phải chuẩn hóa từng loại cán bộ trong hệ thống, kể
cả giáo viên, đó là yếu tốt rất cơ bản để bố trí lại các lực lượng trong các lĩnh vực quản lý
đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất. Tiếp sau đó là việc tổ chức
thanh tra toàn diện, đặc biệt là thanh tra chuyên môn,nhằm đưa toàn bộ hoạt động của hệ
thống giáo dục đại học tập trung phục vụ nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất đào tạo những cán
bộ có trình độ đại học và sau đại học, cách mạng, năng động, sáng tạo, đáp ứng những nhu
cầu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Một yêu cầu rất đặt biệt đối với công tác quản lý lúc này là khắc phục ngay sự quá
chậm trễ trong đào tạo cán bộ khoa học xã hội, làm lệch cơ cấu đội ngũ. Bằng mọi hình thức
đào tạo, nhất là đào tạo sau đại học, chúng ta phải nhanh chóng có được đội ngũ triết học,
22


kinh tế học, luật học và xã hội học… có đủ điều kiện đưa khoa học xã hội của đất nước tiến
lên.
Những vấn đề cấp thiết cần được đặt ra trong năm học 1987-1988 và trong kế
hoạch 1987-1990.
Trong mấy năm trước mắt, mục tiêu chủ yếu của chúng ta là phấn đấu ổn định tình
hình giáo dục, từng bước kìm lại hiện tượng giảm sút chất lượng giáo dục và hiệu quả đào

tạo, góp phần vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, chuẩn bị tiền đề cho việc phát triển
giáo dục ở bước tiếp theo (1991-1995).
Trong hoàn cảnh và điều kiện khó khăn hiện
nay, cần phải phân tích kỹ tình hình, định ra những công việc thiết thực, vừa sức, tránh nôn
nóng, chủ quan duy ý chí luận và cũng cương quyết chống bệnh hình thức chủ nghĩa. Có
những loại vấn đề sau đây được đặt ra để giải quyết.
1. Những vấn đề có tính chất cấp bách, phải có ngay những giải pháp hữu hiệu nhằm
bảo đảm cho hệ thống khỏi bị biến dạng:
a. Nghiên cứu để trình ngay với Ban bí thư Trung ương Đảng và Thương vụ HĐBT về
chế độ lương bổng và phụ cấp cùng với một số chính sách khác nhằm làm cho giáo viên có
thể sống bằng đồng lương của mình, tập trung chất xám vào công tác đào tạo, bồi dưỡng thế
hệ trẻ, xây dựng ngay một hệ thống chế độ chính sách để khai thác sử dụng và phát huy được
cán bộ, giáo viên giỏi trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, khuyến khích được
giáo viên trẻ mau chóng vươn lên trong chuyên môn.
b. Cấp tốc đề xuất với Ban bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ HĐBT về học bổng
của học sinh, về biện pháp đặc biệt bảo đảm đời sống của học sinh nội trú nhằm làm cho học
sinh có đủ sức khỏe theo học.
c. Tìm kiếm và nhanh chóng xác định các nguồn đầu tư cho giáo dục đại học, tổ chức
triển khai các nguồn đầu tư để hệ thống đại học vận hành và đáp ứng được những yêu cầu
của kinh tế xã hội. Coi lao động sản xuất và hợp tác nghiên cứu trong nước và ngoài nước
như một hướng quan trọng xây dựng vốn tự có, tăng khả năng tự đầu tư của ngành. Cần đề
xuất với Nhà nước và đi đến những giải pháp đặc biệt hữu hiệu đối với đầu tư như xuất khẩu
chất xám trong cán bộ giảng dạy đại học, quyền được sử dụng trực tiếp ngoại tệ mạnh do
xuất khẩu chất xám mang lại để mua sắm trang thiết bị, cải thiện đời sống, triệt để sử dụng
nguồn đóng góp của kiều bào, của những trí thức yêu nước đang ở nước ngoài, cũng như
triệt để khai thác khả năng viện trợ của quốc tế…
2. Những vấn đề quan trọng góp phần vào việc ổn định hệ thống giáo dục, ổn định tình
hình giáo dục. Ở đây cần xác định những việc làm vừa sức, có bước đi và cách làm mềm dẻo
để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
a. Quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị cho học sinh tổ

chức chặt chẽ đời sống của học sinh nội trú, mở rộng sinh hoạt dân chủ trong nhà trường,
đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, cải tiến nội dung và hình thức công tác Đoàn TNCS cho
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tâm lý thanh niên hiện đại: tiến hành tổng kết việc thực
hiện chỉ thị 25CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác giáo dục lý luận Mác
Lênin trong trường học, nâng cao chất lượng giáo dục cộng sản trong hệ thống đại học và
chuyên nghiệp, tích cực hưởng ứng cuộc vận động nâng cáo sức chiến đấu của Đảng, làm
23


trong sạch tổ chức Đảng và lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, nâng cao hiệu lực công tác
của Bộ máy Nhà nước.
b. Nhanh chóng trình Ban Bí thư và Thường vụ HĐBT về cơ cấu hệ thống giáo dục
mới, sắp xếp lại hệ thống trường thật sự hợp lý, mạnh dạn làm “mềm hóa” hệ thống theo
hướng mở rộng hình thức không chính quy để phục vụ năm thành phần kinh tế, chú ý phát
triển hệ thống đại học ngắn hạn gắn với những hợp đồng đào tạo của địa phương và các cơ
sở sản xuất.
c. Nhanh chóng đưa những môn học mới vào kế hoạch dạy học và bổ sung những lý
thuyết mới vào sách giáo khoa, vào các giáo trình cùng với những tài liệu tham khảo theo
hướng hiện đại hóa nội dung giáo dục, chuyển mạnh sang đào tạo theo profil rộng kết hợp
với đào tạo thật chuyên sâu, đối với các mũi nhọn sản xuất. Đồng thời cương quyết rút bớt
thời gian nghe giảng trên lớp, tổ chức học theo các môn tự chọn bên cạnh các môn bắt buộc.
Hình thành những trung tâm phương pháp để giải quyết nhiệm vụ hiện đại hóa phương pháp
đào tạo, xác định những phương pháp đào tạo thích hợp cho các loại trường ở các khu vực,
các địa bàn khác nhau.
d. Đẩy mạnh lao động sản xuất trong nhà trường theo hướng phục vụ 3 chương trình
kinh tế trọng điểm của Nhà nước: cân đối hai mục tiêu của hoạt động lao động sản xuất là cải
thiện đời sống thầy, trò và nâng cao chất lượng đào tạo. Do đó, cần phải gắn chặt lao động
sản xuất với thực nghiệm khoa học, đồng thời gắn chặt cả hai hoạt động này vào những hợp
đồng kinh tế giữa nhà trường với cơ sở sản xuất. Mặt khác, đề nghị Nhà nước thi hành triệt
để chủ trương miễn thuế, đối với mọi mặt hàng do lao động sản xuất của trường đại học làm

ra để nhà trường có điều kiện cải thiện đời sống của thầy giáo và học sinh.
đ. Cải tiến một bước công tác tuyển sinh, chế độ đánh giá – thi cử, bảo đảm thực chất
của khâu tuyển chọn và khâu tốt nghiệp, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong các
công tác tuyển sinh, đánh giá, thi cử, phân phối, sử dụng… Trong công việc này, ngành giáo
dục đại học cần có sự phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục phổ thông, xây dựng hệ thống
tuyển sinh, đánh giá, thi cử hợp lý, thống nhất, có tác dụng điều chỉnh hoạt động học theo
hướng CCGD, xây dựng cơ chế cụ thể đối với việc tuyển lựa công nhân trẻ vào trường đại
học, đưa bộ phận thanh niên ưu tú trong công nhân lên trình độ đại học và sau đại học, tăng
tỷ lệ cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý xuất thân từ giai cấp công nhân.
3. Những vấn đề cơ bản giải quyết để chuẩn bị các điều kiện cho bước phát triển mới
của ngành giáo dục đại học.
a. Tiến hành tổng kết việc thực hiện CCGD theo Nghị quyết 14NQ/TW của Bộ Chính
trị trên cơ sở một hệ thống quan điểm giáo dục triệt để, đề xuất với trung ương những vấn đề
cần điều chỉnh, định ra bước đi và cách làm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.
Tổ chức trưng cầu ý kiến rộng rãi trong cán bộ và nhân dân về điều chỉnh cải cách giáo dục
và phương hướng xây dựng nền giáo dục đại học Việt Nam XHCN.
b. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa đủ
sức bắt tay vào cải cách giáo dục, xây dựng cán bộ đầu ngành cho các bộ môn dạy trong
trường đại học, bằng nhiều con đường nâng nhanh tỷ lệ cán bộ giảng dạy có học hàm, học vị.
Trong quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, chú ý đặc biệt đến đội ngũ cán bộ khoa học xã hội,
nhanh chóng thay đổi bộ mặt của đội ngũ này, chọn một số cán bộ giỏi trong lĩnh vực khoa
24


học tự nhiên, khoa học kỹ thuật có năng lực làm công tác lý luận, để đào tạo thành cán bộ
khoa học xã hội. Cố gắng tìm nhanh phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ dự bị chiến lược,
đặc biệt là đội ngũ nhân tài trong các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
c. Chuyển biến mạnh mẽ công tác quản lý giáo dục theo hướng mạnh dạn giao quyền
cho cơ sở, tiêu chuẩn hóa các hoạt động của cơ sở và nền văn hóa hoạt động đó. Công tác
quản lý của Bộ tập trung vào việc chuyển hướng chiến lược giáo dục đại học và chuyên

nghiệp, đa dạng hóa mục tiêu đào tạo, mềm hóa cơ cấu hệ thống giáo dục, chăm lo đến chất
lượng đào tạo – bồi dưỡng đội ngũ thầy giáo, nâng dần chất lượng đào tạo sau đại học nhằm
tạo tiềm lực khoa học – kỹ thuật, xây dựng mối quan hệ giữa ngành giáo dục đại học và
chuyên nghiệp với các ngành khác trong công tác đào tạo cán bộ của họ, gắn công tác đào
tạo ở các ngành với sản xuất, xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo dục đại học và giáo
dục chuyên nghiệp (bao gồm cả dạy nghề) và với giáo dục phổ thông trong mọi khâu đào
tạo, tuyển chọn, sử dụng… Tìm kiếm những giải pháp nhằm đổi mới các cơ chế quản lý chỉ
đạo, tổ chức điều hành cũ, trước hết cho thí điểm ngay cách chọn cán bộ lãnh đạo các cơ
quan khoa học và quản lý giáo dục bằng phiếu bầu, bố trí cán bộ giỏi làm tổ trưởng bộ môn
nhằm bảo đảm hoạt động có hiệu quả của những đơn vị học thuật, gắn quá trình sử dụng cán
bộ với cách thức kiểm tra định kỳ về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng chế độ đãi
ngộ với những cán bộ có nhiều cống hiến… Đồng thời trong thời gian tới, bộ cần tăng cường
kiểm tra về tính hiện đại của chương trình dạy học, nội dung sách giáo khoa và các phương
pháp giảng dạy và kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ giảng dạy về nhiều mặt,
đặc biệt về các lĩnh vực kinh tế học, triết học….
d. Nhanh chóng xây dựng mối liên kết “trường đại học – viện nghiên cứu” (Viện Hàn
Lâm) nhằm đẩy mạnh chức năng nghiên cứu khoa học của trường, tận dụng công suất của
các trang thiết bị nghiên cứu khoa học ở các Viện, tranh thủ triệt để sự giúp đỡ của hệ thống
Viện nghiên cứu về mọi mặt, trước hết về cán bộ giảng dạy có trình độ chuyên môn sâu và
hệ thống phòng thí nghiệm, thư viện, về trang bị kỹ thuật cho một số bộ môn, một số khoa
của trường đại học.
e. Tập trung lực lượng cán bộ nghiên cứu khoa học vào những thực nghiệm phục vụ
cải cách giáo dục, dành một bộ phận đi sâu vào những dự báo để phát triển giáo dục trong
nước và trên thế giới, bám sát xu thế hiện đại hóa trường đại học, xây dựng những mô hình
trường đại học tương lai.
Chúc hội thảo thành công tốt đẹp. Xin cảm ơn các đồng chí.

25



×